Chương 4 Thực hành Tâm lý học
Chào James, người anh em!” bạn tôi nói, nhe răng cười lớn.
Tôi ôm cậu, vỗ vào cả hai vai. Rồi vẫn giữ vai cậu, tôi đẩy ra tầm một cánh tay để nhìn cho rõ.
“Henry! Thật không thể tin được!”
Một giọt lệ đọng ở khóe mắt cậu ta rồi lăn xuống má.
“Cậu không biết tôi vui mừng thế nào khi gặp cậu đâu, James,” Henry thì thầm, xúc động sâu sắc.
Người đang nói chuyện với tôi đúng là Henry. Chỉ Henry mới nói năng dịu dàng đến vậy được.
“Thanh tra Drew,” Arthur nói với chiếc khăn tay trên mặt. “Xin giới thiệu với ông, đây là con trai tôi, Henry.”
Cơ mặt của Drew chuyển động, cố nặn ra một nụ cười, ông ta nói với giọng ngọt ngào nhưng không giấu được vẻ chua cay đằng sau.
“Rất vui được gặp cậu, anh bạn trẻ, rất vui.”
Trong khoảnh khắc, có thể tưởng nhầm ông ta là một con quỷ đang nghĩ tới nghĩ lui một kế hoạch trả thù khủng khiếp. Mắt ông ta nhuốm màu xanh lá và lóe lên những tia hiểm độc. Làn da trên khuôn mặt xương xẩu ấy có màu sắc kì dị, gợi nhớ một lão già da đỏ đang gắt gỏng phàn nàn.
Trong lúc đó, tôi reo lên đầy hân hoan.
Drew, mặt vẫn đóng băng với nụ cười méo xẹo, khẽ nhếch mép. Trong giây lát tôi cứ nghĩ ông ta sẽ giơ móng vuốt và lao vào xé bạn tôi thành từng mảnh, nhưng ông ta lại tự bằng lòng với dáng điệu thầm khinh bỉ.
“Henry đã trở lại!”
“Henry,” tôi kêu lên bằng một giọng mà chính tôi cũng không nhận ra. “Làm thế nào? Tại sao?”
Đầu óc quay cuồng, hai chân bủn rủn, và thật may cho tôi là có một chiếc ghế bành ở đằng sau để ngả vào.
Tôi nghĩ chính tình trạng kích động của mình đã thúc đẩy Arthur. Ông run rẩy quay lại và sải bước về phía quầy rượu.
“Chúng ta phải uống một chầu vì sự trở về của Henry,” ông cao giọng để che giấu cảm xúc. “Phải uống một chầu.”
Tôi những muốn nói chuyện và hỏi hàng ngàn câu nhưng có cái gì đó nghẹn nơi cổ họng. Tôi vẫn bất động trên chiếc ghế bành với trí não đóng băng. Chỉ mỗi thị giác là còn hoạt động. Tôi có thể thấy Drew, như thú rình mồi, chưa bao giờ rời mắt khỏi khuôn mặt Henry. Arthur, nét mặt tràn ngập hạnh phúc, rót đầy bốn ly rượu đến tận miệng. Henry đi tới gần và vòng tay qua vai tôi.
Arthur dốc một hơi cạn sạch rượu, nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra và nói.
“Tại sao bặt tăm bặt tích những ba năm, hả con trai?” Giọng ông uy nghiêm, nhuốm màu buồn bã.
“Phải đó, tại sao?” Drew lặp lại với giọng châm biếm.
Đầu cúi xuống, Henry đứng im.
“Hầu hết mọi người đều nghĩ con đã chết,” Arthur vẫn tiếp tục với cùng một giọng. “Cha biết điều đó không phải sự thật, nhưng ngay cả như vậy… Và người đàn ông đã chết ở nhà bên là ai? Con có biết không Henry? Con có đọc báo ngày hôm nay không? Con có biết rằng trong mắt tất cả mọi người thì con đã bị sát hại không?”
Henry nhìn lần lượt từng người chúng tôi, và gật đầu.
“Phải, người đàn ông đó là ai?” Drew hỏi, bằng một giọng nhẹ nhàng giả tạo.
Henry vẫn cúi đầu, bước tới lui vài bước. Một lúc lâu sau, cậu mới thốt ra.
“Người đàn ông đó là cộng sự của con, Bob Farr, một người Mỹ.”
“Vậy là con đã ở Mỹ suốt thời gian qua?” Arthur hỏi, mắt ông trợn lên vì kinh ngạc.
“Phải,” Henry do dự nói. “Con… chúng con, diễn ảo thuật thoát hiểm, và cả những tiết mục khác nữa. Anh ta là một diễn viên nhào lộn khi con gặp lần đầu tiên. Một cuộc gặp gỡ định mệnh, vì cả hai đều ngay lập tức nghĩ đến việc có thể lợi dụng sự giống nhau đến kinh ngạc giữa hai người. Cha có thể tưởng tượng được cơ may đó không? Hai người đàn ông cùng nghề, sở hữu những đặc điểm ngoại hình giống hệt nhau. Ôi, để con nói cho cha biết, bọn con đã làm khán giả xúc động mạnh với những màn ảo thuật thoát hiểm kì diệu. Bọn con tùy ý xuất hiện và biến mất, trong khi khán giả nghĩ bọn con chỉ là một người. Và giờ, Bob đã không còn.”
Một sự yên lặng chết chóc.
Arthur, cho đến lúc đó vẫn giữ được bình tĩnh, đột ngột bật khóc.
“Bob Farr không còn nữa,” Drew khẽ khàng nhắc lại, ánh mắt chăm chú nhìn những dòng khói thuốc ông vừa nhả ra đang lập lờ bay lên trần nhà. “Chàng trai, cậu có thể nói cho chúng tôi biết cộng sự của cậu viếng thăm hàng xóm nhà cậu vào buổi tối hôm kia để làm gì không?”
“Không,” Henry trả lời. “Tôi không thể nói vội ông bất cứ điều gì. Không phải lúc này.”
“Không phải lúc này,” Drew lặp lại, nở nụ cười tà ác, nhìn chằm chằm vào đầu thuốc đang cháy sáng của mình. “Tốt thôi, tốt thôi. Cậu có tình cờ biết được anh ta có kẻ thù nào không? Đừng quên là anh ta đã bị sát hại.”
Henry lắc đầu.
“Tốt lắm, tốt lắm,” Drew tiếp tục. “Nhân đây, cậu có biết về chi tiết kì lạ trong cái chết của người cộng sự này không?”*
“Tôi đã đọc báo. Người ta tìm thấy anh ấy bị đâm chết trên tầng áp mái.”
“Đúng thế,” Drew đồng tình. “Đó đúng là nội dung đăng báo, nhưng họ đã lược bớt một số chi tiết nhỏ mà tôi sẽ nói với cậu sau đây. Nhân thể, cậu đi Mỹ về được bao lâu lồi?”
“Tôi mới đặt chân lên đất Anh vài giờ trước. Tôi bắt chuyến tàu đầu tiên về Oxford, và đi taxi về đây.”
