← Quay lại trang sách

NHẠC, HUỆ, LỮ

Ở Châu Lộc, Nghệ An, có ba anh em sinh trong một nhà nghèo. Cậu thứ nhất là Nguyễn Nhạc, thứ nhì là Nguyễn Huệ, thứ ba là Nguyễn Lữ. Cha chết. Mẹ ốm đau. Lúc này Nhạc mới mười tuổi, Huệ, Lữ mới chín, tám tuổi. Ba anh em chia nhau đi ở chăn trâu cho ba nhà phú hộ. Ba anh em ở cùng làng, nhưng xa xóm. Trời phú cho ba anh em đều khỏe mạnh. Huệ dũng mãnh, mưu trí hơn cả. Nhạc khỏe vừa, nhưng thông minh, nhanh nhẹn hơn người, nhất là cái trí khôn vặt thì ít ai sánh kịp. Còn Lữ thì không có gì xuất sắc.

Thời đó nhằm khi Trịnh và Nguyễn chia sông Linh Giang làm bờ cõi. Hai họ, bề ngoài tuy làm ra không muôn gây chiến tranh nhưng bên trong vẫn kết mối thù. Bởi vậy, bên nào cũng ngày đêm lo tập luyện quân bộ, quân kỵ và quân thuỷ. Các làng, các xã đều lập trường dậy võ công khai. Dân gian đua nhau ra sức tập tành đợi ngày ra thi võ để làm nên nghiệp.

Ở vùng Nhạc, Huệ, Lữ, trường võ lớn hơn hết các nơi. Ba anh em sẵn lực, thấy người ta luyện võ cũng hằng ngày đến xem. Hàng ngày dắt trâu ra đồng, ba anh em lại dạy lẫn nhau, không cần thày chỉ bảo. Chẳng bao lâu ba anh em đều võ nghệ tinh thông, mà tính nết do thế càng thêm ngang tàng, bướng bỉnh. Lúc này, ba anh em ham luyện tập đến nỗi bỏ trâu không nhìn đến. Trâu Nhạc được thả rong, đi ăn hết mấy sào mạ của người ta. Chủ ruộng đến bắt đền ông phú hộ. Nhạc bị trách mắng cực nhục, lấy làm giận lắm. Sớm hôm sau ra đồng, Nhạc báo thù trâu, đem buộc mũi con vật vào gốc cây đa, không cho ăn uống. Anh em lại cùng nhau tập tành nhẩy múa.

Hôm ấy, trâu Huệ lại ăn lúa nhà khác. Chiều, anh em lùa trâu về thì trâu Nhạc bị hai hôm đói liền. Nhạc bị chủ đánh ba roi. Còn Huệ, để trâu phá hại, cũng bị chủ mắng trách. Hai anh em uất giận quá, ngày hôm sau dắt trâu ra đồng họp trên một cái gò cao, cùng nhau than thở, đều đổ tội cho hai con trâu. Nhạc bèn truyền hai em buộc đôi trâu trước mặt. Nhạc chễm trệ ngồi trên tảng đá cao chót vót. Hai em cầm gậy đứng hai bên. Quãng giữa, đôi trâu đứng. Nhạc lớn tiếng nói rằng:

- Sau này ta làm đại tướng cưỡi voi đi giữa, hai em cũng làm tướng tả hữu hai bên như thế này thì thích quá!

Huệ nói:

- Làm tướng thì đã thích gì. Làm vua mới thích. Em mong làm vua, chứ không thèm làm tướng.

Lữ nói:

- Hôm nay, anh Nhạc làm vua, hai ta hãy làm tướng, hai con trâu làm thân tù tội. Ta đem xử tội nó một phen chơi!

