← Quay lại trang sách

QUẬN HẺO, QUẬN HE

I

Trời nổi giông bão và mưa mù mịt tự đầu buổi chiều. Rừng núi như điên cuồng gào thét dưới sức tàn phá của gió mưa. Sấm chớp như xé trời vạch núi. Chim chóc, thú rừng lẩn cả vào hang sâu, tổ kín. Khi bóng tối đang bảng lảng buông xuống thì mưa gió cũng dần dần tạnh. Bỗng từ phương nam, có hai bóng người phi ngựa tới. Cả hai cùng vận võ phục. Người to béo, râu quai nón thả lỏng dây cương, quay lại nói với người mặt vuông, lông mày xếch ngược, da đen như mực:

- Quái, hắn dặn đợi ta ở Tháp Ma này, sao không thấy?

Người kia dừng ngựa lại đáp:

- Không lẽ nó dám sai lời. Há nó lại không biết kiếm ta sắc lắm hay sao!

Mấy tiếng vượn hú trên một ngọn núi cao. Một con chim lìa tổ bay ra kêu ba tiếng như ma hờn quỷ khóc.Tự nhiên, một tảng đá từ trên sườn núi gần đấy lăn xuống, reo lên một tiếng vang động cả rừng chiều. Hai kỵ sĩ giật cương, ngựa chồm lánh ra xa. Đôi kiếm cùng rút ra lóe sáng. Bỗng một gã đàn ông mặc toàn đồ đen ở một bụi rậm nhảy ra trước đội ngựa chiến, cúi đầu, vòng tay nói:

- Dám bẩm hai vị tướng công, chúng tôi chờ phục mệnh ở đây đã từ lâu.

Viên tướng râu quai nón tra kiếm vào vỏ, gật đầu, rồi xuống yên, giao cương ngựa cho tên quân kia. Viên tướng mặt đen cao lớn cũng làm như vậy.

Đôi ngựa được đem giấu giữa một lùm cây bên bờ suối. Đoạn tên quân thân cận đó vạch cỏ lấy thuổng cuốc cất giấu sẵn từ chập tối, bước sau hai người chủ. Đi được chừng nửa dặm, tên quân trỏ một cái mả dưới gốc ngô đồng:

- Bẩm hai tướng công, chính thị đây là mả mẹ Phạm Đình Trọng.

Viên tướng râu quai nón hỏi:

- Có đích thực không. Mày nhớ sai, tao chém.

Tên quân quả quyết:

- Bẩm đúng. Chính con đã khiêng linh cữu mẹ Phạm Đình Trọng đem chôn. Ngày ấy Phạm Đình Trọng còn là một anh đồ kiết, làm ma mẹ mà không có lấy nổi một con gà cúng. Ông ta phải nói khó với mấy anh em con khiêng giúp, vì chúng con ở cùng một làng, một xóm với ông ta.

Dứt lời, hắn đập đá lấy lửa châm một ngọn đuốc thông cắm trên một cành cây cạnh ngôi mả, rồi giơ cuốc khai quật nấm mồ vô tội. Những nhát cuốc giơ lên hạ xuống tới tấp và tàn nhẫn. Thỉnh thoảng những tia chớp sáng lòe trong rừng đêm soi rõ nét mặt hung ác và đôi cánh tay bắp thịt của kẻ đào mả khốn nạn kia. Hai chủ tướng của nó đứng sát bên ngôi mả, kiếm tuốt trần sẵn sàng như chỉ chờ kẻ nào đến ngăn cản việc khai quật mả là chúng giết. Có tiếng cánh chim động trên tổ khiến chúng ngẩng mặt, quắc mắt nhìn; tiếng hươu nai sột soạt cũng làm chúng lắng tai nghe, hăm hở vung gươm chờ đón.

Một lát, ván quan tài bật ra. Tên quân thò lưỡi cuốc xuống, xúc ném lên mặt đất những xương xẩu còn dính thịt lầy nhầy chưa tiêu hết. Viên tướng râu quai nón đạp giày lên cái đầu lâu cười ha hả, nói với người bạn mặt đen sì:

- Đại huynh ơi, đầu mẹ thằng Trọng oan nghiệt đang đối địch với chúng ta đó. Nghe nói có một lão thày địa lý Tàu qua đây, khen vị thế ngôi mả này tất sinh con làm khanh tướng, hiển hách suốt ba đời. Có lẽ như thế thật. Chúng ta chống cự với nó hơn ba năm nay, hao quân tổn tướng đã nhiều mà chưa trận nào thắng nó. Võ dũng của đại huynh, mưu trí của ngu đệ đây nào có kém gì ai, thế mà cứ thua nó mãi, đệ e rằng quân tướng coi thường mà lòng người cũng không còn muốn theo phò ta nữa. Tên Trọng cầm hơn ba vạn quân của triều đình, nếu cứ thắng mãi ta, đệ lo sẽ không còn đất mà lùi nữa. Chi bằng ta thử vứt xương mẹ nó đi, xem cơ sự có thay đổi khác chăng. Làm việc thất đức này, đệ biết không phải là trượng phu nhưng tình thế lúc này bắt ta phải nhẫn tâm như thế.

