← Quay lại trang sách

Chương 3

HỌ ĐÃ ĐỤC ĐƯỢC MỘT CÁI LỖ ĐỦ LỚN ĐỂ CHUI QUA và Juliette lãnh nhận vinh dự ấy. Với chiếc đèn pin trên tay, cô bò qua đống gạch vụn, giữa những thanh thép cong queo như ngón tay. Không khí bên kia phòng máy phát điện mát lạnh như bên dưới hầm mỏ sâu. Bụi mù từ quá trình đào bới khiến cổ họng và mũi cô ngứa ngáy, làm cô phải họ vào nắm tay. Cô nhảy xuống mặt sàn bên kia lỗ hổng.

“Cẩn thận nhé,” cô nói với những người theo sau. “Nền đất không bằng phẳng đâu.”

Một phần lý do nơi đây không bằng phẳng đến từ các khối bê tông đã bị rơi vào trong, phần còn lại là do bản thân mặt sàn. Trông nó cứ như đã bị một gã khổng lồ giương vuốt khoét ra vậy.

Cô chiếu đèn từ dưới giày lên đến mái trần tù mù tít trên cao, săm soi bức tường máy móc đồ sộ trước mặt. Nó to vượt trội so với máy phát điện chính. Nó to vượt trội so với các máy bơm dầu. Chỉ riêng việc một công trình bề thế với tầm vóc như vậy có thể được xây nên cũng đã là điều không tưởng rồi, còn sửa chữa nó rõ là bất khả thi. Cô não hết cả ruột. Niềm hy vọng khôi phục cỗ máy bị chôn vùi của cô teo tóp đi.

Raph bước vào vùng không gian tối tăm lạnh lẽo cùng với cô, gạch đá lộp độp rơi sau gót. Anh chàng bạch tạng này mắc phải một chứng bệnh di truyền, nhảy cóc vài thế hệ. Lông mày và lông mi của anh mỏng như tơ, gần như vô hình. Da thịt anh nhợt nhạt như sữa lợn. Nhưng khi anh ở dưới mỏ, những cái bóng khiến người khác trở nên đen đúa như bị phủ bồ hóng lại ban tặng cho anh một màu da khỏe mạnh. Juliette có thể hiểu tại sao ngay từ hồi còn trẻ, anh đã rời nông trại để xuống làm việc trong bóng tối.

Raph vừa lia đèn trên cỗ máy vừa huýt sáo. Tích tắc sau, tiếng huýt sáo của anh vang vọng trở lại, chẳng khác nào một chú chim giễu nhại anh từ trong bóng tối đằng xa.

“Đây là thành phẩm của các vị thần,” anh trầm trồ thốt lên.

Juliette không đáp. Cô chưa bao giờ nghĩ Raph thuộc típ người buồn để tâm đến những câu chuyện các linh mục vẫn kể. Tuy nhiên, không thể chối bỏ được cảm giác ấn tượng cỗ máy đem lại. Cô đã đọc mớ sách của Độc Một Mình và ngờ rằng cả cỗ máy này lẫn những tòa tháp đổ nát nhưng cao vút bên kia rặng đồi đều do cùng một bàn tay những con người thời xưa tạo dựng. Chỉ riêng việc tháp giống là do bọn họ xây nên cũng đủ khiến cô cảm thấy thật nhỏ bé. Cô chìa tay ra miết lớp kim loại đã bao thế kỷ nay chưa ai chạm vào hay nhìn ngắm, và lấy làm thán phục trước những gì người xưa có thể làm được. Có lẽ lời các linh mục rốt cuộc cũng không sai lệch quá nhiều...

“Trời đất quỷ thần ơi,” Dawson lầm bầm, ồn ã chen đến cạnh họ. “Chúng ta phải làm gì với cái của nợ này đây?”

“Ừ, Jules,” Raph thì thầm, tỏ thái độ cung kính trước bóng tối thẳm sâu và bề dày thời gian thậm chí còn sâu thẳm hơn nữa. “Ta đào thứ này ra khỏi đây kiểu gì?”