“Tốt. Rất tốt, rất tốt. Hoàn hảo.” Drew lôi một cuốn sổ tay ra khỏi túi và ghi chép gì đó. “Tôi sẽ không nhờ cha cậu hồi tưởng các sự kiện của buổi tối bi kịch đó, cũng không nhờ bạn cậu, người có vẻ không định kể một câu chuyện cho mạch lạc. Vì thế tôi sẽ tự mình nói cho cậu biết.”
Nói xong, ông chánh thanh tra yêu cầu:
“Cậu nghĩ sao, chàng trai? Là chuyên gia về những trò ảo thuật, cậu có thể đưa cho chúng tôi vài lời khuyên về vấn đề này không? Hay có lẽ giúp chúng tôi khám phá ra âm mưu xảo trá của tên sát nhân?”
Tay ôm dầu, Henry không trả lời. “Thanh tra,” một lúc sau cậu lên tiếng. “Tôi không thể nói với ông bất cứ điều gì. Chưa phải lúc này.”
Arthur, vẫn chăm chú dõi theo con trai với đầy lo âu, đứng dậy khỏi ghế và đối mặt với Drew.
“Ông thanh tra, tôi không muốn tỏ ra khiếm nhã. Nhưng xin hãy hiểu cho, đã ba năm đằng đẵng tôi mới được gặp con trai.”
Miễn cưỡng rời mắt khỏi khuôn mặt Henry, Drew chậm rãi quay về phía Arthur. “Tôi hiểu, ông White, tôi hoàn toàn hiểu được.”
Ông ta nhận lấy đồ đạc của mình từ tay Arthur, quàng một chiếc khăn màu be quanh cái cổ dài và khoác chiếc áo ngoài thanh lịch. Xong đâu đó, ông ta lại gần Henry và nở một nụ cười thâm thúy.
“Một lời khuyên cho cậu, chàng trai. Đừng có đi đâu xa trong những ngày tới, và hãy nhớ rằng, bất cứ nơi nào ông chánh thanh tra Drew tới, ánh sáng sẽ theo đến đó. Ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau và trò chuyện thân mật một buổi.” Dứt lời, Drew cứng nhắc cúi chào và rời đi.
Cửa chính đóng sầm lại.
“Một tay kì quặc,” Henry nói.
“Hãy đặt mình vào vị trí ông ta,” Arthur nhận xét. “Phải giải quyết một vụ án kì quái… Dù sao thì, con trai, đừng nói là con không biết gì về lí do Bob đến đây!”
Tất cả im lặng trong một lúc lâu, rồi tôi lãnh nhiệm vụ phá vỡ sự im lặng đó bằng hai câu hỏi.
“Henry, cậu có biết cha cậu đã bị tấn công một cách hung bạo vào đúng buổi tối cậu biến mất không? Và còn nữa, vài ngày sau đó tôi đã gặp cậu ở ga Oxford vào đúng thời điểm vợ chồng Latimer cũng nhìn thấy cậu tại ga Paddington? Giờ việc này đã sáng tỏ với tôi. Nhà Latimer nhầm Bob Fan với cậu. Thôi nào Henry, hãy tự mình giải thích đi, đừng để chúng tôi mờ mịt như thế. Ông thanh tra đã đi rồi, cậu có thể giãi bày!”
Henry khẩn khoản nhìn chúng tôi, mắt cậu ầng ậng nước.
“Cha, James, lúc này đừng yêu cầu con, đừng gặng hỏi con bất kì điều gì. Một ngày nào đó, sớm thôi, con sẽ giải thích và mọi người sẽ hiểu. Nhưng lúc này xin mọi người đừng hỏi thêm nữa. Con cần phải suy nghĩ.”
Sáng sớm hôm sau, Drew trở lại để thẩm vấn Henry. Cuộc nói chuyện riêng kéo dài không lâu, và người cảnh sát tức giận cắm đầu rời khỏi ngôi nhà, sau chưa đây mười lăm phút kể từ lúc đến.
Tôi dán mũi vào ô cửa sổ, chẳng khó khăn gì mà không hình dung được chuyện đã xảy ra. Henry hiển nhiên vẫn giữ im lặng bất chấp thái độ khó chịu gay gắt của Drew.
Ngày hôm đó trôi qua như dự kiến, cả ngôi làng sửng sốt trước sự ‘phục sinh’ của Henry. Cho đến lúc mẹ đi mua sắm trở về, tất cả mọi người đều đã nghe chuyện. Hàng thịt, hàng bánh mì, không kể hàng tạp phẩm, đều chỉ có một từ trên môi: “Henry”.
Tôi không mạo hiểm đi ra ngoài ngày hôm ấy, thay vào đó tôi nhốt mình trong phòng riêng, cố gắng sắp xếp vô vàn suy nghĩ đang huyên náo trong tâm trí rối bời của mình.
Cũng vào tối hôm đó, John và Elizabeth ghé thăm. Em gái tôi, vị thanh tra mặc váy, thử dùng vẻ thơ ngây của mình để moi móc các bí mật đen tối của tôi. Việc đó chẳng mang lại thành quả gì, mặc dù em đã được nghe mọi điều tôi biết. John, cũng như cha mẹ tôi, tỏ ra lo lắng và hầu như không nói gì. Qua khuôn mặt mọi người, có thể thấy rõ niềm vui vì Henry còn sống. Riêng chuyện đó thôi đã là tin tốt, nhưng tất cả chúng tôi đều đang đề phòng chờ đợi những diễn biến tiếp theo. Một cảm giác kịch tính không thể tránh được tràn ngập trong không khí. Và, thực tế, sự chết chóc - kì lạ và không thể giải thích được - lại sắp sửa ập đến ngôi làng của chúng tôi.
Kể từ khi Henry trở lại, thanh tra Drew chưa từng rời khỏi khu này. Ông ta lang thang khắp nơi, gõ cửa từng nhà, chất vấn từng người một. Khỏi phải nói, cha mẹ và tôi là những người đầu tiên đón tiếp những chuyến viếng thăm ấy. Ông ta thẩm vấn chúng tôi rất lâu về Henry, về tuổi thơ, sở thích và con người cậu ta. Tóm lại, Nhà tâm lí học đã vào cuộc.
Báo chí tiếp tục hành động vớí sự cẩn trọng hợp lý. Thỉnh thoảng cũng có những bài báo nhắc đến sai sót trong việc nhận dạng thi thể, nhưng không nằm trên tiêu đề trang nhất như chúng tôi tưởng. Không có gì về vụ sát hại trong căn phòng khóa kín, hay sự tái xuất đầy bí ẩn của con trai một nhà văn nổi tiếng. Tôi ngờ rằng Arthur có nhiều ảnh hưởng hơn tôi vẫn nghĩ.
Tôi đến gặp Henry vào tối hôm sau. Cậu ta tâm sự hàng giờ liền về nước Mỹ, về những buối lưu diễn đã dàn dựng cùng với Bob Farr bản sao của mình, và về sự giống nhau không thế tin nổi giữa họ đã đánh lừa đám đông một cách ngoạn mục. Tôi hỏi cậu về kế hoạch sau này. “Tôi không biết, James,” cậu trả lời. “Tôi phải suy nghĩ kĩ đã. Chỉ là ngay bây giờ thì tôi chưa biết.” Rồi khi tôi nêu ra chủ đề cấm kị về cái chết của Bob thì, “Để sau, James, để sau đi. Để tôi suy nghĩ đã.”