Viên tướng mặt đen sì, giọng lè nhè như say rượu:

- Đại huynh nói phải. Trong lúc binh đao, ta dùng được kế gì đánh bại được kẻ thù thì cứ dùng, chứ nói gì tiểu nhân quân tử. Ta không hại nó, nó cũng hại ta.

Hắn cúi nhặt cái đầu lâu lên, đôi mắt đã xếch ngược càng xếch ngược thêm, cất tiếng cười như hùm rống:

- Nào, ta xem đầu mụ nặng nhẹ thế nào nào, rồi mai ta sẽ cầm đầu con mi như thế này, ném cho quân lính để chúng băm nhỏ ra cho chó nhá.

Viên tướng râu quai nón cũng cười khoái chí:

- Bây giờ ta hãy ném xương mẹ thằng Trọng cho loài lang sói trong rừng ăn đã.

Dứt lời, chúng vung vứt xương ra từ phía rồi cười ha hả, ra khỏi cửa rừng. Tên quân cúi đầu dâng cương cho chủ tướng. Tám vó ngựa phi như gió, biến vào bóng tối trùng điệp của đêm trường. Tên khốn nạn vừa đào mả trộm kia cũng lủi vào đêm tối như con chuột nhắt chui vào miệng cống. Rừng khuya tắt tiếng ngựa phi, lại hoàn toàn yên tĩnh và bí mật.

II

Viên tướng râu quai nón đó tên là Nguyễn Hữu Cầu, tục gọi là Quận He, người Hải Dương, trước đi ăn cướp, sau theo Nguyễn Cừ làm giặc.

Đến khi Nguyễn Cừ bị đại tướng triều đình là Hoàng Nghĩa Bá phá được đồn giết đi rồi, thì Nguyễn Hữu Cầu tức Quận He vội đem đồ đảng về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn.

Năm Quý Hợi (1743) Quận He giết được quan Thủy đạo đốc binh là Trịnh Bảng, rồi tự xưng làm “Đông đạo thống quốc Bảo dân Đại tướng quân” thanh thế lừng lẫy ở mạn ấy. Sau bị Hoàng Ngũ Phúc đem đại binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Quận He liều chết phá vây, về đánh lấy thành Kinh Bắc. Quan trấn thủ là Trần Đình Cẩm và quan Đốc đồng là Võ Phương Đề bị đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tín mà chạy trốn. Ở kinh sư, chúa Trịnh Doanh (em Trịnh Giang) được tin ấy náo động cả lên.

Trịnh Doanh bèn truyền cho đại tướng Hoàng Ngũ Phúc đem binh về, nhưng thanh thế Quận He vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu.

Trịnh Doanh tức giận, bèn sai danh tướng Phạm Đình Trọng cùng Hoàng Ngũ Phúc cất đại quân đi đánh Quận He ở Xương Giang. Trận ấy, Phạm Đình Trọng chém chết một đại tướng của Quận He tên là Thông, thu được ngựa, lương thực và khí giới nhiều vô kể.

Quận He là một tướng văn võ kiêm toàn, mưu sâu kế lạ, quân triều đình đều gờm sợ, coi là một tướng giặc giỏi vào bậc nhất kể trong bọn giặc nổi lên như ong thời bấy giờ. Ấy là những giặc to đáng kể như giặc Ngân Già năm Canh thân (1740). Trong khi đất Hải Dương, làng Ninh Xá có bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ làm loạn thì đất Sơn Nam, làng Ngân Già có bọn Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chân, Tú Cao cướp phá dân gian rất dữ, giết cả quan Đốc lĩnh là Hoàng Kim Qua. Thế giặc mạnh lắm, đến nỗi Trịnh Doanh vừa được cử lên làm chúa đã phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt sống được hổ tướng Vũ Đình Dung đem chém, và đổi tên Ngân Già làm Lai Cách (nay là Gia Hòa).

Kể đến giặc Ninh Xá. Thời bấy giờ Trịnh Giang vì ham mê tửu sắc, làm lắm điều càn bậy nên giặc mượn cớ diệt trừ họ Trịnh dấy lên không ngớt. Trịnh Doanh vừa dẹp xong giặc ở Ngân Già, lại phải lo tiễu trừ giặc chạy sang Ninh Xá tức vẫn là bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trách Oánh, và Nguyễn Diên. Chúng dấy binh từ năm Kỷ Mùi (1739), làm loạn ở Hải Dương trước hết rồi vẫy vùng ở đất Từ Sơn, Thuận Thành, Nam Sách và Hồng Châu. Nguyễn Cừ thì giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, Nguyễn Tuyển thì giữ núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn xây lũy, liên lạc với nhau, quân kể có hàng mấy vạn người, quan quân đi đánh nhiều phen bị hại.

