TIỂU ANH HÙNG
Vị tiểu anh hùng đó là Nguyễn Đình Đắc, cháu xa đời ông Nguyễn Xí, khai quốc công thần đời nhà Lê. Ông Đắc sinh vào khoảng niên hiệu Quang Trung nhà Tây Sơn. Quê ông ở làng Thượng Xa, thuộc phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An bây giờ. Ông ra đời trong một gia đình nghèo khó, cha mất sớm. Mẹ ông thường ngày hái rau kiếm củi, tần tảo nuôi con. Tuy nghèo túng, bà mẹ cũng cố cho Đắc đi học. Cậu thiên tư thông minh, mới sáu tuổi mà học đâu biết đấy. Thường ngày đi học về, thấy mẹ già còng lưng làm lụng khó nhọc Đắc không đành lòng, cậu bèn đi hái rau, làm việc giúp mẹ. Lên mười tuổi, thân thể Đắc đã to lớn khác thường, tiếng nói như chuông, ăn khoẻ, sức mạnh lạ lùng, lại can đảm không biết sợ là gì.Trong làng có một trường dạy võ, xin vào học phải mất tiền. Biết phận nhà nghèo, Đắc chỉ ngày ngày học bài xong lại đến trường dạy võ nấp một chỗ rình xem để học trộm. Trong đám học trò luyện võ có lắm anh gày gò ốm yếu múa may không ra sao cả, cũng có anh sức lực nhưng dáng điệu tỏ ra kẻ võ phu sấc lấc. Đắm ngắm họ tập với nhau, ngứa mắt không nhịn được, bỗng cười vang. Ông thầy dạy võ và bọn học trò ngạc nhiên nhìn cả ra ngoài cửa. Đắc thấy mình trốn là hèn nhát, cậu bèn ung dung bước vào sân, lễ phép chắp tay chào ông thầy và khắp mọi người.Ông thầy hỏi:
- Có phải mày vừa cười đó chăng?
Đắc khoan thai đáp:
- Vâng, chính con cười đấy ạ.
- Tại sao mày cười? Mày có biết như thế là hỗn láo, đáng căng nọc ra đánh đòn không?
Đắc ngửa mặt lên trời, cười to hơn, rồi đáp:
- Con xin chịu đòn. Nhưng trước hết, xin thày sai anh học trò nào khỏe tay nhất đánh con mới xuể. Con xin đứng yên cho anh ta đánh, mà không đánh bằng roi, xin đánh bằng ngọn côn to nhất.
Nói rồi, Đắc nhảy xa ra ba bước, đứng thủ miếng chờ. Một anh học trò vạm vỡ, có tiếng giỏi nhất trường, thấy thằng bé con trêu trọc, bèn nhảy ra, vung côn lên đánh xuống. Đắc nghiêng mình tránh, ngọn côn vụt hụt khiến anh chàng to lớn kia chúi người đi. Đắc nhanh như con vượn, nhảy lên đá vào ngực anh kia một cái hết sức mạnh, và đưa luôn tay ra đánh mấy cái vào chỗ phạm. Anh chàng to lớn ngã lăn ra, không sao ngồi lên được nữa.
Bọn trò khác thấy vậy vỗ tay reo ầm lên. Chúng không dám bênh anh to lớn kia, chúng còn tỏ ra mừng rỡ vì bỗng tự đâu một cậu bé con mười tuổi đã đánh ngã được cái anh chàng vốn hàng ngày cậy sức khỏe, cậy thầy yêu mà bắt nạt, đè nén chúng.
Ông thầy chạy đến cầm tay Đắc khen ngợi và vui vẻ hỏi:
- Ai dạy con những miếng võ ấy?
Đắc lễ phép kẻ thực là cậu chỉ hàng ngày đến đây học lỏm, rồi về nhà cậu học lại một mình, tự ý biến đổi những miếng đánh đi.
Ông thầy ngắm nghía thân hình gân guốc, rắn chắc và khuôn mặt khôi ngô, đôi mắt sáng quắc của cậu bé con, lấy làm yêu mến mừng rỡ lắm. Ông thầy họ Lý, vốn giỏi nghề xem tướng, biết Nguyễn Đình Đắc sau này ắt phải làm nên nghiệp lớn phò vua giúp nước, bèn dắt tay vào nhà, bảo:
- Từ nay, con đến đây ta dạy, không phải xem trộm ngoài cổng như vậy nữa.
