HANG THUỒNG LUỒNG GÀ RỪNG ẤP RẮN
Ở khu rừng Bản Lạng có một lão thầy mo người Thổ, chuyên nghề đi cúng cấp hay chữa bệnh cho những kẻ bị ma hành.
Tên lão là Trô Ún. Lão thấp, gầy, da mặt nát nhàu như miếng da trâu cũ, được cái đôi mắt lão sắc lạ lùng, lão đi trong đêm, nhìn mọi vật gần rõ như ban ngày vậy. Có kẻ gọi lão là “lão mắt mèo”. Đôi chân khẳng kheo của lão bước rất nhanh, trai khỏe mạnh không sao theo kịp. Cũng vì vậy, có kẻ lại gọi lão là “lão thỏ”. Hai cái tên lạ cũng đủ khiến lão thành một tay quan trọng trong rừng Bản Lạng, huống chi lão lại có sức khỏe khác thường, những đêm bão rừng, một mình xách chiếc nỏ rất lớn và đeo một túi tên, lão lủi vảo các hốc cây, dòng suối để bắn hươu, nai, hoẵng; nếu cần thì lão rất bình tĩnh chơi nhau cả với hổ, lợn lòi, trăn gió… Đôi cánh tay khô như cành củi, vậy mà mỗi khi trâu nhà ai sổng thừng hành hung, nhờ lão đuổi, lão chỉ việc ấn đầu trâu xuống bẻ gẫy hai sừng. Còn hổ báo, lão đã trải lắm phen cầm cự hàng giờ, rút cục phần thắng phải về phần lão. Nhưng cũng vì vậy mà mặt mũi và khắp mình lão đầy vết sẹo, có chỗ mất hẳn miếng thịt gần hở cả xương do móng vuốt loài ác thú.
Phải nói đến tài dùng nỏ, dùng tên của lão già Trô Ún. Chiếc nỏ cứng nặng vô cùng, lão đã thách các tay có tiếng là khỏe mạnh, gan góc thử giương, nhưng chưa một kẻ nào giương nổi. Đến lượt lão, lão dương nhẹ nhàng như dương một cái cung dâu. Thứ tên lão dùng là một vật giết ác thú trong chớp mắt, dù mũi tên chỉ mới sước qua trên da thịt.
Một buổi trời sầu đất thảm kia, lão thầy mo đã tìm ra một thứ cây độc nhất trong các thứ cây độc ở khu rừng Ma Chạo. Cái cây đó ở một tảng đá nhô lên, thân gầy mà cành lá vươn lên ngạo nghễ bốn mùa, mây che khuất ngọn. Có một giống chim “cô hời, cô hỡi” sớm và chiều bay đến cây này đậu, kêu thảm thiết như là ma quỷ. Khám phá được cây đó, lão Trô Ún suýt thì mất mạng. Chính vào cái buổi trời sầu đất thảm ấy, đang đuổi một con hươu qua chân núi bỗng lão dừng chân. Lão vô tình vịn tay vào một thân cây. Bàn tay lão vừa bị một cành gai cứa phải. Một chút nhựa cây dính vào vết gai đâm, khiến lão lao đao gục xuống. Vốn gan góc, và tinh nhanh, lão biết mình đã mó vào một cây nhựa độc, lão cố gượng dậy đi tìm lá nhịt. Phúc cho lão, lão tìm được ngay lá giải độc gần ngay chỗ đó. Đắp lá rồi, lão già tỉnh hẳn.
Một ý nghĩ độc ác thoáng qua đôi mắt mèo lấp lánh, lão bèn rút dao lưng khía vỏ cây. Một thứ nhựa đỏ như máu rỉ ra. Lão quệt nhựa vào đầu chiếc tên, lắp vào nỏ, giương lên bắn thử một con trâu không biết của nhà ai đang ăn cỏ. Mũi tên cắm ngập đùi, con vật chỉ kịp chạy đủ ba bước thì nhựa độc ngấm rất nhanh, nó lăn ra chết. Lão thầy mo đắc trí cười rú lên mấy tiếng, lấy đầy nhựa vào ống tre rồi đi về.