Nhạc, Huệ nghe nói thì sinh nghịch, ưng ý ngay. Nhạc ngồi lấy oai trừng mắt, đập tay xuống tảng đá thét rằng:

- Bớ hai thằng trâu khốn nạn kia, bay có biết tội hay không? Trời sinh ra bay là chỉ được ăn cỏ, cớ sao bay dám ăn trộm lúa người ta để chúng tao bị mắng? Tao mới phạt tội bắt nhịn ăn có một ngày, mi đã làm ra buồn bã hai hông xỏ một, cho chủ biết mà rầy la tao, ấy là hai tội lớn không tha thứ được. Tướng ta đâu?

Huệ, Lữ dạ ran.

Nhạc thét:

- Chiếu lý vừa buộc đó, mau phạt hai thằng trâu không tha.

Huệ nói như sấm:

- Chiếu lý thì tội ăn vụng lúa, đánh mõm hai chục hèo. Tội làm bộ đói, đánh hông hai chục hèo.

Lữ nói:

- Các tướng chiếu lý như vậy đó, xin bệ hạ cho phép hành hình.

Nhạc vờ vuốt râu, phán:

- Chiếu lý như vậy đúng lắm. Mỗi tướng một thằng trâu, cứ hành hình cho ta. Thằng kia một tội, đánh mõm hai mươi hèo. Thằng nọ hai tội, đánh bốn mươi hèo. Đánh cho đủ, không được thiếu.

Huệ, Lữ vâng lệnh. Lữ đánh một con giữa mõm hai mươi hèo. Còn Huệ nhận đánh con kia những bốn mươi hèo. Sức Huệ đánh mạnh quá. Con trâu đực rất to lớn mà mới chịu mười hèo đã hộc máu mũi, gãy xương sườn, ngã gục xuống chết tươi. Ba anh em thấy trâu chết đều lo sợ, không dám chơi nghịch nữa. Nhạc liền chạy tuốt về kêu chủ, bảo trâu cảm nắng chết rồi. Nhưng ông phú hộ ra xem xét, biết trâu bị đánh, bắt đền tiền. Ba anh em góp nhặt công ở trong nửa năm trời mới đủ mà trả cho phú hộ.

Mẹ già ở nhà đói khổ, chỉ trông cậy vào ba con đi ở đỡ cho thì nay lại phải đền trâu. Bà mẹ lo nghĩ nhiều, sinh đau ốm nặng. Ba anh em thương mẹ, không biết tính kế thế nào, đi vay mượn đâu người ta cũng đóng cửa đuổi ra. Túng bấn và thương mẹ quá, đâm liều. Nhạc thấy lợn nhỏ của nhà hàng xóm nuôi mái thả ngoài ruộng, bèn lập mẹo bắt một con, đem ra chợ bán. Người làng biết, ai nấy nhốt lợn lại không dám thả ra ruộng nữa.

Một hôm, mẹ bệnh quá nặng, gần chết mà không có thuốc. Nhạc ôm đầu mẹ, ứa nước mắt, không biết làm cách nào. Nhà nghèo sinh con hiếu. Nhưng hiếu mà ngồi khoanh tay nhìn mẹ chết không đành, huống chi Nhạc, ta đã biết, là một cậu bé thông minh, bướng bỉnh, nhiều mưu mẹo.

Đêm ấy, trời không trăng sao, mới sang tiết mùa đông lạnh lẽo. Một mình Nhạc đứng giữa cánh đồng, nhìn mấy khóm tre của các làng gần xa mờ mịt trong bóng tối, Nhạc thở dài nghĩ đến cái chết của mẹ già nếu không có thuốc thang, hớp cháo. Sau cùng, bất đắc dĩ Nhạc vào nhà một tên nhà giàu rất ác nghiệt, lẻn vào chuồng lợn, định bắt một con. Nhưng sợ nó kêu, Nhạc sinh kế, vào bếp lấy tro đùm vào vạt áo. Lại tìm được chiếc áo tơi, mừng rỡ, vội đem tro đổ đầy vào đầu lợn. Lợn sợ tro đứng im không dám kêu. Nhạc lấy áo tơi chụp vào con lợn, xốc lên vai chạy. Đi được một đoạn đường, chẳng may chạm trán một anh đánh bạc thua về nhà lấy tiền thêm. Anh kia tưởng Nhạc đi đánh bạc ăn non trở về, bèn vỗ vai Nhạc một cái mạnh mà bảo:

- Gớm, được rồi là vác tiền lỏn về ngủ phải không?