Năm Tân Sửu (1741) quan Thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được các đồn điền của giặc ở Phao Sơn, Ninh Xá và Gia Phúc. Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết. Vũ Trác Oánh không biết đi đâu mất. Còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng lại về Đông Triều, nhưng vì hết lương phải nấp ở núi Ngọa Vân Sơn, bị quan Hiệp Đồng là ông Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về kinh làm tội. Từ đó, giặc Cừ và giặc Tuyển mới tan. Tiếp đến giặc Hoàng Công Chất. Chất cùng với bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên một lúc. Trước phá phách ở đất Sơn Nam về hạt Khoái Châu và Xuân Trường. Đến năm Ất Sửu (1743), Chất lại bắt được và giết quan trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ, sau bị quan quân đuổi đánh, Chất chạy vào Thanh Hóa rồi ra Hưng Hóa cùng với tên Thành làm loạn ở vùng ấy. Sau tên Thành bị quan quân bắt được, tên Chất chạy lên giữ động Mạnh Thiên phía bắc Hưng Hóa rồi chiếm giữ cả mấy châu gần đấy, đồ đảng đông dần lên hàng vạn. Từ đó, Chất cứ cướp phá ở đất Hưng Hóa và đất Thanh Hóa. Mãi đến sau, Đoàn Nguyễn Thục đem quân Sơn Tây lên đánh động Mạnh Thiên. Khi quan quân lên đến nơi thì Chất đã chết rồi. Con là Toản chống giữ không nổi, phải bỏ chạy sang VânNam. Đồ đảng tan mất cả.

Ấy là ta kể qua về những giặc nổi lên vì những việc làm càn bậy của Trịnh Giang, và như thế ta mới được biết rằng Trịnh Doanh là chúa kế nghiệp, phải bỏ ra bao năm đánh đông, dẹp bắc để giữ yên đất nước. Cũng chỉ vì việc đánh dẹp lâu năm như vậy nên Trịnh Doanh không rảnh rỗi mà làm được việc gì ích lợi, đến nỗi dân nghèo, nước yếu, chính trị điêu tàn, bởi vậy chẳng bao lâu họ Trịnh đổ, nhà Lê mất.

Ở trên ta đã kể sơ lược về những giặc cỏ cùng nổi lên một thời với Nguyễn Hữu Cầu, tức Quận He. Kể như thế để ta so sánh cái tài, cái trí của Quận He trước khi ta được biết cả cái tài cái trí của người bạn uy dũng của Quận He là Quận Hẻo.

Quận He mới chừng ba mươi lăm tuổi. Thuở nhỏ, Cầu là con một nhà phú hộ. Cha Cầu giàu có mà keo kiệt tàn ác. Cầu đánh mất trâu, phải trốn lẩn trong một cái miếu hoang ba bốn đêm ngày. Có một đứa trẻ mục đồng cùng xóm về mách bố Cầu. Nhà phú hộ lập tức đi tìm con. Cầu trông thấy bèn trèo lên núi trốn. Sau đó một lúc, bố Cầu không thấy con về, Cầu bèn tìm thằng bé đã mách tin mình đánh mất trâu kia, đấm nó một quả chết tươi. Vì việc giết người này, Cầu mò mẫm ra đi. Cầu lạc lên Lạng Sơn, sang ải Nam Quan, lạc đến Long Châu, xin vào ở với một chú khách tiều phu trong rừng. Cầu được chú dạy võ nghệ trong sáu năm giời. Cầu bỏ chú, trốn về nước. Gặp thời Nguyễn Cừ nổi loạn ở Hải Dương, Cầu xin theo làm lính. Lập được nhiều công lạ, Nguyễn Cừ cất Cầu lên làm tướng. Từ đó, Cầu nổi danh là một hổ tướng lúc nào cũng ngồi ngang đầu ngựa với Cừ.

Sau khi Cừ chết rồi, Cầu thề với ba quân phải báo thù. Mấy trận đầu chống nhau với quan quân, Quận He luôn luôn thắng, thế mạnh như chẻ tre. Nhưng rồi gặp phải đại tướng Phạm Đình Trọng, Quận He bao phen táng đởm không những vì lưỡi đao nặng trăm cân của Phạm tướng quân, còn khiếp vía vì chiến lược xuất quỷ nhập thần của vị danh tướng triều đình này nữa.

Quận He cũng được quan quận chịu là tài cán phi thường. Có khi bị vây mấy vòng mà chỉ một mình một ngựa, múa tít ngọn sà mâu phá vây ra như bỡn. Quận He to lớn, râu quai nón, mày rậm, mắt to, tiếng hét như sấm, mình vận đồ đen, mỗi khi ra trận xông pha, Quận He cởi bỏ áo ném cho quân giữ, rồi tay vung sà mâu, quay cuồng đôi cánh tay rắn khỏe đầy lông lá, sức mạnh thực như thần. Quan quân đều có ý khiếp sợ Quận He, thường gọi là Trương Phi đời Tam Quốc.