“Ta không phải đào,” cô bảo họ. Cô lách ngang giữa phần tường bê tông và tháp máy. “Thứ này được thiết kế để có thể tự đào đường ra.”

“Cô đang giả định rằng chúng ta sẽ cho nó chạy được,” Dawson nói.

Đội thợ trong phòng máy phát điện tụ tập chật ních quanh lỗ, chắn hết ánh sáng tràn vào. Juliette rọi đèn quanh khe hẹp giữa tường ngoài tháp giống và cỗ máy cao chót vót, tìm đường đi vòng quanh nó. Cô đi chếch sang bên, vào sâu trong bóng tối, và lồm cồm leo lên mặt sàn dốc thoai thoải.

“Ta sẽ làm được thôi,” cô cam đoan với Dawson. “Chỉ cần tìm ra cơ chế hoạt động của nó là xong.”

“Cẩn thận,” Raph cảnh báo khi một hòn đá bị giày của cô đá văng rơi về phía anh. Cô hiện đã lên cao quá đầu họ. Theo như cô thấy, căn phòng không có góc hay bức tường đối diện nào cả. Nó chỉ lên cao dần và cuộn vòng quanh tháp.

“Chỗ này là một vòng tròn lớn,” cô hô, tiếng cô vang vọng giữa đá và kim loại. “Tôi không nghĩ đây là phần hoạt động của nó đâu.”

“Ở đây có một cánh cửa,” Dawson thông báo.

Juliette trượt xuống khỏi con dốc để nhập bọn với ông ta và Raph. Trong phòng máy phát điện, một người đứng xem bật thêm đèn pin lên. Ánh sáng của nó chập chung vào với luồng đèn của cô, rọi soi một cánh cửa có chốt bản lề. Dawson vật lộn với một tay vặn đằng sau cỗ máy. Ông ta phì phò vì gắng sức, và rồi kim loại ken két kêu, miễn cưỡng chịu khuất phục trước cơ bắp.

Cỗ máy ngoác rộng ra khi họ băng qua cánh cửa. Juliette bị một phen sửng sốt. Cô nhớ lại những sơ đồ mình đã thấy trong túp lều dưới lòng đất của Độc Một Mình, giờ đây, cô nhận ra rằng các máy đào đã được vẽ theo tỷ lệ so với kích thước thật. Những con giun nhỏ nhô lên từ những tầng thấp tại bộ phận Cơ Khí có chiều cao tương đương một tầng tháp, còn chiều dài thì gấp đôi. Chúng là những trụ thép khổng lồ và khối trụ này nằm gọn trong một cái hang tròn, tựa hồ đã tự nó rúc xuống đây. Juliette dặn người của mình hãy cẩn thận khi đi vào bên trong. Khoảng chục người vào cùng cô, giọng họ hòa lẫn và vang vọng trong cái bụng như mê cung của cỗ máy, bao e sợ đối với cấm lệ bị óc tò mò và nỗi kinh ngạc lấn át, công việc đào xới tạm trôi vào lãng quên.

“Đây là bộ phận vận chuyển phế thải,” ai đó nói. Mấy chùm ánh sáng lia qua lại trên các băng tải kim loại, hợp thành từ các tấm thép lồng vào nhau. Bên dưới các tấm thép là bánh xe và bánh răng, còn ở mặt đối diện có thêm nhiều tấm nữa xếp chồng lên nhau như vảy rắn. Juliette lập tức hiểu ra cơ chế chuyển động của toàn bộ băng tải: những tấm thép có bản lề lật mở ở cuối và chúng sẽ vòng ngược về tận đầu máng. Sỏi đá được đẩy đi ở trên máng. Những bờ tường thấp cấu thành từ các tấm thép dày hai phân được dùng để ngăn cho đá khỏi bị rơi ra. Lớp đá bị máy đào nhai nát sẽ được tuồn qua đây và đẩy ra ở phía sau, nơi người ta sẽ ì ạch chở nó đi bằng xe cút kít.