Nói chưa dứt lời, nghe tiếng lợn kêu éc éc, biết ngay gặp kẻ trộm, anh ta kêu rầm làng nước. Nhạc cùng quá phải bỏ lợn mà chạy bạt sang cánh đồng làng khác.

Nghĩ về vẫn không có thuốc thang, cơm cháo cho mẹ. Nhạc vào nhà nữa ở một làng xa. Nhà phú hộ này có một cái hòm to kê kính gian giữa. Nhạc cậy nắp chui vào trong toan rờ lấy đồ vật. Chẳng may chủ nhà thức dậy đánh lửa hút thuốc lào, trông thấy nắp hòm hở liền lẩm bẩm.

- Mình quên khóa hòm. Trộm nó vào thì nguy to.

Nói rồi, chủ nhà lật đật khóa hòm cẩn thận, vô tình nhốt cả Nhạc trong đó.

Nhạc nằm mãi không sao ra được. Rờ tay xem thì toàn là mũ áo tế thần. Túng quá sinh kế, bèn lấy mũ áo thần mặc tử tế, rồi đập phá, quát tháo như sấm.

Chủ nhà cuống quýt mở hòm ra. Nhạc nhảy tót lên ngồi chễm trệ giữa mặt hòm, quát truyền rằng:

- Ta là đại vương. Ngoài đền, chiếc bình hương bị sứt mẻ, động không yên. Mau đòi xã trưởng lại đây, ta dẫn ra đền chỉ cho xem để sửa chữa lại thì các ngươi mới yên ổn được.

Dân làng nghe quát, chạy tới cả. Nghe nói thế đều cho là kỳ, vội xụp xuống van lạy và theo "ngài" ra đền. “Ngài” miệng hò hét, chân đi như bay, phút chốc đến đền. “Ngài” bảo dân làng đứng xa xa rồi vào trong đền một mình, đoạn cởi mũ áo cuộn bé lại, rồi nhảy lên bệ cao, tháo ngói, đu mình lên, chui ra, nhanh nhẹn nhảy xuống phía sau đền. Sau đền là một khu rừng con, Nhạc đi mất. Dân làng chờ mãi, sau liều vào xem, thấy mất ngài thì yên trí là thánh đã về trời.

Nhạc về sai Lữ đến một vùng xa bán mũ áo, được tiền, bèn mời luôn một thày lang về theo xem bệnh cho bà mẹ. Bây giờ đã nghèo khổ, lại nuôi thêm một ông lang trong nhà, anh em Nhạc càng lo lắng, nhưng may bệnh bà mẹ đã đỡ được vài phần.

Ở làng có một xã trưởng giàu nhờ buôn gian bán lận, lại thêm nghề cho vay nặng lãi. Một bọn cướp kéo nhau đến cướp của nhà xã trưởng. Lão nhà giàu này la làng cầu cứu. Dân làng vốn ghét thói gian tham bạc ác của xã trưởng, nên làm ngơ như không biết. Anh em Nhạc, tuy cũng không ưa gì xã trưởng nhưng thấy bà mẹ giục nên đến cứu, vì cũng người làng nước với nhau. Bà mẹ bảo:

- Con ạ, người ta ở không tốt đã có trời trừng trị. Các con đừng nên bắt chước ai. Kẻ anh hùng thấy ai hoạn nạn thì giúp đỡ, chứ không cần suy tính.

