← Quay lại trang sách

MA THIÊN LÃNH NHÀ VUA GẶP BÃO

Xưa, một vị vua nhà Trần vốn tính thích đi săn. Tài cung tên của vua ít người bì kịp, ấy là kể trong hàng tướng tá có tài. Vua mê mải theo vết hươu nai hơn là nghĩ đến việc triều chính nên nhiều khi vua ở trong rừng núi ba bốn ngày đêm liền mà không biết mỏi mệt.

Bọn quân lính được theo vua đều lấy làm vui sướng, bởi tính ngài dễ dãi, mỗi khi hài lòng một cuộc săn vất vả có kết quả ngài lại cho quân uống rượu, vui đùa thỏa thích. Rượu nồng do dân các bản làng đem vào rừng dâng nộp, đồ nhắm thì dê béo hươu non do nhà vua tự mình khó nhọc qua bụi này suối khác mà hạ thủ với chiếc cung thần, vì vậy vua tôi đều hoan hỉ ăn uống no say, không kẻ nào muốn trở lại hoàng thành để phải bó mình trong khuôn phép.

Vào những đêm trăng sáng, giữa tiếng suối chảy róc rách trong khe núi âm u và tiếng gió reo sào sạc, lá cây rừng loáng bóng dưới ánh trăng xanh, bọn quân lính được vua cho phép đàn hát vang cả một khoảng lâm tuyền hoang tịch. Nếu là những đêm không có trăng sao, chúng ngả cây khô đốt lửa sưởi, nướng thịt và đàn hát thâu canh.

Cũng khi ấy thì vua đang say trong trướng với một vài viên quan văn võ thân tín. Cái tính ưa phóng đãng của vua do vậy mà bị các quan trong triều không phục và lòng dân oán giận.

Nhà vua không vì thế mà bận tâm, ngài ngồi trên ngai vàng mà chỉ mơ nghĩ đến hươu nai, rừng núi. Lạ một điều là những ngày không đi săn vua bị ốm liền, nếu không ốm thì cũng chẳng thiết gì việc triều chính, hoặc cảnh oan khổ đói kém của muôn dân. Nguyên chỉ vì Hồ Quý Ly ngang ngạnh, lộng quyền mà ngài sinh ra lo buồn, chán nản.

Hồ Quý Ly làm quan đến chức Tư không, vốn là kẻ gian hùng độc ác. Hồ có ý nhòm ngó ngôi vương mà chưa tiện dịp mưu việc phản, cho nên muốn che mắt người ngoài, Hồ giả trung thành nịnh hót chiều theo ý muốn của vua, tuy Hồ vẫn biết vua chẳng ưa gì mình.

Một sớm ngày mùa thu, ba hồi trống đằng cửa bắc vừa gióng hết thì một đoàn người ngựa tự trong thành phi ra, cát bụi vẩn mù lên trong nắng hanh vàng lạnh lẽo. Đó là một cuộc đi săn của nhà vua, mà lần này có Hồ Quý Ly thân đi phò giá.

Mặt trời vừa đứng bóng thì đoàn săn đến trước một khu rừng bao la, núi và cây cao ngút từng mây. Ngoài cửa rừng, một con sông rộng nước trong veo, hai bên bờ lau sậy um tùm, chảy hút đến tận chân trời. Muốn vào rừng phải qua con sông đó, vậy mà tuyệt nhiên không có một chiếc thuyền nào.

Hồ Quý Ly ngồi trên yên ngựa cầm roi trỏ con sông, hỏi lính:

- Sông này là sông gì?

- Bẩm, là sông Đà Giang.

Nhà vua còn đang phân vân, Hồ đã xuống ngựa hạ lệnh cho quân lính đi đẵn cây làm mảng để qua sông vào rừng. Lệnh vừa truyền thì một lúc sau đã có mấy cái mảng lớn thả xuống sông. Vua tôi lênh đênh trên dòng nước bạc. Mấy chiếc mảng đè ngang ngọn sóng, ngựa hí vang lừng, vọng vào lòng rừng sâu.

Mảng cách bờ chưa được bao xa thì mây đen ngùn ngụt kéo kín cả bầu trời. Gió mạnh nổi lên đùng đùng và chỉ trong chớp mắt đã thành giông tố. Gió rú bên kia rừng. Mây sa xuống trùm ngọn núi. Tiếng chim kêu xáo sác. Văng vẳng như có tiếng hổ báo rống lên. Mưa trút xuống. Vua và Hồ bàn cho quay mảng trở lại bờ. Khi mấy chiếc mảng vừa cặp vào bờ rồi, Hồ sai căng trướng căng màn lên trên các mảng và sai đốt lửa để vua hong áo đợi ngớt cơn mưa gió. Một dãy mảng nối liền nhau trên sông nước trông như một đoàn quân hạ trại trên mặt đất chờ ra trận vậy.

Cho mãi đến chiều tối, gió mưa vẫn không ngớt chút nào. Mưa gió dằng dai sang tới hôm sau, và xem chừng còn có thể tiếp nhiều ngày nữa. Quân lính phải lặn lội vào các thôn xóm rất xa để lấy gạo, bắt lợn đem về mảng làm cơm. Mặc dầu vậy vua vẫn chưa muốn bỏ cuộc săn mà trở lại hoàng thành. Tối ngày thứ hai thấy vua buồn quá, Hồ sai quân làm tiệc rượu. Hồ với vua cùng say sưa. Mươi tên lính đứng hầu hai bên. Những ngọn đuốc nhựa thông ở tay chúng bốc cháy ngùn ngụt, thắp sáng cả một khúc sông.

Bên bìa rừng, trong đêm khuya, tiếng chim khắc khoải kêu lẫn vào tiếng gió mưa và tiếng sóng vỗ trên sông Đà.