Từ đấy, lão già Trô Ún không cần đấu sức cùng hổ, lợn lòi, trăn gió nữa. Chỉ một mũi tên là hạ xong địch thủ. Ác thú không bao giờ chạy được quá ba bước trước khi lăn cổ chết. Mà tài nỏ của “lão mắt mèo”, đêm cũng như ngày, chẳng bao giờ làm phí một mũi tên bôi nhựa độc.
Thứ nhựa ấy rồi cũng có kẻ tìm ra sau lão nhưng ít kẻ có gan dùng, vì lúc chặt vỏ cây, không khéo tay, nhựa bắn sang thịt da một chút, ắt chết liền. Đến nỗi người ta đâm sợ nó và đặt tên cho nó là “đoạn trường thảo”. Về sau, muốn phòng cho những tiều phu vô phúc chạm vào cái cây ma quái ấy, người ta bàn đốt nó đi. Họ đã chất củi, chất nhựa thông quanh gốc cây và châm lửa vào một chiều gió lộng. Gió mang lửa lên ngùn ngụt, nhưng cái cây nọ vẫn không sao cháy được. Hết lớp củi này đến lớp củi khác, bọn sơn thôn reo hò vang động cả núi rừng vậy mà “đoạn trường thảo” vẫn cứ đứng trơ trơ như cột đá giữa trời. Bọn dân sợ hãi, đã có kẻ bỏ chạy ra về. Chúng yên trí là cây ma quái linh thiêng nên chỉ nhìn nhau không dám reo hò nữa.
Bỗng mây đen kéo đen kịt một gầm trời. Gió đã mạnh càng mạnh hơn. Cây rừng rú lên gớm ghiếc. Nhất là cái cây ma quái, theo sức gió rú lên từng hồi, nghe như tiếng gió từ cửa địa ngục lùa lên. Từng chiếc lá đỏ rụng lả tả như những giọt máu, lá rơi xuống chỗ nào, cỏ úa đi chỗ ấy. Rồi thì trời đổ mưa. Sấm chớp ầm ầm. Một tiếng sét chuyển núi rừng đánh đúng vào cái cây. Một tiếng reo vang động, cả một tảng đá tung lên, thân cây ngã xuống, cháy xém đi một nửa. Hôm sau, bọn dân lại kéo nhau ra, giết bò làm lễ ở gốc cây, rồi vòng tay nhau nhảy múa. Nhảy múa xong, chúng lại chất củi và tẩm nhựa thông để đốt. Lần này thì lửa bén ngay vào thân cây. Lửa càng cháy, một mùi tanh tởm như mùi thịt xương người cháy càng bốc lên. Bọn dân kẻ thì lao đao ngã xuống ngất đi, kẻ thì mau chân chạy thoát. Lửa cháy âm ỉ ba đêm ngày liền. Dân vùng ấy bồng bế nhau chạy về các nẻo rừng xa để tạm lánh hơi nhựa giết người. Đến ngày thứ tư lửa tắt, có kẻ mò về, thấy muông thú chết ngổn ngang ở nơi đốt lửa. Thì ra thú rừng đã ra và đã dẫm hay liếm phải đống tro kia.