Nhiều phen thất trận, Quận He bỏ chạy về vùng khác, tướng chết, quân tan. Nhưng chỉ trong vòng có mấy ngày, lại có hàng ngàn quân tướng đi theo. Vì rằng ngày thường cướp được thóc gạo của các thuyền buôn ngoài biển, Quận He lại phân phát hết cho dân nghèo, cho nên đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Các tướng sĩ, hễ nghe chúa cử đi dẹp loạn Nguyễn Hữu Cầu, đều lo ngại. Duy có Phạm Đình Trọng là coi Quận He như một con hổ đói, mưu dũng của ông có thể dùng bắt Cầu không khó nhọc gì.

Bởi vậy, chúa Trịnh Doanh chỉ còn trông vào sức Phạm tướng quân để giữ yên bờ cõi cho xã tắc.

Trong khi ấy thì, năm Canh thân (1740) tên Tế và tên Bồng làm loạn ở đất Sơn Tây. Đại tướng quân Võ Tá Lý đánh bắt được cả hai đứa ở huyện An Lạc (thuộc phủ Vĩnh Tường).

Bấy giờ một tướng giỏi của Tế là Nguyễn Danh Phương, tục gọi là Quận Hẻo, thề báo thù cho chủ, bèn chiêu gọi dư đảng về giữ núi Tam Đảo. Một mặt thì mộ quân trữ lương, và một mặt thì cho người về nói dối xin hàng.

Khi đó, ở phía đông nam, Quận He đang tung hoành chống chọi với quan quân, cho nên Trịnh Doanh cũng bằng lòng tạm cho Quận Hẻo hàng. Nhưng kỳ thực, nhân cơ hội ấy, Quận Hẻo tìm cách liên lạc được với Quận He. Hai con hổ chiếm giữ một vùng biển để luyện chiến thuyền, lại chiếm một khu rừng rộng để luyện quân đánh thành, phá lũy.

Một hôm, Quận Hẻo, Quận He ngồi uống rượu trên một tảng đá bên sườn núi, bàn mưu kế bắt Phạm Đình Trọng. Quận Hẻo có ý lo phiền, Quận He cũng vậy. Quân lính lúc bấy giờ cũng có lòng nao núng sau mấy trận bị Phạm tướng quân dùng mưu đánh phá, xác và máu ngập lụt cả một cánh đồng gianh dưới chân núi Cước Sơn.

Bỗng một tên lính hầu rượu, dâng hai cái thủ lợn lên.

Rượu ngà ngà, hai con hổ dữ vén tay áo, mỗi người cầm một cái thủ lợn, đưa lên gậm nhồm nhoàm, rồi ném xương xuống đất. Nhìn những mảnh xương, tên lính hầu mặt choắt, mắt chuột kia, sực nảy ra quỷ kế. Nó quỳ xuống tâu rằng:

- Bẩm hai tướng quân, kẻ hèn mọn này đã nghe thầy địa lý nói rằng Phạm Đình Trọng sở dĩ được chúa Trịnh Doanh quý trọng, ấy là do ngôi mả bà mẹ ông ta ở chân núi Trường Sà trong rừng Mật phía tây nam. Nay xin hai tướng quân sai đào mả mẹ ông ta lên, vất xương đi, tức khắc Phạm Đình Trọng nếu không bị chết dưới lưỡi kiếm thần dũng của hai tướng quân, cũng bị gian thần trong triều ghen ghét. Ta hãy nhờ người xúc xiểm chúa Trịnh Doanh, khiến ông ta bị hại. Hai tướng quân nghĩ thế nào?

Đôi mãnh hổ vùng ném hai chén rượu xuống đất, ngửa mặt cười vang cả núi:

- Ừ được đấy! Ta cho kế của ngươi là giỏi. Xong việc này ta thưởng cho vàng bạc và phong chức đội trưởng, trông coi cả đám quân thị vệ của bọn ta. Kế ấy phải tức khắc thi hành ngay tối nay. Mau đóng yên cương sẵn, và sửa soạn thuổng cuốc, chỉ một mình mi làm việc ấy, nghe!

Tên quân hầu rượu, cúi rạp đầu xuống lạy, rồi khúm núm lui ra.

Thế là, giữa buổi tối giông bão và mưa mù mịt ấy, hai kỵ sĩ dừng cương ở Tháp Ma ven rừng thông, trong bóng tối một bóng đen nhảy vụt ra đỡ dây cương, rồi bó đuốc thông bốc sáng, những nhát cuốc hạ tới tấp và tàn nhẫn xuống nấm mồ vô tội. Những mảnh xương bị ném lên trời trong tiếng cười sặc sụa hơi men của Quận He, Quận Hẻo.

III

Phạm Đình Trọng được tin báo rằng mả mẹ mình đã bị Quận Hẻo, Quận He đào xới, vất xương đi, ông uất lên hét to một tiếng rồi ngất lịm. Tỉnh dậy, ông rút kiếm vạch trời thề phải giết hai tên giặc đó, quyết không cùng chúng sống ở đời.