Đắc quỳ lạy, rồi chạy vụt về nhà. Cậu rối rít kể với mẹ già việc đánh ngã anh học trò giỏi nhất của ông thầy họ Lý, và kể rõ việc ông thầy ấy sẽ dạy cậu học bắt đầu từ ngày mai. Bà mẹ tuy trong lòng cũng vui mừng về tương lai của con nhưng bà thấy lo cái nghề võ thô bạo, tài giỏi bao nhiêu càng chết sớm bấy nhiêu. Bà suy như chồng bà, làm tướng giúp vua Lê đánh trăm trận, làm quan giữ đồn trấn ải, thế rồi cũng đến chết ở chiến trường. Nhưng dù sao, bà cũng tin ở lòng trời. Bà để tùy ý con, không ngăn cản.
Từ hôm sau, Đắc sớm học văn, chiều luyện võ. Văn tấn tới, võ cũng tinh tường. Ông thày dạy văn yêu. Ông thầy dạy võ cũng quý. Tiếng đọc sách của Đắc sang sảng cả xóm làng, tiếng côn quyền, gươm giáo của Đắc vun vút kêu ngoài chân núi sau nhà, khiến ma kinh quỷ sợ.
Không bao lâu, khắp vùng ai cũng bàn tán về tài văn tài võ của Đắc. "Cha hổ, lại sinh hổ, cậu ấy rồi mai sau ắt làm lớn". Hai ông thày thường vẫn nói với nhau như vậy.
Sức Đắc dũng mãnh quá, chẳng mấy chốc đã thuộc lòng mười tám ban võ nghệ. Cậu quen dùng đôi song kiếm, và bắn tên rất giỏi. Các bạn cùng trường không ai dám đấu với Đắc. Anh chàng to lớn, kiêu ngạo nhất bọn bị cậu đánh ngã bữa nọ, bây giờ tuy hơn cậu hai chục tuổi mà kính sợ cậu như bậc đàn anh. Đắc giỏi, nhưng không kiêu ngạo. Cậu nhũn nhặn đối với người tử tế; với kẻ bất nhân, cậu thẳng tay trừng trị. Trong làng ai cũng gườm sợ câu, không dám khinh rẻ mẹ con cậu như trước nữa.
Càng lớn, Đắc càng ăn khỏe. Bà mẹ lo kiếm gạo cho con ăn mà không hề than thở một lời. Thấy mẹ già khổ sở, Đắc buồn rầu, một hôm nghỉ học. Bà mẹ hiền đức biết ý con, khóc mà răn:
- Mẹ biết con muốn ở nhà kiếm rau củi mà nuôi lại mẹ. Nhưng con ơi, nhà mình vốn dòng nghiên bút kiếm cung, con nên gắng công theo học để nối nghiệp cha ông. Mẹ tuy tóc bạc, lưng còng nhưng vẫn còn khỏe, có thể kiếm củi hái rau nuôi con được.
Đắc không dám trái lời mẹ, lại miệt mài theo học, nhưng đến bữa, cậu có ý ăn ít đi nhường phần mẹ, rồi vào rừng kiếm hoa quả ăn thêm cho no. Cậu làm cây nỏ và mài dao sắc vượt rừng này, núi nọ săn bắn muông thú và chặt củi gánh về đem ra chợ bán. Cư như vậy, hai mẹ con tháng ngày đùm bọc lấy nhau.
Một bữa nọ, Đắc vào rừng, bà mẹ kêu ngồi nhà buồn cũng theo con đi kiếm củi. Giữa đường gặp bày trâu đang ăn cỏ. Hai con trâu trắng trọi nhau, một con thua chạy, một con hăng máu đuổi theo. Bà mẹ sợ hãi, tránh không kịp lăn xuống ruộng. Đắc đang bẻ củi trong bụi cây, vội chạy lại, nắm lấy hai sừng một con trâu, hét to lên rằng: "Đồ súc sinh dám làm mẹ ta sợ hãi". Rồi tiện tay bẻ phăng ngay đôi sừng, con trâu đau quá, lồng chạy vào rừng mất.
Lại một hôm vào rừng kiếm củi, trong lúc cắm cúi chặt, bỗng một con hổ nhảy chồm tới toan vồ bà mẹ. Đắc thét vang rừng, tiếng thét còn lớn hơn cả tiếng hổ gầm, đoạn cậu xách rìu xông lại đánh mãnh thú một hồi lâu. Mãnh thú đuối sức dần nên mang vết máu dòng dòng mà chạy. Bà mẹ khiếp sợ ngất đi. Cậu phải cõng mẹ về thang thuốc. Từ đấy, bà mẹ càng ngày càng yếu. Cậu phải bỏ học chữ, ở nhà hàng ngày vào rừng kiếm củi săn bắn mà nuôi mẹ.