Và rồi đến buổi tối nổi tiếng đó, buổi tối mà tôi hay bất cứ ai có mặt đều không bao giờ quên được, đặc biệt là ông chánh thanh tra Drew. Gần một tuần đã trôi qua từ khi Henry trở về. Thể theo đề nghị của Drew, Arthur đã tập hợp tất cả những người có liên quan đến vụ việc tại nhà ông vào buổi tối cuối tháng Mười Một lạnh lẽo ấy. Ngọn lửa cháy lèo xèo trong lò sưởi gần như chẳng ảnh hưởng là bao tới không khí băng giá của căn phòng. Hơn nữa, việc Drew dẫn tới hai sĩ quan cảnh sát chẳng khác nào xô nước lạnh giội vào chúng tôi, đặc biệt là khi họ đứng gác ngay cửa phòng khách, với mục đích lộ liễu là chắn lối ra.
Vợ chồng Latimer ngồi trên trường kỉ. Alice, mặt tái nhợt, ngồi rúc vào người chồng trông cũng không được thoải mái là mấy. Ngồi bên phải họ, John và Elizabeth đang run lên vì mong chờ. Arthur và Victor đã yên vị trên ghế bành còn Henry và tôi chiếm hai ghế hai bên lò sưởi. Với bờ vai rộng và eo thon, bạn tôi trông lịch lãm trong bộ com lê nhung màu ghi, nơ bướm và áo sơ-mi xanh. Nhưng cậu ta lại chống khuỷu tay lên hai đầu gối, chăm chăm nhìn xuống sàn nhà, và điên cuồng xoay tròn hai ngón cái.
Thanh tra Drew, tay đặt sau lưng, đứng đối mặt với lò sưởi. Ông ta đột nhiên quay lại, với giọng sang sảng, ông tuyên bố giật gân.
“Thưa quý ông và quý bà, đỉều bí ẩn xung quanh cái chết của Bob Farr sẽ được làm rõ vào tối nay. Hơn thế nữa, kẻ thủ ác cũng đang có mặt trong phòng vào lúc này!”
Một cơn rùng mình sợ hãi quét qua căn phòng nhưng không ai lên tiếng. Drew bình tĩnh châm một điếu thuốc, rít vài lần, và tiếp tục.
“Kể từ giờ phút này, tôi yêu cầu mọi người không ngắt lời. Những gì tôi nói tiếp theo đây thoạt đầu có vẻ không liên quan gì đến vụ án. Tôi nói ‘thoạt đầu’ bởi vì sau đó mọi người sẽ hiểu. Vì thế, tôi lặp lại lần nữa, ngay cả khi những gì tôi nói có vẻ vô lí, xin đừng ngắt lời.”
Drew thò tay vào túi áo vét và lôi ra một quả bóng cao su rồi tiếp tục tung từ tay này sang tay kia. Một nụ cười khỏ tả thoáng xuất hiện trên môi ông ta. Ông ta giơ quả bóng lên cho tất cả mọi người cùng xem.
“Hãy nhìn và nói cho tôi biết quý vị thấy cái gì.”
Đó rõ ràng là một câu hỏi ngớ ngẩn mà không ai trả lời. Hài lòng với hiệu ứng mình gây ra, ông ta tiếp tục.
“Quả bóng này là vũ khí giết người! Hay đúng hơn, nó đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra hiệu quả ngoạn mục khi thực hiện vụ sát hại trong phòng kín. Tôi tin là mình không lầm khi nói rằng vài người ở đây vẫn nghĩ vụ giết người này do một con ma gây ra.”
Ông ta ngừng lời giây lát và cất lại quả bóng vào túi.
“Lúc này, tôi không phủ nhận sự tồn tại của linh hồn. Chỉ người nào ngu ngốc mới gạt bỏ những gì anh ta không thể giải thích được. Nhưng ở vụ án này, có một điều chắc chắn đó là chúng ta đang đối phó với một tên sát nhân chứ không phải một con ma. Một tên sát nhân khôn ngoan, hiểm ác.”
Im lặng như tờ.
Từ trên bệ lò sưởi, Drew cầm lên một cuốn sách bìa tím mà ông ta mang theo. Vừa lật những trang sách, ông vừa khẽ nhếch môi thành một nụ cười chế nhạo, ông khua quyển sách trong không trung và xướng lên bằng giọng trang nghiêm.
“Toàn bộ câu chuyện về vụ sát hại đều nằm trong cuốn sách này! Mọi thứ đều ở đây.” Drew cầm quyển sách bằng cả hai tay và nhìn xoáy vào nó một lúc lâu. “Chỉ có kẻ mù mới không hiểu.”
“Hiện tại,” ông ta khiêm tốn bổ sung. “Không phải tự dưng mà người ta gọi tôi là Nhà tâm lí học.”
Trước vẻ sững sờ ra mặt của các khán giả, ông ta tiết lộ tiêu đề của cuốn sách, Huyền thoại Houdini.
“Xin phép kể cho quý vị nghe về cuộc đời của Houdini,” Drew tiếp tục, hiển nhiên rất hài lòng với bản thân. “Tôi sẽ bắt đầu với các kì tích, sau đó bàn đến vấn đề tâm lí của ông ta. Và để tôi nhắc lại một lần nữa, bất kể mọi người nghĩ gì, xin đừng ngắt lời tôi.
“Tôi tin rằng mọi người đều đã từng nghe về Harry Houdini, ‘Vua tháo còng’, ‘Nhà vượt ngục bất tử’, ‘Hoàng tử của những nghệ sĩ thoát hiểm’… Vào giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỉ, người đàn ông này đã quyến rũ công chúng, mê hoặc các tổng thống và làm sửng sốt các vị vua. Thành công đầu tiên của ông ta là vào năm 1898, trang nhất tờ Chicago kể lại câu chuyện rằng, ‘Houdini, Vua tháo còng, đã thách thức Sở cảnh sát Chicago cùm tay ông trong hơn một giờ sau song sắt nhà tù tiểu bang.’
“Ngay lập tức, cảnh sát chấp nhận lời thách thức, và Houdini bị nhốt trong ngục dưới sự giám sát nghiêm ngặt. Vô số phóng viên tụ tập trong văn phòng giám đốc nhà tù ngóng chờ sự kiện này. Họ không phải đợi lâu vì chỉ vài phút sau, Houdini đã bước vào phòng, thoát khỏi mọi gông cùm. Sự ngạc nhiên không kéo dài lâu vì một phóng viên đã quy kết Houdini cất giấu một bộ dụng cụ cạy khóa trên người. Houdini liền tình nguyện lặp lại thử nghiệm, Iần này trước tiên ông tự nguyện trải qua một cuộc khám xét kỹ càng. Một bác sĩ đã tiến hành kiểm tra nhưng không tìm thấy gì cả và Houdini vào ngục một lần nữa, lần này hoàn toàn khỏa thân. Quần áo của ông được đặt ở một xà lim khác, cũng bị khóa. Sự chờ đợi trong văn phòng giám đốc lần này còn ngắn hơn, và khi thấy Houdini xuất hiện trở lại trong trang phục của chính mình, các nhà báo đã hoàn toàn choáng váng.