Mấy trận sau, Trọng cất quân đánh quân Cầu và Phương tan nát, nhưng bắt hụt kẻ thù. Hai tên bị ông chém rơi khăn, rách áo, thoát chết trận ấy, đều lo sợ lắm. Cũng vì lẽ ấy, Quận Hẻo tạm xa Quận He, để chạy sang giữ làng Thanh Linh (huyện Bình Xuyên, đất Thái Nguyên). Từ đó, Quận Hẻo mộ thêm quân, tích thêm lương, lập lại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương), lập đồn trong ở đất Hương Canh, lập đồn ngoài ở đất Ức Kỳ, rồi nhân khi Phạm Đình Trọng bỏ lỏng, Quận Hẻo ngang nhiên tự xưng là “Thuận thiên khởi vận đại nhân” làm cung điện, thu các thứ thuế ở đất Tuyên Quang, thanh thế lừng lẫy trong ngót mười năm trời, thành ra một nước riêng trong nước Việt vậy.

Trong khi ấy, năm Bính Dần (1746) Quận He bị Phạm Đình Trọng đánh riết quá, sinh sợ hãi, vả quân lính thấy bị thua luôn, rủ nhau bỏ trốn rất nhiều. Hễ nghe có binh tướng quân Phạm Đình Trọng sắp giết Nguyễn Hữu Cầu để báo mối thù đào mả là chúng tán loạn xô nhau trốn, không lòng nào chống cự nữa.

Thấy thế nguy, Quận He bèn cho người đem vàng bạc, gấm vóc, ngà voi, sừng tê giác về đút lót cho Đỗ Thế Giai là một viên quan hầu cận xiểm nịnh của Trịnh Doanh và quan nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng.

Giai và Đĩnh được của tối mắt, liền hết sức nói với chúa Doanh. Trịnh Doanh thấy đã mỏi mệt vì việc dẹp giặc, nhất là giặc Nguyễn Hữu Cầu, bèn ưng thuận cho hàng và phong cho làm Hương Nghĩa Hầu, lại sai quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sàng đem tờ dụ ra bảo ông Phạm Đình Trọng đừng đánh Nguyễn Hữu Cầu nữa.

Hôm ấy, Phạm Đình Trọng đang ngồi trên mình ngựa luyện binh trên bãi cỏ gianh ven rừng, thấy sứ giả đến đọc dụ, ông vội xuống yên. Nghe xong dụ Chúa, ông quắc mắt nhìn lên trời, tay nắm chắc thanh long đao, cất tiếng sang sảng nói rằng:

- Những người làm tướng ở ngoài dẫu có mệnh vua, cũng có điều không chịu. Ông vâng mệnh vua đi gọi giặc về hàng. Tôi vâng mệnh vua đi đánh giặc, thì tôi cứ đánh.

Nói đoạn, ông phất cờ, gọi lính truyền cất quân đi ngay. Phạm Đình Trọng cho thủ hạ tin cẩn các huyện Thanh Hòa, Tứ Kỳ, Vĩnh Lại, Thượng Hồng hợp nhất lại, đặt làm bốn cơ rồi giao cho họ cai quản.

Ở Phủ Liêu, bọn nghịch tuần Đỗ Thế Giai Nguyễn Phương Đĩnh, vốn không ưa Trọng, bèn nhân lấy cớ ấy mà dèm với chúa Trịnh Doanh rằng Trọng có ý mộ thêm quân mưu phản. Nhưng Trịnh Doanh vốn biết Trọng là người trung thành, nên không nói gì đến việc ấy, lại làm một bài thơ sai người đưa ra cho ông để ông được yên lòng.

Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất SơnNam. Phạm Đình Trọng cất binh đánh Quận He ở đất Cẩm Giàng (gần Hải Dương), Quận He lại thua chạy suýt chết. Quận He bàn với quân tướng rằng:

- Ta vừa mới thua, ắt có tin về kinh, chắc không ai phòng bị, nay ta lẻn về đánh có lẽ được.

Nói đoạn, ngay đêm hôm ấy, Quận He kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời gần sáng. Nhận được tin cấp báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân, Phạm Đình Trọng được tin ấy lập tức đem quân ập đánh mặt sau, Quận He lại thua to bỏ chạy. Từ khi thua trận Bồ Đề, Hữu Cầu về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan.

Phạm Đình Trọng lại đem binh đánh đuổi.

Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa.

Quận He chạy vào Nghệ An, hợp với tên Diên.

Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại giặc, đuổi Quận He ra đến làng Hoàng Mai. Thế cùng, lực tận, Quận He chạy vào một hàng thịt chó, cởi vội quần áo, ném tiền ra xin mượn anh hàng thịt bộ quần áo rách, rồi nhân lúc anh đồ tể đang mổ chó, viên tướng thất trận cũng ngồi xuống làm với anh đồ tể.

Phạm Đình Trọng biết đích giặc trốn lẩn trong làng, bèn dàn mấy nghìn quân vây kín chung quanh. Rồi đó, ông một mình một ngựa, cầm kiếm đi khắp làng, sai lính hô hễ ai chứa giặc hay trông thấy giặc mà không báo thì cả nhà chết chém.