Cây ma quái đã bị sét đánh rồi, nhưng lão thầy mo Trô Ún vẫn còn một ống tre đầy nhựa "đoạn trường thảo" cất giấu ở trong buồng. Lão không dùng nhựa ấy để giết người. Tuy lão có sức khỏe phi thường và mặt mũi hung ác, song lão rất hiền với người, chỉ ác cùng mãnh thú. Bởi thế mà một bọn trai đã đến làm đồ đệ lão. Lão ngần ngại mãi rồi mới chịu thu học trò. Trong sân nhà lão, bọn học trò khi việc làm nương, đốn củi đã xong, thường tụ họp để tập bắn cung nỏ và đánh võ. Lão Trô Ún rất giỏi võ, cũng do một người Tầu ngày xưa đã vượt qua cửa ải Nam Quan vùng Lạng Sơn sang đây tìm đất chôn vàng hay để mả gì đó, rồi gặp ngay Trô Ún. Người Tầu nọ đã tận tình truyền bảo võ nghệ cho Trô Ún, rồi lại đi giang hồ.
Trô Ún ngay từ ngày còn trẻ đã nổi danh ở vùng chợChu(Thái Nguyên - Bắc Kạn). Trô Ún nổi danh hào hiệp, có hắn nên hồi đó giặc cỏ không dám nổi lên.
*Trên đây là chuyện ngót năm mươi năm về trước. Ngày nay người anh hùng có tài tên nỏ ấy đã già rồi. Tuy già mà đôi mắt mèo của lão vẫn rọi sáng được bóng đêm, đôi tay lão vẫn bẻ gãy sừng trâu, vẫn bóp ngạt hổ báo.
Bây giờ ta hãy kể đến truyện gà rừng ấp rắn.
Lão Trô Ún một hôm đi cúng cho một cô ả bị ma làm ở một làng kia xa lắm. Mọi bận mỗi khi đi xa thì lão thường cưỡi ngựa, lần này lão đi bộ. Lão vẫn bảo đi ngựa xuyên núi rừng rất chậm, đôi chân lão còn khỏe hơn ngựa nhiều.
Lão đã chữa thuốc và cúng cấp xong, cô ả bị ma làm đã ngồi dậy được, và lúc này lão đang say rượu chếnh choáng ra về, có lẽ cô ả đã vào suối bóc vỏ măng rồi. Lão say tợn, có bao giờ lão lại say đến thế này đâu! À, tại chủ nhà đãi lão cái thứ rượu tăm ngon quá, lại nhắm với thịt lợn bao tử ướp men rượu nếp, thành ra lão mềm môi không biết say là gì nữa.
Mặt trời sắp lặn. Một mình lão đi giữa rừng hoang. Lão lắng nghe chim hót và nhìn mây trùm trên ngọn cây đỉnh núi, bước cao bước thấp. Say quá, thấy buồn ngủ, lão kềnh bên bờ suối ngáy khì.
Mặt trời lặn hẳn. Bóng tối trùm xuống bao la như tấm lưới không cùng. Tới khi lão mở mắt ra thì nhận thấy ánh trăng rọi mơn man trên bàn tay khô của lão. Vừa toan nhấc bàn tay lên, bỗng lão thấy cái gì là lạ, tròn và trắng, lấp lánh trong lòng bàn tay. Lão giơ lên mắt: đó là hai quả trứng, to như trứng vịt.
Lão kinh ngạc ngồi nhỏm dậy, chú ý nhìn quanh và nhận ra một vạch dài in lõm xuống đất, như hình một con trăn, con rắn, hay con vật gì mình dài lắm vừa từ chỗ bàn tay lão bò xuống suối. Nỗi kinh ngạc diễn ra không lâu vì chẳng có gì khiến lão phải để tâm lo lắng, trái lại lão cho là một việc vui thích nữa. Lão mỉm cười bỏ hai quả trứng vào túi, rồi đứng lên đi. Tỉnh hẳn rượu, lão đi vun vút, không mấy lúc đã tới nhà.
Lão có một người vợ già, không con cái. Chẳng thèm lên tiếng cho vợ biết, lão lẳng lặng vào chuồng gà, bỏ hai quả trứng vào trong ổ mà con gà mái rừng mới bắt đầu nằm ấp.