Thấm thoát, Đắc đã mười ba tuổi, cậu thường nói với mọi người:
- Sinh buổi loạn ly này, học nho lắm cũng không làm gì, võ là cần nhất.
Cho nên, cứ lúc rảnh là cậu lại ra công luyện tập, và xem những sách cổ, binh thư chiến lược.
Như trên đã kể: Đắc vốn dĩ là người khảng khái và can đảm. Nghe dân quanh vùng bảo ở một khu rừng nhỏ làng bên có một con trăn to, làm tổ trong một lùm cây dứa dại, thường ra làm hại những người chợ búa qua lại trong vùng. Đắc bèn mài dao thật sắc và một chiếc dùi nhọn, dắt vào lưng, giấu mẹ mà ra đi trừ hại cho dân.
Tới khu rừng, Đắc đến trước lùm dứa dại đập loạn xạ, miệng quát tháo, con trăn nghe tiếng người bèn lao ra đuổi. Đắc bỏ chạy, nhử cho con trăn đuổi theo. Đắc chạy tới một gốc cây to, chờ con vật đến. Đắc lập mẹo sẵn: cậu tựa áp lưng vào thân cây. Trăn thò đuôi ra (giống trăn vốn hay quấn bằng đuôi trước) quấy lấy cây đa và người. Thừa lúc trăn quấn chưa chặt. Đắc co người thụt xuống đất. Mình trăn trơn nhày nhụa, cậu tụt ra rất dễ. Rồi nhanh như cắt, cậu cắm chiếc dùi nhọn đóng chịt cổ trăn vào thân cây, đoạn rút dao chém đầu nó rơi xuống đất, mình nó quằn quại một hồi cũng rơi theo nốt. Thế là trừ xong cái hại lớn cho dân làng, cậu tinh nghịch nhặt thân trăn quấn vào mình, tay cầm chiếc đầu trăn đẫm máu đi vào làng. Làng đang có phiên chợ. Cậu vứt mình trăn và đầu trăn lên mái chợ, rồi lẳng lặng đi.
Thấy thằng bé con mười tuổi mà chém được trăn to như thế, ai trong thấy cũng phải kinh hồn. Họ đứng nhìn xác trăn, không dám mò tới. Nhà nào không may có người bị trăn nuốt thì vác dao ra đâm vào bụng nó, vừa khóc vừa nguyền rủa.
*Một năm trời làm mất mùa. Nắng cháy như đổ lửa. Người chết đói nằm la liệt. Chim muông, thú vật trong rừng đi mất hết.
Đắc lần hồi nuôi mẹ, kiếm không đủ ăn. Cậu lo dành dụm ít ngô khoai cho mẹ, rồi một hôm lạy mẹ xin đi kiếm ăn ở các vùng khác.
Cậu đến một vùng xa xin làm seo thuê cho làng để kiếm ít ruộng của làng mà cầy cấy. (Tiếng Nghệ An, Hưng Nguyên gọi seo là thằng mõ làng). Cậu thấy tục làng ấy dã man quá. Những người tai mặt già cả thì tham ăn tham uống, cậu chỉ muốn trừng trị chúng một trận, nhưng lại sợ làm hại mẹ già ở nhà, nên đành nhẫn nhục mà hầu hạ chúng cho xong.
Ít lâu sau, mẹ già chết. Đắc lo mãi mới mua được cái áo quan chứ chưa có tiền làm ma. Một hôm làng ấy có lệ cúng tế, làm thịt heo. Tế rồi, họ bày cỗ ra sàn đình ăn uống, bắt seo hầu hạ. Một bô lão truyền:
- Bớ! Seo, tê nước xáo từ đầu các cố tê xuống!
Tiếng Hưng Nguyên nói thế là bảo thằng mõ đem bày nước xuýt lợn từ đầu dòng các cụ trở xuống. Tức bực vì cái thói la ăn la uống, và do tinh nghịch nữa, Đắc bèn múc một thùng đầy nước xuýt sôi, chạy thẳng lên dãy các bô lão ngồi, cứ nhè mấy đầu ông cụ già mà dội xuống cho một mẻ, làm các cụ giẫy nẩy chạy không kịp, ướt lướt thướt, kêu ầm ỹ như lũ khỉ.