“Nó hoen gỉ hết rồi,” có người lẩm bẩm.

“Thế này là đã đỡ rồi,” Juliette nói. Cỗ máy đã nằm đây ít nhất cũng phải hàng trăm năm trời. Cô còn tưởng nó sẽ là một khối gỉ sét, không hơn không kém; tuy nhiên ở một số chỗ, chất thép vẫn còn sáng. “Tôi nghĩ đây là một căn phòng kín khí,” cô nêu ra suy đoán của bản thân, nhớ lại làn gió mình từng cảm thấy lùa qua cổ và cách bụi bị hút vào trong này khi cô mới đục xuyên tường.

“Toàn bộ đều vận hành bằng thủy lực,” Bobby nói. Giọng bác đượm vẻ thất vọng, như thể bác phát hiện ra rằng ngay cả thánh thần cũng dùng nước để rửa mông. Juliette thì lại lạc quan hơn. Cô thấy đây là một món đồ có thể sửa chữa được, chừng nào nguồn điện của nó vẫn còn nguyên vẹn. Họ có thể cho thứ này hoạt động lại. Nó được chế tạo sao cho thật đơn giản, chừng như các vị thần đã lường trước rằng những người tìm thấy nó sẽ không sành sỏi như bọn họ, không tài giỏi bằng. Giống với máy đào, cỗ máy uy nghi này cũng mang bánh xích, nhưng chỗ xích lại chạy dọc toàn thân nó và dầu mỡ đã đóng bánh trên các trục. Có thêm nhiều bánh xích nữa ở hai bên hông cũng như trên nóc, hẳn cũng áp sát vào đất. Cô chỉ không hiểu là quá trình đào được bắt đầu như thế nào. Sau khi băng qua các băng tải cùng đủ loại dụng cụ để đẩy đá vụn và phế thải ra sau máy, họ đến bên một bức tường thép cao vượt các thanh rầm và lối đi, dâng thẳng vào miền tăm tối bên trên.

“Thật phi lý quá,” Raph nói trong lúc với tay sang phía bức tường đằng xa. “Nhìn những bánh xe này mà xem. Cái thứ này chạy theo hướng nào vậy kìa?”

“Đó không phải bánh xe đâu,” Juliette nói. Cô lia đèn pin chỉ trỏ. “Toàn bộ phần phía trước sẽ quay. Trục xoay đây này.” Cô chỉ vào một trục tâm với chu vi to bằng hai người lớn. “Và hẳn những đĩa tròn kia sẽ thò ra ngoài ở bên kia để còn cắt xẻ.”

Bobby phì ra một tiếng đầy hoài nghi. “Cắt xuyên qua đá rắn ấy hả?”

Juliette thử xoay một đĩa. Nó gần như không nhúc nhích nổi. Sẽ cần tra cho nó nguyên một thùng dầu mỡ đây.

“Tôi nghĩ cô ta nói đúng đó,” Raph nói. Anh mở nắp một cái hộp có kích thước tương đương chiếc giường hai tầng và chiếu đèn pin vào bên trong. “Đây là hộp số. Trông giống như một bộ dẫn động vậy.”

Juliette lại chỗ anh. Nằm trong đấy là các bánh răng xoắn ốc, lớn ngang eo một người trưởng thành, ngập trong mỡ khô. Các bánh răng đó khớp với bộ răng cưa sẽ làm quay bức tường. Hộp dẫn động của cái máy cũng lớn và bề thế chẳng kém gì bên máy phát điện chính. Có khi còn lớn hơn.

“Tin xấu này,” Bobby nói. “Kiểm tra xem trục đó dẫn ra đâu đi."