Ba anh em vâng lời mẹ, bèn vác dao gậy xông ra. Ra đến đầu xóm, Nhạc đứng lại bảo em:

- Ta vâng lời mẹ mà cứu tên xã trưởng này. Các em đánh nhẹ tay thôi, chỉ cần cho chúng bị thương, chứ đừng giết chết mà tội nghiệp. Bây giờ ta ra chặn đường chúng ở giữa cánh đồng. Chỗ này rộng rãi mới đủ làm chiến trường cho ta được.

Đi đến ba cái gò cao. Huệ đứng lại, quả quyết như viên đại tướng, bàn với anh và em rằng:

- Ta lấy gò này dàn thế trận. Anh Nhạc ngồi chặn gò đầu, đánh thằng đi đầu. Em phục ở gò thứ hai đánh thằng đi giữa. Còn em Lữ chiếm gò thứ ba đánh thằng thứ ba rồi thổi còi ra hiệu cho anh Nhạc và tôi đến cướp lại của cải.

Đêm ấy, trời tối đen như mực, gió lạnh buốt xương, mưa phùn hun hút. Bỗng có tiếng chân người, cả tiếng chân trâu bò nữa chạy rầm rập tới. Mắt Nhạc và Huệ đã luyện quen trong tối, nhìn rõ cả. Bọn cướp đến gần, đông chừng năm mươi tên, vác gươm giáo sáng quắc. Kẻ dắt trâu, kẻ dắt bò, kẻ gồng gánh hòm dương vừa cướp được. Bọn cướp đi tới, qua chân đồi thứ nhất thấy một đứa bé con vác gậy ngồi bên đường, liền giơ gươm quát:

- Thằng ranh vác gậy ngồi làm gì đây, có muốn chết để tao cho một nhát.

Nhạc đã thủ thế, vỗ đùi nhảy vút qua đầu tên cướp, đánh một gậy xuống ngang cổ. Tên cướp không ngờ đứa bé con lại gớm thế, giật mình tránh không kịp. Một gậy thứ hai trúng ngang lưng, tên cướp bị gãy xương sống, lăn vào một bụi cây gục xuống.

Tên thứ nhất đã bị thương, đi cách tên thứ hai một quãng. Tên thứ hai này không biết, lúc gặp cậu bé con vác gậy ngồi chặn lối thì quát:

- Thằng trẻ con nhà ai ngồi chỗ này? Ta hóa kiếp cho mày.

Tên cướp chưa kịp giơ gươm thì đã bị Huệ lia dao chém cụt một ống chân. Chúng hò nhau ùa vào. Nhạc, Lữ, Huệ, ba anh em ra sức trổ oai đánh cho cả bọn vỡ đầu, gãy cẳng, chạy tan tác, bỏ cả trâu bò, đồ đạc lại.

Nhạc nhặt được một túi tiền, bàn với hai em:

- Tất cả của cải này đều là mồ hôi nước mắt của người nghèo. Tên xã trưởng suốt đời không làm phúc đức, không bố thí cho kẻ ăn mày lấy một đồng kẽm. Nay ta trả tất cả trâu bò, hòm dương cho nó, chỉ giữ lại túi tiền, một nửa dùng nuôi ông thày, chữa thuốc cho mẹ; một nửa thì phân phát cho kẻ đói cơm, rách áo. Ta đã cứu nó, lấy lại cho nó cả của cải, số tiền này ta làm việc thiện thay nó, tưởng cũng không tội lỗi gì.

Một lát tên xã trưởng nghe tin có người đánh giúp, lấy lại được của, mới dám chạy ra. Hắn vừa khóc vừa vái lạy ba anh em Nhạc, rồi sai người nhà dắt trâu bò, gánh đồ đạc về.

Cách mấy ngày sau, tên xã trưởng gian tham, vô ơn bạc nghĩa kia thấy anh em Nhạc vốn nghèo túng, cơm không có ăn, tự nhiên lại có tiền đong gạo, nuôi thày lang, phân phát cho láng giềng, hàng xóm nghèo đói, thì nghi ngay là anh em Nhạc thông mưu với cướp. Hắn đi trình quan. Quân lính tới vây bắt.