Dân làng giận quá, xúm lại vác gậy gộc đánh thằng mõ. Cậu vớ lấy đôi dao phay làm thịt, múa loạn lên, hai mắt long sòng sọc, khiến cả làng khiếp hoảng tan chạy hết. Đoạn cậu chống dao, lên ngồi ngay chỗ đầu hàng, tức là chỗ ngồi của cụ tiên chỉ, sẵn cơm thịt chén một bữa no nê, hết nhẵn năm mâm cỗ.
Đắc lại khăn gói ra đi, mà cũng chưa biết đi về đâu. Cậu đành nhằm theo hướng biển đi đến làng Ba Trang, cửa biển Hội Thống. Thấy dân chài làng này bỏ nhà phiêu bạt đi đâu hết, cậu lấy làm lạ. Ngoài kia sóng biển vỗ ầm ầm. Cậu bé một mình với khăn gói đeo vai, một cánh nỏ, túi tên và đôi kiếm dắt bên sườn, ngơ ngác giữa làng nhìn những mái nhà hoang phế.
Mặt trời đang lặn. Cậu đói quá mà tuyệt nhiên không thấy một nhà nào có lửa, có người, bèn lững thững ra ngoài bãi biển, chỉ trông thấy trời nước mênh mông, từng đàn chim biển bay chập chờn trên sóng bạc tìm đến những miền hoang đảo nơi chân trời. Cậu ngồi bệt xuống một mỏm đá, bọt nước vỗ vào hai chân bắn tung lên, cậu mải nhìn quên cả đói.
Bỗng có tiếng ai ho ở đâu đây, cậu ngoảnh lại thấy một ông lão tóc bạc phơ phơ chống gậy đi trong nắng chiều trên bãi biển. Ông cụ qua chỗ cậu bé, dừng chân một chút rồi lại chống gậy bước tiếp, thỉnh thoảng giơ tay đấm lưng và ho vài tiếng. Thấy dáng điệu của ông già cô độc miền biển này có một vẻ khiến mình vừa kính phục vừa nghi ngờ thương hại, Đắc bèn đứng dậy chạy theo, chắp tay thưa:
- Bẩm cụ về đâu? cháu đói lắm, có thể theo cụ xin cho ăn một bữa?
Ông già ngắm nghía thấy cậu kháu khỉnh vạm vỡ, tuổi còn nhỏ mà lại đeo kiếm to, nỏ lớn, giọng nói oang oang thì gật đầu, vuốt râu bảo:
- Được lắm, mời cậu theo ta về xóm kia. Ta đãi cậu một bữa cơm rau muối.
Nói rồi ông lão đi, Đắc theo sau. Cậu bé để ý thấy ông cụ đi lật đật, luôn luôn nhìn ra mặt biển như sợ hãi, chờ đợi một điều gì. Bỗng nhiên, lão dừng bước, giơ một tay lên ngang trán che ánh nắng, hấp háy đôi mắt, run giọng hỏi Đắc:
- Cậu bé ơi, cậu tinh mắt thử nhìn xem đằng xa kia có một cánh buồm đen, phải không cậu?
Đắc quắc mắt trông, rồi đáp:
- Bẩm cụ, đó là một đám mây đen ở chân trời. Sắp nổi cơn bão lớn đấy ạ.
Ông lão cúi xuống thở một hơi dài. Biết ông lão buồn, Đắc tinh ý đoán có chuyện chẳng lành, khẽ hỏi:
- Thưa cụ, độ này vùng biển đây có yên lành không ạ?
Ông cụ liếc nhìn Đắc, rồi vẫn lầm lì bước vội vã. Sau khi đã kéo sập cái cổng tre xuống chắc chắn rồi, ông cụ mới khe khẽ đáp câu cậu bé hỏi ban nãy:
- Dào ôi, nào có lành a cậu. Dạo này không biết trời ra tai hay sao mà quân cướp của giết người như ngóe ấy kéo đến ầm ầm, làm khổ dân mình mãi.
Đắc kinh ngạc, trợn tròn mắt:
- Quân giặc nào vậy cụ?
Ông lão vừa xúc gạo ra bát vừa đáp, giọng thì thào như sợ ai nghe thấy:
- Giặc Tầu Ô, chứ giặc gì nữa. Chúng tung hoành trên khắp mặt biển, cướp bóc của cải, bắt gái đẹp rồi lại rút cả về Tầu. Quan quân triều đình không hề lưu ý chi đến chúng, thành ra chỉ bọn dân chài bị khổ, không dám ra ngoài khơi đánh cá nữa. Một lần, quân giặc kéo lên bờ vào làng này bắt cóc cô con gái ông Tiên, đốt mấy nóc nhà rồi đi. Nên bây giờ, dân xóm sợ hãi chạy lánh cả sang bên kia núi. Con cháu lão cũng đi cả, hôm nay lão về thăm qua nhà cửa, rồi sớm mai lại đi về bên kia núi, chứ ở đây cũng khó yên với chúng…
Ông già còn tiếp tục kể lể bằng những tiếng thở dài và những tiếng ho nhọc mệt.