Bấy giờ, Nguyễn Hữu Cầu trông thấy vợ chồng anh giết chó run cầm cập thì không đành lòng, vả tự nghĩ mình là một người chọc trời khuấy nước bấy lâu, tiếng tăm lừng lẫy, không lẽ lại sợ chết để lụy cho người, bèn xách kiếm nhảy lên mái nhà đứng nhìn ra hàng quân vây trùng trùng điệp điệp, gươm đao tua tủa, chiêng trống dậy trời, chuyển đất.

Khí tiết anh hùng bốc ngụt lên, Quận He cởi phăng áo như mỗi khi ra trận, ném đi, rồi chờ ngựa Phạm Đình Trọng vừa đi tới, Quận He nhanh nhẹn như con chim liệng vụt xuống. Lưỡi kiếm sáng lóe như tia chớp, Phạm Đình Trọng né mình tránh khỏi, lưỡi kiếm phạt ngang đầu ngựa. Con tuấn mã chồm lên rồi khuỵu xuống, mất hẳn nửa đầu.

Hai hổ mạnh gặp nhau! Mặt đối mặt, trên một bãi chiến hẹp, quân lính đứng xa cả ở bên ngoài. Thanh long đao và ngọn bát xà mâu vung lên, thép thiêng và thép sắc lòe lửa sáng. Đường đánh của hai dũng tướng vô cùng tinh xảo, bong hai người quay tròn nom tựa những cánh hoa bay theo gió lốc. Những bước tiến lui, những cánh tay vút lên cao và là xuống tựa như lá liệng, chim sa. Cứ như thế, cuộc đấu kéo dài và kết thúc sau một tiếng quát to, rồi một cái mình bắn ra xa, rơi vào hố nước.

Quận He thất trận. Máu ở đùi thấm ra lênh láng. Bại tướng vùng đứng dậy, nhưng lại ngã liền. Vết thương nặng quá. Tức thì một cái cũi do bốn tên lính đẩy đến, ném Quận He vào nằm trong đó. Hắn nằm yên, mắt nhắm nghiền. Phạm Đình Trọng truyền cho mười viên tướng, năm trăm quân lập tức lên đường, giải Quận He về triều nộp chúa Trịnh.

IV

Bấy giờ Nguyễn Danh Phương tức Quận Hẻo lập đại đồn trên núi Ngọc Bội, đang ngồi uống rượu trên sơn trại, bỗng thấy quân do thám chạy lên báo tin Nguyễn Hữu Cầu bị bắt rồi. Quận Hẻo giật nảy mình, chén rượu trên tay rơi xuống đất.

Hôm sau, Phương lại được tin quan quân bắt đầu giải Cầu về triều nộp chúa Trịnh. Phương bèn nảy mưu cướp tù xa. Ngay hôm ấy, Quận Hẻo dẫn một nghìn quân lẻn tắt đường núi đón đầu bọn quân chúa Trịnh giải tù. Chúng ẩn nấp vào một cánh rừng chờ đợi. Quả nhiên bọn quân tướng của Phạm Đình Trọng đã rầm rộ tới kia, đi quanh một cái tù xa lớn, gươm giáo dựng lên tua tủa.

Quận Hẻo nhảy lên mình ngựa, phất cờ ra hiệu, vẫy quân nhảy xổ ra xếp hàng chữ nhất. Quận Hẻo vác giáo xông vào bọn tướng của Phạm Đình Trọng đánh tơi bời. Bọn tướng tuy đông nhưng sao đủ tài cự địch với Phương, sức khỏe không kém gì Cầu. Cho nên bọn quan quân bị chết gần hết chỉ trong chớp mắt. Trong khi hỗn chiến, Quận He vẫn điềm nhiên vỗ đùi cười ha hả. Bọn tàn binh bỏ cả tù xa mà chạy. Thế là Quận He thoát nạn. Và hổ lại cùng với hổ về rừng. Lâu la trên núi Ngọc Bội được lệnh hai chủ tướng mổ trâu để khao mừng, đủ ba ngày đêm. Và nhân thể đợi ngày thứ tư thì chúng kéo đại binh xuống núi đi bắt Phạm Đình Trọng, trừ bỏ Trịnh Doanh để chia giang sơn mà làm vua nước Việt. Trên sơn trại đèn treo lá kết, trâu bò của dân do chúng cướp mang lên bị đem ra mổ rất nhiều. Tiếng khóc ở các làng quanh đấy bị át đi giữa tiếng reo hò của lũ giặc say.

Lại nói mấy tên quan quân giải tù xa sống sót chạy ngày đêm về báo tin Quận Hẻo đánh phá cứu Quận He. Phạm Đình Trọng được tin bèn ngay đêm ấy, người ngựa ngậm tăm, thẳng tiến về núi Ngọc Bội, sơn trại giặc. Lừa lúc giặc đang đắc trí không ngờ, Phạm Đình Trọng vác đại đao, dẫn ba nghìn quân lẻn lên phóng lửa đốt trại giặc. Lâu la hoảng hốt, kêu rầm rĩ. Phạm tướng quân múa đao đi trước, xông vào vòng khói lửa ngút trời. Bấy giờ Quận Hẻo, Quận He đang ngà ngà rượu, thấy lâu la nhốn nháo, vội vác khí giới nhảy ra.