“Hai năm sau, tức năm 1900, Houdini đặt chân đến nước Anh. Sự xuất hiện của ông đã mê hoặc khán giả Anh, đặc biệt là thách thức cuối mỗi buổi diễn. Ông sẽ để một khán giả bất kì còng tay mình lại, và đảm bảo sẽ thoát ra trong phút chốc. Sở Cảnh sát Thủ đô đã thách đố ông thoát khỏi sự giam giữ của họ - một trong những sở cảnh sát nổi tiếng nhất thế giới. Vui mừng trước cách thức truyền bá rộng rãi đó, Houdini đương nhiên chấp thuận. Nhà ảo thuật được đưa vào một hành lang, thoạt tiên người ta yêu cầu ông phải ôm một chiếc cột, sau đó khóa cổ tay ông bằng một cái còng đúng tiêu chuẩn. Cảnh sát tự tin rút lui vì trốn thoát khỏi tình huống đó là điều không tưởng. Họ mới đi được vài bước thì nghe thấy Houdini nói, ‘Nếu các anh quay trở lại văn phòng, thì đợi tôi với, tôi sẽ đi cùng các anh.’ Họ quay lại, kinh ngạc hết sức khi thấy Houdini đang theo chân mình!
“Kì tích đó đã làm dấy lên một làn sóng quan tâm tới nghệ sĩ giải trí người Mỹ này. Người dân Luân Đôn tụ tập thành những đám đông hàng ngàn người để chứng kiến tận mắt người đàn ông dám thách đố sở cảnh sát quốc gia. Chuyến lưu diễn châu Âu của ông thành công tốt đẹp, các nhà hát lớn tại Berlin, Dresden, Paris và ngay cả Moscow đều chi những khoản kếch sù để mời ông trình diễn hiện tượng mới mẻ này. Đối với một người bình thường, Houdini là một thầy phù thủy, một phù thủy với những năng lực kì dị, và - nghe có vẻ rất tuyệt vời - là một thầy phù thủy gần như ngày nào cũng bị triệu tập đến một bồi thẩm đoàn để thi triển phép thuật.
“Chuyến lưu diễn châu Âu đạt đến đỉnh cao thành công tại Moscow vào năm 1903. Chắc hẳn mọi người đều đã nghe nói tới chiếc xe ngựa bọc thép chuyên chở các tù binh chính trị người Nga tới Siberia. Thân xe được bọc thép dày cả sáu mặt, và do bốn con ngựa kéo. Nhà tù di động này chỉ có một cửa sổ tí hon và một cửa chính lắp khóa bên ngoài. Hơn nữa, một khi cửa đã khóa lại, thì chỉ có chiếc chìa khóa mà cảnh sát ở đích đến đang giữ mới có thể mở ra được. Thoạt nhìn, việc một người trốn thoát trong hoàn cảnh đó tưởng như là bất khả, nhưng Houdini đã lật đổ thử thách. Sau quá trình kiểm tra gắt gao và kĩ lưỡng nhất của người giám sát, Houdini được đưa vào chiếc xe bọc thép đi đến Siberia. Chưa đầy một giờ, ông đã đào thoát thành công.
“Rồi Houdini trở về châu Mỹ, ông xuất hiện ở mọi thành phố lớn trên đất Mỹ. Ở mỗi nơi, lực lượng cảnh sát địa phương đều nhận được thiệp thăm viếng với nỗi e sợ. Ông thành công ở bất cứ thử thách nào, nhất là ở Washinton, nơi ông đã giải phóng toàn bộ tù nhân khỏi ngục trong khoảng thời gian kỉ lục.
“Nhưng người bạn của chúng ta không chỉ dừng lại đó. Ông ta lặn xuống những dòng sông băng với xiềng xích trên tay và chân, hay với hơn ba mươi sáu cân trọng lượng buộc dưới cổ chân! Ông có thể thoát khỏi một chiếc áo trói thân chỉ trong vài phút ngay cả khi bị treo ngược lơ lửng trên một tòa nhà mười tầng! Ông ta đã bị khóa kín trong một quan tài chôn sâu gần hai mét dưới đất! Ông đã thoát khỏi những căn phòng bọc sắt! Trên thực tế không gì có thể cản ông lại: còng tay, xiềng xích, áo trói thân, dây thừng, xà lim, quan tài, rương khóa móc, phòng bọc sắt, túi đựng thư niêm phong bằng sáp, vân vân và vân vân; ông ta luôn trốn thoát được! Chưa hết. Ông ta đã làm biến mất một con voi, và đi xuyên qua một bức tường gạch!
“Người đàn ông nắm giữ cả thế giới trong lòng bàn tay này chết vào tháng Mười năm 1926 vì một tai nạn ngớ ngẩn. Theo đề nghị của ông, một khán giả đã dẫm vào bụng ông và…”
“Thanh tra Drew,” Arthur kiên quyết cắt ngang. “Tất cả chúng tôi đều biết về Houdini. Câu chuyện về người đàn ông này quả thật rất hấp dẫn, nhưng ông có thực sự tin rằng giờ là lúc thích hợp để kể không?”
Drew thoáng cười.
“Câu chuyện về Houdini liên quan trực tiếp tới cái chết của Bob Farr. Tôi phải thừa nhận mình đang đi hơi xa vào những kỳ tích của ông ta, nhưng bây giờ chúng ta sẽ nói đến trọng tâm vấn đề: tâm lí của Harry Houdini. Một lần nữa, tôi phải yêu cầu mọi người đừng ngắt lời và lắng nghe thật chăm chú những điều tiếp theo đây vì chúng chứa đựng lời giải thích cho bí ẩn này.”
Các thính giả sững sờ trong yên lặng, sợ hãi trước những lời giật gân đó. Ngừng một lát, Drew tiếp tục.
“Harry Houdini, chắc mọi người đã biết, là một nghệ danh. Tên thật của ông ta là Ehrich Weiss. Ông sinh vào ngày 6 tháng Tư năm 1874, nhưng không rõ nơi sinh mặc dù người ta đồn rằng ông ta sinh ra tại Budapest. Từ nhỏ, ông đã mua vui cho bạn bè bằng những trò tiểu xảo, và nghe đồn cuộc đào thoát đầu tiên của ông ta là ra khỏi cái tủ bếp của bà mẹ. Từ khoảng bảy tuổi, ông đã thường xuyên lui tới các rạp xiếc, và năm mười bốn tuổi thì đã sáng tạo ra tiết mục ảo thuật của riêng mình và diễn cùng một người bạn. Houdini không phải một nghệ sĩ lớn. Chỉ có luyện tập thể dục chăm chỉ, tình yêu nghề, ý chí sắt đá và tham vọng cháy bỏng mới đưa ông tới thành công.