Cậu bé cam đảm, dũng mãnh nghe ông già nói vậy, tức giận mà thét lên:
- Quân chó biển dám nhũng loạn như thế, xin cụ để cháu giết trừ chúng nó.
Ông lão quay lại nhìn cậu bé con, rồi lắc đầu mỉm cười:
- Dào ôi, sức chúng như sóng bão, mình là bọt nước, chống làm sao được. Đến quân triều đình có kéo tới cũng bị chúng đánh vỡ, nữa là…
Cậu bé vốn tính nóng như lửa, cam đoan với ông già:
- Xin cụ cứ gọi hết cả người làng về đây, cháu sẽ dạy họ cách giết giặc. Nếu không giết được giặc, cháu xin nộp đầu.
Ông lão ngắm tướng mạo, sức vóc cậu bé một lúc rồi khẽ gật đầu. Sớm hôm sau, tin ấy truyền đi. Buổi chiều đó, ba trăm dân chài đã lục tục kéo về. Họ tò mò muốn xem mặt thằng bé con nói khoác hơn là tin rằng đấy là một vị tiểu anh hùng dư sức chém đầu bọn giặc Tầu Ô như chém chuối.
Đắc biết vậy, bèn ra uy. Cậu đứng lên hô hào việc diệt trừ giặc, cậu nói qua về kế cậu sẽ dùng khi giặc đến. Bọn họ tin ngay là cậu bé có tài, và họ đã sắm sửa giáo mác, đứng cả trên thuyền để nghe lệnh cậu dàn trận. Ngoài khơi sóng mạnh ngút trời. Vị tiểu anh hùng đầu bịt khăn xanh, vai đeo nỏ lớn, lăm lăm đôi song kiếm, đứng ngạo nghễ ra hiệu lệnh. Một đoàn mười chiếc thuyền to dương buồm đón gió, lúc tiến lúc lui, lúc tạt ngang, lúc tiếp hậu, lúc quay tròn, nhanh vun vút. Giáo mác, câu liêm, đuốc lửa (để đốt buồm quân giặc) tua tủa và rực rỡ trên mười thuyền ngang dọc, tung hoành. Tiếng ba trăm quân reo vang dậy cả một vùng trời biển bao la, tưởng như một đoàn thiên binh vậy.
Ông già họ Nguyễn chống gậy đứng trên bãi biển, một tay giơ ngang trán che bóng nắng, một tay run run vuốt chòm râu bạc, gật gù khen thầm:
- Vị thần đồng kia là con cái nhà ai mà tài năng ghê gớm thế? Ngữ này mai sau không biết sẽ làm nên đến thế nào?
Mặt trời lặn ở chân mây. Mặt biển lúc này chỉ còn là một vạch nối liền nước với mây như một đám lửa nghi ngút cháy. Cậu bé khăn xanh vung kiếm phất cờ thu chiến thuyền. Những cánh buồm nâu hạ xuống đều một loạt, những ngọn gươm giáo thu cả lại, những bó đuốc nhựa thông tắt hết, tất cả chìm trong bóng tối, và ba trăm quân ngậm tăm lên bãi cát, phục suốt đường cửa biển, phòng quân giặc kéo qua.
Quả nhiên, đêm ấy, vào khoảng canh ba, ngoài mặt biển xa hiện ra mấy cánh buồm trong bóng sao mờ. Cậu bé được tin báo, bèn nhảy lên mui thuyền xem hư thực. Biết có năm thuyền giặc, cậu cũng truyền cho năm thuyền của mình kéo buồm lên, xếp hàng ngang ra đón giặc.
Trong đêm tối, thuyền của bọn chài đến nhanh quá khiến giặc Tàu Ô không phòng bị mà cũng không ngờ lại có kẻ dám chống lại mình, vì vậy giữa lúc chúng đang chè chén và hút thuốc phiện say sưa thì quân của Đắc nhảy ùa sang thuyền chúng mà chém giết. Giặc kêu chí chóe, không kịp tìm khí giới chống cự, chết không còn sót tên nào. Có kẻ liều nhảy xuống biển bơi, nhưng rồi cũng làm mồi cho sóng to gió lớn.