Quận He gặp ngay Phạm Đình Trọng. Hắn gầm lên múa kích đâm liền, đại đao của Phạm tướng quân cũng múa tít quấn lấy ngọn kích của Quận He, đôi bên đánh nhau rất lâu trong khi Quận Hẻo cuống quít gạt tên lửa bay lên tới tấp do quan quân bắn ra, giữa khi bối rối lại gặp phải đại tướng của Trịnh Doanh là Nguyễn Phan sấn vào vung kiếm chém. Quan quân đánh rất hăng, bọn lâu la phần vì no thịt say rượu, phần vì hoảng hốt nên chết rất nhiều, xác ngổn ngang khắp sườn núi đá đầy gai nhọn và cỏ sắc. Quận Hẻo biết không thắng được bèn nhảy ra xa, hò lâu la chạy trốn.

Quận He càng đánh càng hăng. Nhưng hùm thiêng gặp lúc sa cơ, hắn bị vướng một tảng đá trong khi lùi tránh lưỡi đao lợi hại của Phạm tướng quân vừa hạ xuống, không may bị ngã. Vết thương cũ ở đùi bị rách ra, Quận He đành ngã sóng soài dưới gót giầy Trọng giơ ra đạp xuống. Tức thì quân sĩ trói ngay Quận He lại, lôi xuống núi. Chính lúc ấy, Phạm tướng công bất ngờ bị một mũi tên tẩm độc của bọn lâu la nấp đâu đó bắn trúng cánh tay. Phạm tướng quân vẫn nghiến răng chịu đau, lệnh cho quân sĩ phóng lửa đốt trại giặc, chờ lửa cháy ngút trời, mới thu quân xuống núi, giải Quận He về.

Quận Hẻo thu tàn quân chạy đến một cánh rừng phía tây. Hẻo quyết trả thù. Đêm ngày, Hẻo sai người đi mộ thêm quân, và cướp bóc nhân dân lấy lương thực phòng thủ. Hẻo còn sai lính đúc đạn, chế súng, luyện thêm một đội quân bắn nỏ rất tài. Không bao lâu, Hẻo lại có binh hùng, tướng mạnh, và thừa thế ấy, Hẻo càng tung hoành cướp bóc, giết người, có khi đốt cả một làng. Dân chúng, hễ nghe đến tên Quận Hẻo là hết hồn hết vía.

Phạm Đình Trọng từ hôm bị thương ở cánh tay vì mũi tên thuốc độc, bệnh tình ngày một nặng. Một hôm nằm trong trướng, nghe tin giặc Hẻo quấy nhiễu, tàn sát lương dân, ông tức giận vùng đứng dậy, sai đóng yên ngựa, vác đao đi giết giặc Hẻo, nhưng vết thương lại vỡ ra, thuốc độc còn trong thịt trong máu, ông ngất lịm đi bất tỉnh.

Chúa Trịnh Doanh ở trong triều được tin Phạm Đình Trọng bị thương, bèn vội vàng cất binh ra tiếp ứng. Đường đi những non cùng núi, lại gặp kỳ mưa ngập trời ngập đất nên mất nhiều ngày mà chửa đến nơi. Lại thêm, trời ra tai, binh lính bị bệnh tả sốt rét rừng, chết ở dọc đường rất nhiều. Một buổi chiều, chúa Trịnh nhân lúc cho quân nghỉ thổi cơm giữa một cánh rừng, ngài buồn bực, cầm gươm lững thững dạo chơi bên bờ suối. Bỗng một người con gái xách giỏ lá thuốc tiến đến gần, khép nép quỳ lạy chúa. Khi cô gái ngẩng lên, chúa Trịnh thốt giật mình vì nhan sắc thần tiên của cô. Cô khẽ nói:

- Thiếp là một kẻ bấy lâu nương náu ở rừng xanh. Nghe đồn Phạm tướng quân là một dũng tướng của chúa công vừa bị mũi tên tẩm độc, vì vậy mà giặc Phương được thể tung hoành cướp bóc dân lành. Thiếp nghĩ một ngày Phạm tướng quân còn mang bệnh, lương dân còn thêm một ngày khốn đốn. Nghe nói đại binh chúa qua đây, nên vội đi hái lá thuốc, chờ theo đến đồn Phạm tướng quân, chữa cho người được an bình.

Giọng nói êm như chim hót. Chúa Trịnh Doanh đờ đẫn, suýt quên mình là chúa. Bấy lâu mải việc binh đao, đánh đông dẹp bắc, giặc nổi lên nhũng nhiễu bốn phương chưa biết khi nào mới dẹp xong, vị chúa trẻ tuổi ấy chưa lúc nào an hưởng rượu trà ca hát và nhan sắc. Nay vẻ đẹp tuyệt trần của cô gái rừng xanh vụt hiện ra như thần tiên giáng thế, lẽ nào vị chúa trẻ tuổi khỏi xiêu lòng. Chúa Trịnh bèn mời cô gái về trướng, sai quân dâng rượu mời cô.