Ba chùm đèn cùng hội tụ lại và men theo trục truyền động, dịch về đầu chót của nó: một khoảng không trống rỗng. Cái khoang trống huơ hoác của cỗ máy khổng lồ, tức toàn bộ cái vùng rỗng tuếch nơi họ đang đứng, đáng lẽ phải là nơi đặt trái tim của con quái thú này, song ở đó lại chẳng có gì cả.

“Nó sẽ không đi đâu được hết,” Raph lẩm bẩm.

Juliette quay trở lại đuôi máy. Những thanh chống chắc khỏe nằm trơ trọi, vốn được chế ra để giữ một máy phát. Suốt từ nãy đến giờ, cô và những người thợ cơ khí khác đã vơ vẩn bên trong một khoảng trống đúng ra là chỗ đặt động cơ. Và do lúc này đã biết phải để mắt tìm gì, cô phát hiện các bệ đặt. Có sáu cả thảy: các thanh ren đường kính hai mươi phân, bám đầy mỡ khô cứng từ tận đời nảo đời nào. Đai ốc ứng với mỗi thanh ren được treo trên móc, ngay dưới các thanh chống. Các vị thần đang giao tiếp với cô. Trò chuyện với cô. Cổ nhân đã để lại một thông điệp, được viết bằng ngôn ngữ của những con người thông thạo máy móc. Từ bên kia một trảng thời gian ngút ngàn, bọn họ đang nhắn nhủ cô, bảo rằng, Cái này gắn vào đây. Thực hiện theo các bước sau.

Fitz, viên thợ dầu khí, quỳ xuống bên cạnh Juliette và đặt một tay lên cánh tay cô. “Xin chia buồn về những người bạn của cô,” y nói, ý muốn chỉ Độc Một Mình và bọn trẻ, nhưng Juliette có cảm tưởng y đang lấy làm mừng cho tất cả những người khác. Cô liếc về phía cuối cái hang kim loại và thấy một loạt thợ mỏ lẫn thợ cơ khí khác đang dõi mắt nhìn vào bên trong, do dự không muốn đi vào cùng họ. Nếu công việc này chấm dứt ngay tại đây, nếu cô không tiếp tục đào xới, mọi người đều sẽ vui sướng lắm. Ngặt nỗi giờ đây, Juliette không còn chỉ cảm thấy một thôi thúc nữa; cô bắt đầu cảm thấy mình có đường hướng, có mục tiêu. Không phải cỗ máy này đã bị giấu khỏi bọn họ đâu. Nó đã được cất vào nơi an toàn. Được bảo vệ. Được niêm lại. Được bôi đầy dầu mỡ và che chắn khỏi không khí vì một lý do nào đó mà cô không biết.

“Ta sẽ niêm phong nó lại chứ?” Dawson hỏi. Ngay cả người thợ cơ khí già với mái tóc hoa râm xem chừng cũng chẳng thiết tha đào xới thêm nữa.

“Nó đang đợi một cái gì đó,” Juliette nói. Cô lôi một chiếc đai ốc ngoại cỡ xuống khỏi móc và ốp nó lên đầu thanh ren bê bết dầu. Kích thước của bệ thật quen thuộc. Cô nghĩ về lần căn chỉnh máy phát điện chính, công việc cô từng làm như từ kiếp trước. “Nó có thể mở được,” cô nói. “Phần bụng này được thiết kế để ta có thể mở ra. Kiểm tra phần đuôi máy, nơi chúng ta vừa đi qua xem. Nó hẳn có thể mở ra để loại bỏ phế thải, nhưng đồng thời cũng còn để ta đưa thứ gì đó vào nữa. Không phải bị thiếu động cơ đâu.”

Raph ở bên cạnh cô, chiếu đèn pin thẳng vào ngực cô để quan sát nét mặt cô.

“Tôi biết tại sao bọn họ đặt cái thứ này ở đây rồi,” cô nói với anh, trong khi những người khác rời đi để kiểm tra đuôi máy. “Tôi biết tại sao bọn họ đặt nó ngay cạnh phòng máy phát điện rồi.”