Thắng to rồi, Đắc bèn truyền lấy hết của cải rồi sai đập vỡ lòng thuyền giặc cho chìm hết. Hơn một trăm xác giặc Tàu thế là mất tăm nơi rốn biển.
Kéo quân về, vị tiểu nguyên súy ấy được ông già họ Nguyễn ra đón, cầm tay mà hết lời khen. Ông lão, ngay đêm ấy, sai giết bò, lợn, khao quân sĩ. Lão mời Đắc ngồi trên nhất, nhưng Đắc khiêm tốn xin ngồi dưới cụ, còn ba trăm dân chài thì xếp hàng ngồi một lượt dài, cơm rượu no say.
Cách hai ngày sau, có tin giặc Tầu Ô đến báo thù.
Trận thắng vừa rồi đã làm cho bọn chài thêm can đảm, họ rầm rộ theo Đắc ra bãi biển. Xa xa một đoàn ước chừng mười thuyền đang tiến lại. Đắc thét quân lên thuyền dương buồm sẵn. Bấy giờ tối nhá nhem. Mấy trăm bó đuốc nhựa đã sẵn sàng. Những ngọn câu liêm xếp đầy ở mũi thuyền sẽ dùng móc cổ giặc lôi xuống nước lúc hai bên xô xát.
Đắc đứng trên một chiếc thuyền lớn nhất, hai tay cầm đôi kiếm, mắt quắc lên như lửa cháy. Cái bóng bé bỏng của vị nguyên súy mười ba tuổi in lên cánh buồm nâu căng gió biển trông uy nghi lẫm liệt và khiến người ta nghĩ đến Bát-tý Na-tra của chuyện Tầu thời cổ. Mười con thuyền theo gió ra khơi. Giặc như hổ đói, thấy thuyền Đắc thì gầm thét lên. Đắc dặn quân phải đánh cho khôn khéo. Giặc ồ ạt đến phục thù, chỉ có dũng chứ không có mưu trí gì.
Khi hai bên sắp gần nhau, Đắc bèn dùng chiến lược theo binh thư: cậu cho thuyền mình ngược nhanh lên chiếm lấy đầu gió, rồi nhanh như cắt vây lấy đoàn thuyền giặc. Thuyền giặc bất thình lình bị dồn xuống dưới chiều gió nên hoạt động chậm, va loạn vào nhau. Đắc nhân lúc giặc hỗn loạn, bèn dương nỏ nhằm mấy tên to lớn nhất có vẻ tướng súy, bắn luôn mấy phát tên. Ba thằng lộn đầu rơi xuống sông. Đắc phất cờ ra hiệu lệnh, ba trăm quân chài từ nãy phục trong khoang, bấy giờ mới nhô lên, gươm giáo đâm ra như chớp nhoáng. Giặc liều nhảy sang đánh dữ, nhưng tên nào cũng bị câu liêm ném ra móc vào đuôi sam hoặc áo quần giật mạnh lăn xuống nước. Mỗi tên ngã xuống liền bị một mũi dao đâm theo, giẫy lục đục dưới mép thuyền rồi chìm nghỉm.
Bọn giặc Tầu Ô hung tợn, không thấy thế mà lui. Chúng càng gầm thét, chửi rủa lăn ùa sang. Đắc bắn trăm phát trúng cả trăm. Sau biết giặc mạnh quá, cậu truyền phóng lửa. Những bó đuốc nhựa thông được ném sang bên thuyền giặc, bắt vào cánh buồm cháy bùng bùng. Một lúc, mười cánh buồm cùng cháy, cả thuyền cũng cháy, vì mỗi thuyền bị chất ít ra là trăm bó đuốc. Thuyền giặc trong chớp mắt hóa ra một đám cháy ngút trời, tiếng kêu gào át cả tiếng sóng gió. Đắc truyền dãn vòng vây. Ba trăm dân chài không bị chết người nào, chỉ mươi gã bị trúng thương nhẹ mà thôi. Họ đứng nhìn đám thuyền giặc chìm dần, sau cùng một lớp sóng mạnh vùi kín cả bao nhiêu mảnh ván nát cùng mấy trăm xác giặc Tầu.
Trận này đại thắng!
Và cũng từ hôm ấy, không còn bọn giặc nào dám đến báo thù. Dân chài lại trở về về làng làm ăn như cũ, họ mang ơn, kính trọng cậu bé anh hùng như một vị thần.