“Phải, tham vọng của người đàn ông này là không giới hạn, thấy rõ qua sự nghiệp chói lọi của ông. Khát vọng tỏa sáng và không ngừng đem lại bất ngờ cho công chúng của ông đã buộc chúng ta phải coi Houdini như một cá nhân có tâm lí giản đơn, hoàn toàn bị chi phối bởi bản chất hiếu kì. Từng giây từng phút, ông ta mạo hiểm mạng sống, vượt lên giới hạn của bản thân mỗi lần biểu diễn để không làm công chúng thất vọng, và không bao giờ vắng mặt lâu khỏi trang nhất báo chí. Tất cả đều nhắc chúng ta nhớ đến một đứa trẻ ngỗ ngược. Ông ta có thái độ hiếu kì trước phái nữ. Nhút nhát và ghen tuông một cách thái quá mà không cần lí do đối với vợ, ngưỡng mộ quá mức đối với mẹ.
“Năm 1916, Houdini và vợ có mặt trên một chuyến tàu thủy chạy bằng hơi nước hướng về phía châu Âu. Một tối nọ, ngay giữa chuyến hành trình, ông đột nhiên tỉnh dậy trong cabin của mình, và nằm thổn thức trên giường do bị một nỗi đau buồn lớn lao xâm chiếm. Về sau ông ta mới biết rằng, vào đúng thời khắc đó, mẹ ông đã mất vì trụy tim.”
Tôi giật mình. Cái chết của mẹ Henry bỗng xuất hiện trong đầu. Henry đã có linh cảm tương tự về cái chết của bà. Nhưng Drew không thể biết được vì đó là bí mật giữa Henry và tôi. Tôi bắt đầu nắm được ngụ ý của viên thanh tra, đó là vạch ra sự giống nhau giữa cuộc đời Houdini và Henry.
Nhưng với mục đích gì? Tôi liếc trộm bạn mình: Henry không còn nhìn xuống nữa, mà đang chằm chằm nhìn ông thanh tra như thể nuốt từng lời từng chữ của ông ta.
“Houdini yêu mẹ mình.” Drew nói tiếp. “Ông ta sùng bái bà, yêu thương bà, vây bọc bà bằng quà cáp. Cái chết của bà là cơn khủng hoảng đối với ông, ông ta đắm mình trong nước mắt và rơi vào một cơn tuyệt vọng không gì có thể xoa dịu. Như lẽ tự nhiên, ông ta không còn xuất hiện trên sân khấu. Thậm chí còn chuyển sang tìm kiếm sự khuây khỏa ở một niềm tin lạ lẫm với chính mình: duy tâm. Ông ta thử nghiệm ở lĩnh vực này với nỗ lực gặp lại người mẹ đã khuất, nhưng những cuộc ‘gọi hồn’ luôn thất bại, và nỗi tuyệt vọng biến thành cơn thịnh nộ. Ông ta quyết định nhẫn tâm trả thù những nhà ngoại cảm đã làm ông thất vọng và phũ phàng vạch trần những thủ thuật của họ. Rất nhiều người tự xưng là có ‘năng lực’ đã bị Houdini hủy hoại bằng quyết tâm vạch mặt họ một cách tàn nhẫn.
“Dầu vậy, chúng ta không thực sự biết suy nghĩ thầm kín của Houdini về thế giới tâm linh. Một số người nói rằng sâu thẳm bên trong, Houdini quả thật tin vào các hiện tượng siêu nhiên. Trên thực tế, trong lúc hấp hối, ông ta đã để lại cho người vợ thân yêu một lời nhắn về cách liên hệ với ông ở thế giới bên kia. Bess Houdini mất năm 1943, và chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu Houdini có thành công trong việc vượt qua những rào cản không thể phá vỡ đó hay không.”
Kết thúc bài diễn thuyết của mình, Drew gấp sách lại và nhìn khán giả với ánh mắt hài lòng.
“Quý vị vẫn chưa nhận ra sao?” ông ta hỏi.
Arthur đứng dậy khỏi chiếc ghế bành và trả lời, “Nhận ra cái gì? Có những tương đồng nhất định về tính cách giữa con trai tôi và Houdini, tôi công nhận, nhưng thế thì sao?
Ông thanh tra, tôi e rằng cái hư danh Nhà tâm lí học đã ám vào đầu ông và khiến cho ông ảo tưởng về những dữ kiện không có thật.”
Drew đáp lại bằng một nụ cười, ông ta bước vài bước tới lò sưởi rồi dừng lại nhìn cả nhóm.
“Những tương đồng nhất định về tính cách,” ông ta khẽ nói. “Tôi đã dành nguyên ba ngày để thăm dò tất cả những gì liên quan đến Henry, bạn bè, và gia đình cậu ta. Chúng tôi đã đàm đạo về tuổi thơ, sở thích, và tính cách cậu ta. Tôi đã biết được rất nhiều điều trong ba ngày đó.” Nụ cười của ông ta biến mất, giọng nói run lên. “Tôi có thể nói một cách chắc chắn rằng những điều tôi biết về Henry không ít hơn bất cứ ai trong quý vị. Nhưng thế cũng không có gì đặc biệt, là công việc của tôi mà. Nghiên cứu về tâm lí, đó là tất cả những gì tôi làm.
“Bởi vậy, tôi sẽ cùng quý vị xem xét tỉ mỉ về ‘những tuơng đồng nhất định’ giữa Henry và Harry Houdini. Bọn họ đều bị sinh non. Không có gì bất thường quá ở đây, hãy để tôi tiếp tục. Từ nhỏ, bọn họ đều mua vui cho bạn bè bằng những trò tiểu xảo, họ đều trở thành chuyên gia cạy khóa, đều bị rạp xiếc mê hoặc. Hai đứa trẻ đó chỉ có một khao khát duy nhất: làm cho người khác kinh ngạc và sửng sốt, trở thành trung tâm của sự chú ý. Giờ quý vị đã hiểu chưa? Quý vị đã thấy rõ được tính tự phụ cực độ, lòng kiêu hãnh vô hạn của họ chưa?”
Tôi chực nói, nhưng Arthur White đã át đi.
“Ông thanh tra, ông cường điệu quá, thổi phồng quá mức rồi. Những điều ông nói đều đúng với mọi nghệ sĩ, ở một mức độ nào đó,” ông nhăn nhó bổ sung.
Lời nhận xét của Arthur chính xác đến nỗi làm Drew khó chịu. Ông ta xoay người, cầm cuốn sách lên, rút ra một bức ảnh kẹp bên trong. Ông ta đắc thắng vẫy bức ảnh và tuyên bố.
“Hãy nhìn xem, đây là bức ảnh của Harry Houdini. Nó không gợi quý vị nhớ đến ai trong phòng ư?”
Nét tương đồng với Henry thật đáng kinh ngạc: khuôn mặt to rộng, tóc chải ngôi giữa, cùng một ánh nhìn, cùng một dáng người chắc nịch. Nhưng hẳn phải có hàng nghìn người như thế trên thế giới.
Henry, nghe không sót một từ nào trong cuộc độc thoại của ông thanh tra, nhìn không chớp mắt vào bức ảnh, hoàn toàn bị thôi miên. Ngoài cậu ta ra, không ai có vẻ đặc biệt hứng thú xem bức ảnh.
Đột nhiên Arthur bắt đầu cười lớn, tràng cười có chủ ý này ngay lập tức làm gián đoạn câu chuyện.