Chúa nói:

- Bấy nay không được nghe đờn ca, thiếu nữ khá vì ta mà ca hát cho quân ta tạm quên nỗi vất vả đường trường.

Cô gái cúi đầu vâng lệnh. Sẵn trong giỏ thuốc một chiếc đàn xinh nhỏ, cô gái lên dây, nắn phím. Tiếng đàn huyền ảo, mê ly, xen lẫn lời ca muôn phần tình tứ, chúa Doanh say đắm ngất ngây. Năm ngàn quân tướng cũng ngẩn ngơ lòng, im tiếng thở. Đêm ấy trăng vằng vặc sáng. Lá cây rừng xao xác rụng xuống dòng suối trong veo chạy vào lòng rừng thẳm. Bỗng cô gái buông đàn:

- Chết nỗi, trong lúc binh đao, lẽ ra thiếp phải bắt chước Ngu Cơ múa kiếm hiến vui chúa công mới phải, sao lại gẩy chi khúc đàn thảm não này để làm nguội lòng chinh chiến của ba quân, tội thiếp thật là to lắm - Đoạn, cô gái xếp đàn vào giỏ - Giờ đã khuya rồi, xin cho thiếp tạm lui, sớm mai sẽ xin trở lại theo chúa công lên đường.

Trịnh Doanh chưa kịp ép nài, cô gái đã cúi đầu lạy, rồi gót sen thoăn thoắt, bóng người áo trắng đã mờ biến vào ánh trăng. Chúa Trịnh giật mình kinh sợ, tưởng chừng loài hồ tinh hiển hiện để trêu mình. Nhưng mờ sáng hôm sau, ba quân vừa gươm giáo sắp lên đường, chúa Doanh sửa soạn lên yên đã thấy thiếu nữ cưỡi con ngựa trắng ở rừng xa phi đến, bên cổ ngựa buộc giỏ thuốc lá và cây đàn.

Đại binh rầm rộ lên Thái Nguyên.

Chúa Trịnh cùng thiếu nữ vào xem ngay vết thương cho Phạm Đình Trọng, lúc bấy giờ đang mê sảng. Thiếu nữ từ tốn lấy lá dít vào vết thương đau. Một lát, nhọt độc vỡ ra, Phạm tướng quân ngồi dậy, lại tỉnh táo như thường. Không chờ Phạm Đình Trọng hỏi han, cô gái rừng xanh đã vội cúi lạy chúa Trịnh và Phạm tướng quân, rồi ra khỏi trướng nhảy lên yên ngựa phi về rừng núi. Chúa Trịnh bao nỗi tiếc nhớ, ngậm ngùi. Nhưng chiêng trống đã vang lừng, quân sĩ được lệnh tiến binh hò reo dậy đất. Phạm Đình Trọng lên yên ngựa, vác đại đao nguyện phen này phải trừ xong giặc Hẻo.

Đại binh tiến thẳng đến Ức Kỳ.

Giặc bắn đạn, tên nỏ ra như mưa. Quan quân không tiến lên được. Thấy vậy, Trịnh Doanh thân đánh trống, giục quân cứ tiến. Phạm Đình Trọng cùng Nguyễn Phan xuống ngựa, cởi áo giáp, hô trước quân lính rằng:

- Quân sĩ đều có tên trong sổ sách, nếu phạm tội gì sẽ chiếu theo quân pháp mà xử. Hôm nay là ngày chúng ta đã bỏ mình giúp nước, cũng là ngày các người đền chúa. Vậy ai có cha già con dại thì cho lui, số còn lại hãy cùng ta liều một trận sống chết, dẹp cho xong bọn giặc hại dân hại nước này!

Quân không ai chịu lui, đều xin xông vào. Trận đánh vô cùng kinh khủng. Quan quân bị đạn đè lên nhau mà chết. Chúa Trịnh vẫn khua trống tiến binh. Thanh đại đao của Phạm Đình Trọng cùng ngọn giáo của Nguyễn Phan múa tít, xông vào sào huyệt giặc như đi giữa chốn không người.

Giặc vỡ chạy, chết không biết bao nhiêu mà kể.

Quận Hẻo một mình một ngựa chạy vào núi Độc Tôn. Quan quân đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở huyện Lập Thạch thì bắt được Hẻo. Chúa Trịnh Doanh vui mừng, bèn sai quân mở tiệc lớn. Trăng vằng vặc sáng. Đèn đuốc sáng rực một phương trời. Chúa Trịnh ngồi giữa, hai bên là Phạm Đình Trọng và Nguyễn Phan. Hôm sau, quan quan lên đường trở lại kinh sư.

Quận Hẻo, Quận He tung hoành ngang dọc bấy lâu, giờ đành chịu quỳ giữa pháp trường, rồi chiêng trống ba hồi, hai cái đầu rụng dưới cánh tay đao phủ thủ trong một buổi sớm trời đất đầy sương mù, gió bấc.

Ngọc Giao

Truyền Bá, số 187, năm 1945