Đắc từ biệt mọi người. Chí mong làm lớn, không lúc nào cho cậu ở yên một chỗ. Ông lão họ Nguyễn giữ không được, đành đưa tặng nhiều tiền bạc. Đắc chỉ nhận một trăm nén bạc, rồi lại đeo khăn gói lên đường.
Được số tiền ấy, Đắc về làng làm ma cho mẹ. Trọn việc hiếu rồi, cậu lại dắt kiếm, đeo khăn gói ra đi, quyết chí đi rõ xa, tự hẹn phải làm nên cho bõ công ăn học và vui thỏa vong hồn cha mẹ dưới suối vàng.
Hơn một tháng dòng, cậu bé đi vu vơ, qua rừng qua núi, gặp làng nào vào làng ấy, chẳng biết làm chi, cũng chẳng có nơi nào nương tựa. Một hôm, Đắc ngồi nghỉ chân ở một cánh đồng, thấy một ông thầy địa lý đang đi xem đất, Đắc đường đột chạy lại cười mà hỏi rằng:
- Tôi muốn làm vua. Thầy có giỏi làm cho tôi một ngôi đất, được làm vua thì tôi còn mấy nén bạc đây xin biếu thầy.
Ông thầy địa lý ngẩng lên nhìn, thấy một cậu bé kháu khỉnh và có vẻ bướng bỉnh, lưng dắt kiếm, vai đeo khăn gói, ông ngắm nghía hồi lâu.
Đắc lại hỏi:
- Thầy có thể để được ngôi đất cho tôi làm vua, làm vua một ngày cũng được, thì thầy nhận lấy bạc đây. Nếu tôi làm vua được lâu, lại hậu tạ thầy nữa, sẽ phong thầy chức Quốc Sư. Bằng thầy nói dối, tôi sẽ lấy đầu thầy đó!
Thầy địa lý cười mà đáp:
- Tướng cậu chỉ làm nên đại tướng, chớ không làm vua được. Nhưng nếu cậu muốn làm vua một ngày cũng xong.
- Nếu thế, xin thầy nhận lấy bạc mà để đất cho tôi.
- Tôi không lấy bạc của cậu. Muốn để đất thì theo tôi.
Đắc theo ông thầy đến một cái cồn cao. Ông thầy ngắm một lúc, chỉ chỗ cho cậu, bảo đào một cái huyệt cho thật sâu, rồi xuống đó mà nằm một ngày, ắt hôm sau sẽ làm vua. Rồi thầy hỏi tuổi Đắc. Câu nói mười ba tuổi. Ông thầy ngửa bàn tay, tính toán một lúc lâu mới nói:
- Tôi cất cho ngôi đất này là theo ý cậu muốn làm vua một ngày đó. Hãy đợi đến giờ Tý (12 giờ đêm) thì nằm xuống. Sang giờ Tý ngày mai, cậu sẽ làm vua một ngày. Còn mệnh cậu là mệnh hỏa, vượng ở phương nam, muốn làm đại tướng phải đi về phương nam mới thành công.
Đắc nghiêm mặt hỏi:
- Lời thầy nói có chắc chắn không?
Ông thầy cũng nghiêm mặt đáp:
- Nếu sai, cậu cứ tìm tôi mà chém đầu.
- Nếu vậy thì mai tôi lên ngôi vua, nay còn mấy nén bạc này, tôi biếu thầy.
- Không, tôi làm chơi cho cậu thôi, xin không lấy tiền tạ.
- Thầy đã cất đất cho tôi thì thầy cứ nhận tiền để tôi yên lòng.
- Xin để cậu tiêu, chẳng mà lo rồi không có.
- Mai tôi làm vua, bạc vàng châu báu thiếu gì nữa?
- Nào có lâu đâu, chỉ một ngày, làm gì mà ra tiền. Thôi giữ mà tiêu. Cậu mai sau làm đại tướng, may ra có ngày tôi gặp lại, bấy giờ tạ ơn cũng kịp.
- Lời thầy bảo, tôi xin vâng theo, hễ làm nên, quyết không dám phụ.
Ông thầy đi rồi. Đắc đợi đúng giờ nhảy xuống huyệt nằm. Đang đói, cậu ngủ khì một giấc say.
Ngày hôm sau, giờ tý tỉnh dậy, nhảy lên miệng huyệt, thấy bụng đói quá mà chưa được làm vua, cậu cáu giận, vùng rút kiếm định chạy theo tóm cổ lão mà chém rụng đầu cho hả giận. Cậu cứ theo đường cái quan chạy miết. Đến một chỗ, thấy có đèn nến sáng, bèn chạy ngay vào. Đó là một ngôi đền. Cậu vào hẳn nội cung, thấy trên ngai thờ một ông vua áo thêu rồng chầu, mũ long cổn giát ngọc sáng lóng lánh. Dưới có mấy gã coi đền đang dở thức dở ngủ. Đứng ngắm một lúc, cậu lại quen thói tinh nghịch, tóm búi tóc mấy gã coi đền lôi dậy, quát vang:
- Ta là vua đây, lui ra cho ta thắng áo mũ, lên ngôi thiên tử.