Ấp được gần hai mươi hôm thì trứng gà nở hết. Hai quả trứng nọ nở sau cùng. Nhưng trứng không nở ra gà, mà nở ra hai sợi chỉ đỏ thoạt đầu cuộn tròn lại, sau đó một lúc thì ngọ nguậy rồi duỗi dài ra ước chừng một tấc. Lão Trô Ún cho là cái quái quỷ gì, nên cứ mặc nó ở ổ cỏ khô, chẳng buồn để tâm đến. Hai sợi chỉ đỏ lớn lên từng phút, từng giờ. Mới có ba đêm ngày mà chúng đã to bằng chiếc đũa. Con gà mái rừng sợ không dám vào trong ổ, phải nấp vào một xó chuồng. Chúng đuổi theo, quấn chặt lấy con gà khốn nạn. Con gà lăn ra dẫy đành đạch rồi chết cứng. Đàn gà con mới nở cũng chết luôn trong đêm ấy. Rồi cứ thế, đàn gà của mụ vợ lão thày mo mấy ngày sau, không thấy con nào ra khỏi chuồng ăn thóc nữa.
Vợ chồng lão Trô Ún bấy giờ mới thấy làm lạ cùng mở cửa chuồng xem. Trong đó ngổn ngang những xác gà. Mà hai cái quái quỷ kia thì đã lớn bằng ngón tay, đỏ như máu, cuộn mình nằm một xó. Lão Trô lấy một con gà chết ra coi, thấy cổ có một vết cắn thủng rất sâu. Lão xem những con khác, thì con nào cũng có vết thương ở cổ. Bấy giờ lão mới biết đó là hai con thuồng luồng, vì cái giống này hay ăn máu súc vật.
Vợ lão có ý sợ, bảo giết đi. Nhưng lão Trô, như ta đã rõ, có biết sợ là gì. Lão lại cho là thú vị, cười khà khà, rồi thò cái gậy đầu bịt sắt - cái gậy lão vẫn dùng làm khí giới đi rừng - vào trong chuồng. Miệng lão chúm lại, lão gọi líu díu thế nào mà hai con thuồng luồng cùng bò ra, quấn vào chiếc gậy. Ấy, lão vẫn có cái tài gọi chim, gọi rắn bằng cách đó, mỗi khi lão chán hươu nai, thấy thèm đánh chén thịt rắn, thịt chim.
Hai con thuồng luồng đã quấn chặt vào đầu gậy. Chúng ngóc đầu lên, miệng há rộng ra nhìn lão. Lão lại cười khà khà, cần nhớ rằng lúc ấy lão đã say chếnh choáng.
- Chúng mày ơi, ta hiếm hoi thì lấy chúng mày làm con vậy. Ồ, ta đang nằm ngủ, sao tỉnh dậy lại thấy hai quả trứng ở bàn tay. Có lẽ ta có duyên nợ gì với mẹ chúng mày. Hay là kiếp trước, ta là thuồng luồng đó? Nếu quả thế thì hai con ở lại đây với ta. Ta là cha hai con, ta nuôi nấng, phải kính trọng ta. Mẹ các con kia, con cũng phải kính trọng mẹ như ta vậy.
Thuồng luồng có lẽ thuộc về giống linh vật, ngóc đầu lên rồi cúi xuống, làm như vậy ba lần. Lão Trô Ún đắc trí cất tiếng cười vang, rồi lão cúi bóp một con lợn nhỏ ở trong chuồng, lão thọc hai ngón tay sắt vào cổ nó. Máu vọt ra, lão cho hai con thuồng luồng cuốn vào cổ con vật khốn nạn đang giẫy giụa. Thuồng luồng quằn quại trong vũng tiết nóng hổi, hút no nê. Hút hết tiết, chúng to phềnh ra, to trông thấy, vừa bằng đôi rắn cạp nong. Mình chúng mọng những máu, trông có vẻ trong mát như chiếc vòng hổ phách. Lão thầy mo lấy làm thích lắm, cứ mân mê chúng cả ngày.