“Quá lắm rồi, ông thanh tra. Nếu đây là một trò đùa thì nó quá dở. Tôi thật ngạc nhiên khi một người với thanh danh như ông lại có thể hạ mình tới độ…”
“Ông White,” Drew ngắt lời ông, mắt rừng rực. Ông ta nói tiếp, giọng nhẹ nhàng hơn cùng điệu cười khinh khỉnh. “Ông White, hay tôi nên gọi là ông Weiss?”
Arthur rụt lại, khuôn mặt bất chợt phờ phạc đi trong khi lắp bắp, “Nhưng, nhưng làm thế nào ông…?”
“Làm công việc của mình thôỉ. Tôi đã tiến hành điều tra toàn diện về tất cả những người có liên quan chặt chẽ đến vụ án. Và kết quả là, tôi đã phát hiện ra ông là một người gốc Hungary, sinh ra tại Budapest và mang họ thật là Weiss. Cái họ Weiss mà ông đã chuyển thành White khi ông đến nước Anh năm 21 tuổi. Đúng vậy không?”
Tiếng lầm bầm của Arthur gần như không thể nghe thấy. “Phải.”
“Chúng tôi đã cố đào sâu hơn nhưng không thành công. Ông mồ côi cha mẹ, đó là tất cả những gì chúng tôi có thể tìm được. Để tôi nhắc lại với ông rằng họ thật của Houdini là Weiss, và hình như ông ta cũng được sinh ra ở Budapest.”
“Thanh tra,” Arthur nói, giờ đã bị khuất phục, giọng ông run rẩy. “Weiss là một họ phổ biến. Việc tôi mồ côi và không biết cha mẹ hay bất cứ ai trong gia đình không chứng minh được điều gì. Nhưng thực ra ông muốn phô bày cái gì, vì Chúa? Rằng trong người Henry đang chảy dòng máu của Houdini? Rồi sao? Ngay cả khi đó là sự thật, tôi không hiểu tại sao việc đó lại khiến ông quan tâm.”
“Tôi sắp giải thích đây,” Drew bình tĩnh nói. “Không có gì hệ trọng cho dù Henry có liên hệ với Houdini hay thực ra anh ta chính là nhà ảo thuật đầu thai.”
“Đầu thai?” Arthur giận dữ. “Con trai tôi, đầu thai? Ông thanh tra, lần này ông đã đi quá xa rồi.”
“Cha,” Henry ngắt lời. “Xin cha, chúng ta hãy nghe xem ông thanh tra nói gì.” I
Drew nhìn xoáy vào Henry trước khi tiếp tục.
“Chàng trai trẻ, giờ chúng ta có thể đi đến điểm chính. Cậu sùng bái mẹ mình, giống như Houdini. Không phải một mối quan hệ mẹ con bình thường, mà méo mó đến mức cậu rơi vào một hố sâu không đáy của nỗi khổ đau khi biết sự ra đi của bà. Giống hệt như Houdini. Khóc lóc tuyệt vọng, ngập chìm trong lệ sầu không gì ngăn lại được. Mọi người sợ cậu sẽ tự sát. Đừng cố phủ nhận, chàng trai, tôi nắm rất rõ thông tin. Mức độ đau đớn của cậu, như mọi người trong làng đều biết, hoàn toàn bất hợp lí, cũng hệt như khi cậu làm một đứa con sùng kính tận tụy quá mức.
“Giờ chúng ta hãy quay lại ba năm về trước và điểm lại các sự kiện theo tuần tự thời gian. Đầu tháng Chín năm 1948, một vụ tai nạn ô tô bi thảm đã cướp đi mạng sống của bà White. Henry, như chúng ta thấy, không thể nguôi ngoai được. Một vài tuần sau đó, người ta đồn rằng Henry và cha cậu thường xuyên cãi cọ. Trên thực tế, đó không chỉ là lời đồn thổi, mà là sự thật. Những cuộc tranh cãi trở nên dữ dội và thường xuyên hơn nhưng kì lạ thay, dường như không ai biết lí do là gì. Sau đó, cuối tháng Mười một năm đó, ông White đã bị tấn công. Tôi nói ‘tấn công’, nhưng thực ra là ‘mưu toan sát hại’ vì ông White sống sót là một điều kì diệu. Ai đó đã cố hết sức hòng sát hại ông. Rồi, hoàn toàn trùng hợp, Henry biến mất.”
Drew lướt mắt nhìn xung quanh và nói tiếp với giọng gay gắt.
“Các vị vẫn chưa nhận ra?”
Căn phòng lặng thinh.
“Tốt lắm. Tốt lắm, tôi sẽ nói cụ thể cho mọi người rõ. Henry không chấp nhận cái chết của mẹ. Cậu ta phản ứng.
“Một tuần sau đó, hai người họ rời khỏi đất nước. Họ thu xếp gặp nhau tại ga Paddington. Như thể định mệnh sắp đặt, họ bị bắt gặp vào cùng một thời điểm, một người ở ga Oxford bắt tàu tới Luân Đôn, còn người kia đang đợi anh ta ở đó, vì trông giống nhau y như đúc nên người ta thậm chí tin rằng Henry có thể phân thân! Còn chuyện ông White khai rằng đã thấy bóng người vác một cái xác trên vai đi vào rừng ngay trước khi bị hành hung, lẽ dĩ nhiên là ông ta đã tự vẽ lên câu chuyện phi lí đó chỉ đơn giản là để che giấu cho con trai mình. Bằng chứng là trên thực tế, chưa bao giờ tìm thấy bất cứ thi thể nào trong khu rừng.
“Ai đó phải là người có lỗi trong chuyện này. Cha cậu ta không điều khiển được tay lái nên phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cái chết của người mẹ yêu quý của cậu ta. Là người có tội, ông ta phải chết. Tội ác không thể không bị trừng phạt. Trong một lần cãi vã nảy lửa mà Henry không ngừng kết tội cha mình về cái chết của mẹ, cậu ta đã đánh nứt sọ ông bằng một thanh sắt. Nghĩ rằng ông đã chết, cậu ta bỏ trốn và ẩn náu chỗ người bạn Bob Farr của mình rồi thành công trong việc thuyết phục anh ta rời Anh đến Mỹ.”
Hai chân giạng ra, tay chống nạnh, Drew nhìn chúng tôi và tự tin chờ đợi những lời bình luận. Những ngọn lửa màu cam và đỏ bập bùng sau lưng ông, biến dáng hình nhìn nghiêng gầy gò của ông thành cái bóng và làm nổi bật lên vẻ mỉa mai trên khuôn mặt.
Victor ngồi ngây ra. Elizabeth núp trong vòng tay John. Alice, sững sờ vì sợ hãi, cấu chặt vào cánh tay chồng. Anh chồng trông cũng kinh sợ không khác gì cô vợ. Arthur White, ngồi lún sâu vào chiếc ghế bành, trông như một gã thất chí, cố gắng đáp lời nhưng không âm thanh nào thoát ra khỏi đôi môi đang mấp máy của ông.
Tôi cho rằng Henry sẽ lao vào ông thanh tra, nhưng cậu ta không động đậy. Người bạn của tôi vẫn giữ bình tĩnh, với khuôn mặt hoàn toàn không chút cảm xúc, cậu ta lần đầu tiên mở lời.