Mấy gã coi đền trông thấy đôi kiếm sắc, lại thấy cậu hung dữ thì khiếp sợ ôm đầu chạy lủi ra. Cậu nhảy phắt lên lột áo mũ, mặc chỉnh tề, nom quả đường đường một vị đế vương, lưng đeo bảo kiếm lẫm liệt, lên ngai ngồi, vui thích rằng mình được làm vua. Còn tướng tá chung quanh toàn những vị thần bằng tượng gỗ.
Ngồi một lúc trên ngai, thấy trời đã sáng, bụng đói quá, trông thấy đồ lễ vật trong đền, rượu, chuối, xôi, gà luộc, bèn tự lấy chén no say, rồi dạo chơi, chơi chán lại lên ngai ngồi ngự. Đến khi trông rõ hoành phi câu đối mới biết đấy là đền vua Thục An Dương Vương ở sườn núi Mộ Dạ (thuộc phủ Điển Châu, tỉnh Nghệ An bây giờ, tục gọi là Đền Cuông). Khi đã hiểu ra, cậu sinh lòng kính sợ. Nhưng bản tính nghịch ngợm, và ý thích làm vua vẫn chưa hết, cậu cứ mặc nguyên cả áo mão, ra ngồi trước đền, chỗ đường cái quan. Ngồi mãi, chẳng thấy ai qua lại, mãi đến chiều mới bắt gặp một đoàn người bộ hành đi buôn bán, cả đàn ông lẫn đàn bà ước độ hai mươi người. Chờ họ đến gần, Đắc lên tiếng quát tháo:
- Ta là vua đây. Chúng bay đi qua phải quỳ lạy mới được đi, bằng không mất đầu cả đó!
Bọn kia tưởng là thần thánh hiện lên, khiếp hãi buông bỏ gồng gánh, vội quỳ rạp cả xuống vái lạy một loạt. Đắc ranh mãnh che miệng cười. Chẳng may, trong bọn ấy có bà cô ruột của Đắc, vừa thoạt trông thấy cháu đã nhận ra ngay, bà quát:
- Bớ thằng Đắc! mày làm trò ma trò quỷ gì đó vậy. Có cô mày đây, dám bắt cả cô lạy mày à? Thằng cháu bất nhân!
Đắc nghe nói, đứng nhìn, thì quả là bà cô ruột. Cậu nghĩ vì cô mà lộ cơ mưu, liền bảo:
- Vì cô mà lộ nguyên hình cháu, thôi thì xin lạy cô hai lạy, cháu không thể dung thứ được.
Nói rồi lạy, lạy xong rút kiếm dọa chém[2]. Bọn lái buôn kia hốt hoảng, bỏ cả quang gánh chạy bán sới. Đắc nghĩ bụng theo lời thầy địa lý thế là mình đã được làm vua một ngày rồi. Còn muốn làm đại tướng, phải tìm tới phươngNam. Cậu liền cởi áo mão trả cho vua An Dương Vương.
Tiểu anh hùng họ Nguyễn liền nhằm phương Nam thẳng tiến. Đắc vào tới Gia Định, nghe tin chúa Nguyễn Ánh đang cầm cự với Tây Sơn. Đắc theo phò tá chúa Nguyễn. Tài chí, dũng lược hơn người, viên tướng trẻ tuổi ấy đã bao phen một mình một ngựa xông pha hàng trăm trận, chiến công rực rỡ, khiến chúa Nguyễn yêu mến vô cùng. Đắc được phong đại tướng, lại phụng mệnh vua đi chiêu dụ hào kiệt Bắc Hà. Sau đó Nguyễn Đình Đắc làm quan đến chức Chưởng cơ, đứng đầu võ ban Đại tướng của triều nhà Nguyễn.
Ngọc Giao
Truyền Bá, số 87, năm 1943
Chú thích:
[1] Nay trước đền vua Thục, hãy còn ngôi mộ bà cô ông Nguyễn Đình Đắc)
[2] Chỗ này có nhiều việc vô lý, khó tin nhưng cũng cứ theo lời truyền lại mà chép ra. N.G.