“Suy luận của ông rất xuất sắc, ông thanh tra. Tuy nhiên cho phép tôi chỉ ra một điều, Bob Farr là người Mỹ, thời điểm đó vẫn đang sống ở quê nhà. Tôi cho rằng chẳng khó khăn gì mà không kiểm chứng được việc này, và tôi phải nói rằng tôi rất ngạc nhiên khi ông chưa làm vậy.”
Drew, rõ ràng bị chọc tức trước lời nhận xét, tái mặt trả lời.
“Làm thế nào mà cậu lại bị bắt gặp cả ở Oxford và Luân Đôn chính xác cùng một thời điểm chứ? Cậu giải thích đi, mẹ kiếp.”
Henry đáp lại, mắt nhìn xuống.
“Tôi không phải cảnh sát, và tôi không có gì phải giải thích cả.”
Drew rít qua kẽ răng, cố gằn một nụ cười dữ tợn.
“Đó chính là điều khiến tôi nghi ngờ, chàng trai ạ. Cậu đang dối trá. Chúng ta hãy tiếp tục nói về vụ sát hại Bob Farr. Vì tính chất bất thường của những sự kiện xung quanh vụ án, cậu là người duy nhất khả nghi. Còn ai ngoài cậu có thể nghĩ ra và thực hiện một vụ sát hại như vậy?
“Cậu đã lưu diễn qua các thị trấn nước Mỹ cùng bạn mình.
“Nhân đây tôi xin lưu ý là những trò ảo thuật của cậu không cùng một đẳng cấp với Houdini, vì cậu cần một người giống hệt mình.”
Một cơn rùng mình rõ rệt chạy qua cơ thể Henry. Việc bị kết tội giết người chỉ khiến cậu dửng dưng, nhưng việc phỉ báng trình độ ảo thuật đã châm chích vào tận tủy cậu.
“Đến một thời điểm nhất định, cậu hay tin cha mình vẫn còn sống,” Drew tiếp tục nói một cách cay độc. “Vì thế cậu nhận ra mình phải ra tay một lần nữa. Cậu nghĩ tới nghĩ lui và quyết định trở về Anh cùng Bob Farr. Tôi không biết chi tiết kế hoạch ban đầu của cậu, nhưng tôi biết ý đại khái âm mưu của cậu.” Ông ta dừng lại và chỉ một ngón tay vào Henry, đanh thép tố cáo.
“Cậu muốn cha cậu phải gánh tội giết hại chính con trai mình! Vì thế… Phần một: giết Bob Farr, người mà ai cũng nhận nhầm là cậu. Thật tình cờ, tất cả mọi người đều nhầm lẫn, ngoại trừ ông White. Phần hai: sắp đặt vụ án nhằm đổ lỗi lên cha cậu. Nhưng mọi chuyện không diễn ra theo kế hoạch.
“Tôi không biết cậu đã bịa ra lý do gì để thuyết phục người bạn đi theo mình, dù sao thì việc đó cũng không đáng để quan tâm. Một hoặc hai ngày trước vụ sát hại, hai người các cậu leo lên tường nhà Darnley nhờ sự che đậy cùa bóng đêm - việc đó chỉ là trò trẻ con với hai nhà nhào lộn bậc thầy - và cậu dựng trại trên gác xép để chuẩn bị cho âm mưu của mình. Không ai nghi ngờ rằng cậu đã trở lại. Vì thế cậu dành thời gian trốn sau cửa để nghe trộm, theo dõi mọi hoạt động đến và đi, rồi tình cờ nghe được một cuộc hội thoại hàm chứa rất nhiều thông tin. Ông Darnley, vợ chồng Latimer và cha cậu chuẩn bị thực hiện một cuộc thử nghiệm gọi hồn trong căn phòng ma ám. Một cơ hội bất ngờ! Anh Latimer sẽ bị nhốt trong một căn phòng được niêm phong, cứ nửa giờ một lần cha cậu lại lên kiểm tra xem mọi việc có ổn không. Ngay lập tức cậu nhận ra có thể lợi dụng tình huống này. Một ý tưởng xảo quyệt hình thành trong óc cậu. Tống khứ Patrick Latimer, giết Bob, để thi thể cậu ta trong phòng kín. Khi cha cậu trở lại, gõ cửa và không thấy đáp trả, ông nhất định sẽ muốn biết liệu có điều gì bất trắc xảy ra không. Khi ông mở cửa, dấu niêm phong sẽ bị phá và ông ta sẽ thấy mình đơn độc trong căn phòng cùng xác chết của con trai! Ông ta chắc chắn sẽ bị bắt giữ vì tội sát nhân. Công lí sẽ được thực thi.
“Chúng ta đã nói quá nhiều về chiến lược, giờ đến chiến thuật. Cậu phải nhanh chóng tìm ra một giải pháp. Cậu đã tìm được, nhưng một chi tiết nhỏ bỗng phá hoại toàn bộ kế hoạch. Khi gõ cửa mà không thấy phản hồi, ông White không cố vào phòng. Thay vào đó, ông ta đi xuống dưới để gọi những người khác. Chính vì thế, niêm phong được gỡ trước sự chứng kiến của nhiều người. Thi thể nằm đó, nhưng cha cậu không thể bị cáo buộc là kẻ sát nhân nữa. Chỉ với một sơ sẩy, cái chết của Bob Farr thành ra nhuốm màu sắc siêu nhiên.
“Chúng ta hãy xem xem cậu đã thực hiện phi vụ có một không hai này như thế nào. Lúc đó là 9 giờ và mọi người đều đang ở trong phòng khách. Bản thân cậu đang ở cùng với người bạn Bob Farr trong một căn phòng áp mái, và chính lúc ấy cậu đã đâm nhát dao trí mạng vào anh ta. Cậu lén lút đi xuống tầng trệt, để thi thể lại đó.
“Khi Patrick Latimer đi tới giá treo áo khoác, cậu đánh gục, mặc áo khoác của anh ta, dựng cổ áo mũ xuống và trở lại nhập hội với những người khác còn lại một mình trong căn phòng ma ám với cánh cửa được niêm phong, cậu lấy một chiếc lọ chứa dung dịch màu đỏ, dốc ra bôi lên áo khoác, sau đó gắn một con dao giả vào. Đừng quên cậu là một nhà ảo thuật chuyên nghiệp và những phụ kiện này có sẵn trong túi đồ nghề của cậu. Rồi cậu nằm xuống, hai cánh tay bắt chéo dưới người và một tay thò hẳn ra ngoài - điều này cực kì quan trọng. Rồi cậu chờ đợi.
“Tôi có thể dễ dàng hình dung cậu trong trạng thái cảnh giác, chờ đợi tiếng bước chân của cha mình trên cầu thang, gõ cửa lần thứ nhất, im lặng trong chốc lát, rồi tiếng bước chân xa dần. Sau đó, rất nhiều tiếng bước chân khác vang lên và cánh cửa mở ra. Cậu ở đó, nằm trên sàn, con dao đạo cụ trên lưng, giả chết. Thi thể thực sự thì nằm ở căn phòng bên cạnh, thi thể của bạn cậu, Bob.”
Drew dừng lại, lấy trong túi áo ra một quả bóng cao su nhỏ. Ông ta tự mãn nhìn quả bóng rồi trưng ra cho những người có mặt xem, và nhấn mạnh.
“Từ lúc này, một quả bóng nhỏ xuất hiện trong câu chuyện. Nhưng trước hết, cần có vài lời giải thích,” ông nói bằng giọng châm chọc hằn thù, một lần nữa cầm cuốn sách lên vỗ vỗ nó và tiếp tục. “Như tôi đã rào đón trước với quý vị, toàn bộ lời giải thích cho vụ sát hại đều nằm trong cuốn sách này.”
Drew lướt ngón cái qua vài trang, khi thấy chỗ cần tìm, ông bắt đầu đọc.
“Một số tu sĩ Hindu bắt đầu buổi diễn bằng việc phô diễn những năng lực siêu việt của mình: dùng tinh thần kiểm soát mạch đập. Một người tình nguyện sẽ bắt mạch của tu sĩ và chứng thực rằng mạch sẽ ngừng đập trong chốc lát theo chủ ý của hắn ta. Hiện tượng này đã gây chấn động cho đến một ngày, khi có mặt một trong những tên bịp bợm đó, Houdini đề xuất rằng nếu việc kiểm soát mạch đập dễ dàng như vậy, tại sao không thực hiện những buổi biểu diễn còn thú vị hơn bằng cách điều chỉnh nhịp mạch nhanh chậm theo ý muốn. Không có khả năng đáp trả thách thức này (hiển nhiên rồi), tên thầy tu rởm đã xấu hổ rút lui, và kể từ giờ phút đó, trò điều khiển mạch biến mất khỏi biển quảng cáo của các nhà hát. Sau đó mọi người đều biết rằng bất cứ ai cũng có thể hãm mạch đập trong chốc lát bằng cách vô cùng đơn giản là kẹp một quả bóng cao su nhỏ dưới nách để tạo ra sức ép khiến cho máu ngừng chảy qua động mạch quay(1) trong vài giây.”
Sắc mặt Drew trở nên ảm đạm. Ông thả giọng chậm lại cho lời nói thêm sức nặng.
“Tôi tin giờ thì tất cả các vị có thể đoán được những việc đã xảy ra. Làm thế nào để xác minh được người đàn ông nằm trên sàn thực sự đã chết? Ông White đã bắt mạch và xác nhận tim ngừng đập nhưng giờ chúng ta đã biết lí do. Cái gọi là xác chết đã giấu một quá bóng cao su dưới nách. Một quả bóng cao su đơn thuần.
“Những gì xảy ra tiếp theo đã quá rõ ràng. Như những chú cừu hoảng sợ, các nhân chứng đều vội vã xuống phòng khách để báo cảnh sát. Không ai nghĩ tới việc lục soát các phòng khác hay để lại một người canh chừng thi thể. Không còn ai ở hiện trường. Kẻ sát nhân đứng dậy, đi sang phòng bên cạnh, kéo thi thể Bob Farr tới vị trí mà chính hắn ta vừa rời đi. Có thể nói trò chơi đã kết thúc.”
Hài lòng với lời giảng giải mà ông hẳn nhiên tự cho là bậc thầy, Drew chăm chú nhìn lần lượt từng người trong phòng và trông đợi phản ứng. Cuối cùng, ông ra hiệu cho người của mình rời cửa - vị trí họ vẫn đứng từ đầu cuộc họp mặt tới giờ - để tiến vào giữa phòng. Ông quay về phía Henry.
“Chàng trai, tôi chân thành khuyên cậu hãy thú tội vì lợi ích của bản thân. Tôi không thể hứa với cậu điều gì nhưng bồi thẩm đoàn chắc chắn sẽ xem xét…”
“Ông thanh tra!” Arthur đùng đùng bật dậy khỏi ghế. “Ông mất trí rồi sao? Ý kiến của ông không những quái đản, mà còn dựa vào những lập luận sai lầm. Người đàn ông mà tôi bắt mạch thực sự đã chết. Cổ tay hắn lạnh ngắt. Tôi hành nghề y khá nhiều năm và đủ sức phân biệt được một người chết và một người sống. Về phần tâm-lí-học của ông, ông thanh tra, tôi có thể thề rằng tôi sẽ đưa vấn đề này lên cơ quan có thẩm quyền thích đáng. Rồi ông sẽ thấy. Những lời cáo buộc của ông là sự sỉ nhục đối với gia đình tôi. Tôi buộc phải mời ông đi ngay cho.” Bằng một cử chỉ độc đoán, ông trỏ tay về phía cửa.
“Cha,” Henry xen vào. “Đừng nóng nảy. Người này chỉ đang làm đúng chức trách của ông ta mà thôi.”
Giờ thì đến Drew sửng sốt, không thể tin vào tai mình. Ông ta hoài nghi nhìn Henry. Đối tượng mà ông ta vừa cáo buộc một tội danh ghê tởm giờ lại biện hộ cho ông.
“Thanh tra,” Henry bình tình tiếp tục. “Bài thuyết giảng của ông rất xuất sắc, tôi phải công nhận điều đó. Dĩ nhiên là tôi biết trò tiểu xảo với quả bóng cao su. Tôi từng nảy ra ý tưởng giỡn thử trò đó với James.” Henry tinh quái nháy mắt với tôi. “Ông thanh tra, giả thuyết của ông rất tài trí và có nhiều điểm độc đáo.”
Nhìn thẳng vào mắt Drew, cậu nghiêm túc nói, “Tôi thấy ông vẫn xem tôi là người phải chịu trách nhiệm trước cái chết của Bob Farr, ông sai rồi. Bob là một người bạn tuyệt vời. Tôi không bao giờ có ý định muốn hãm hại anh ta. Thêm nữa, thời điểm anh ta bị sát hại, tôi đang ở Mỹ tham dự một sự kiện kinh doanh giải trí. Có rất nhiều người tham dự mà cả tôi và Bob đều biết rõ, cùng những người phân biệt được hai chúng tôi. Tôi sẽ cho ông thông tin chi tiết của họ, chắc chắn ông sẽ tự kiểm chứng được rằng khoảng hai mươi người có thể xác nhận sự hiện diện của tôi tối hôm đó. Hơn nữa ngay ngày hôm sau, tôi đã gặp ông…”
“Tốt lắm, chàng trai,” Drew cắt ngang khi đã trấn tĩnh lại.
Không còn chắc chắn về tình thế mình đang lâm vào và để cố gắng vớt vát thể diện, Drew nhanh chóng cúi chào miễn cưỡng đi ra khỏi phòng. Hai cảnh sát theo chân ông ta phải khó khăn lắm mới giữ được tinh thần kiên định truyền thống của người Anh. Tuy thế, nỗi uất ức rõ ràng mà viên chánh thanh tra phải chịu cũng chẳng thấm tháp gì so với sự khó chịu ông ta gây ra cho chúng tôi bởi thái độ ngạo mạn và khiếm nhã quá quắt lúc nãy.
Chú thích:
[1] Trong cánh tay có mạch máu lớn là động mạch trụ và động mạch quay. Động mạch trụ là động mạch chính, chạy sát phía trong nách xuống cố tay. Động mạch quay là động mạch phụ, chạy phía ngoài.