Ba anh em Nhạc tức giận nỗi mình ở tốt mà bị xã trưởng bội bạc, bèn nhảy qua tường, xông đến nhà xã trưởng, tóm cổ hắn đánh mười trượng rồi chạy lên núi trốn. Lữ nhẩy tường không kịp, bị quan bắt đem về tra tấn nhưng nhất định không nhận tội.

Nhạc, Huệ lẻn vào rừng, đói quá phải hái quả ăn cầm hơi. Chờ đến đêm, thương em bị giam cầm, Nhạc, Huệ lẻn vào phủ toan cứu Lữ, nhưng không cứu nổi. Hai anh em vào rừng nằm. Hôm sau, Huệ một mình đổi dạng thành lam lũ, giả làm trẻ bán rau, đội thúng rau vào thành bán. Đi lẫn trong đám đông người, Huệ nghe người ta nói quan huyện này mới đổi về, vốn hay thơ, tính nết lại nhân hậu. Huệ đi thẳng vào cửa huyện, nói với lính rằng mình là một học trò nghèo, xin vào dâng quan một bài thơ. Lính vào bẩm, quan huyện thấy nói là một đứa trẻ thì lấy làm lạ, truyền cho vào.

Huệ sửa soạn quần áo cho ngay ngắn, tiến vào chỗ quan ngồi. Quan ra đầu đề. Huệ xin bút giấy, xin ghế ngồi chỉnh tề rồi mới đề thơ. Lính dâng lên, quan huyện kinh ngạc phục thơ hay, khen tấm tắc mãi là có chí khí. Quan bảo lấy tiền thưởng, nhưng bấy giờ Huệ mới thú thực rằng mình có thằng em bị bắt oan. Huệ kể hết sự vô ơn, bạc ác của tên xã trưởng. Quan rất công minh, thấy đứa bé thơ hay võ giỏi, hiếu với mẹ già, khảng khái giúp người, thương xót kẻ khó, tướng mạo khôi ngô, đứng ngồi chững chạc thì yêu mến lắm. Lập tức quan truyền tha Lữ. Rồi sai bắt xã trưởng đến đánh hai mươi roi, lại bắt hắn biếu anh em Huệ mười nén bạc để về nuôi mẹ.

*

Từ đấy, ba anh em lúc nào cũng quanh quẩn trong làng, chăm lo bên giường mẹ ốm. Bệnh bà cụ khi đỡ nhiều rồi thì mười nén bạc kia cũng tiêu hết. Ba anh em lại bảo nhau đi xin làm mướn. Lữ có vẻ hiền lành hơn hai anh nên dễ có người dám mượn. Còn Nhạc, Huệ trông bướng bỉnh, ăn to, nói lớn, đi đứng hùng dũng, ai thấy cũng khiếp, không dám rước vào nhà. Việc ba đứa trẻ đánh tan đảng cướp năm mươi tên có đủ khí giới để lấy lại của cải cho xã trưởng, rồi việc ba đứa trẻ đánh gẫy xương trâu đồn đại đi khắp chốn, khắp nơi khiến ai cũng thầm thì bàn tán.

Một hôm, mấy người đàn bà ngoài chợ đang thì thào thì có một vị sư ông đi đến hỏi chỗ ở của ba đứa trẻ. Hỏi rồi, sư ông chống gậy đến Châu Lộc tìm nhà Nhạc, ngỏ ý muốn đón ba anh em về chùa nuôi làm tiểu. Cảnh nhà đang nghèo đói, ba anh em bèn quỳ lạy mẹ, rồi theo nhà sư đi. Đường từ Châu Lộc lên chùa xa hơn mười dặm, qua rừng qua núi. Nhà sư không nói năng, cứ lầm lì bước. Bốn người đi vào một khu rừng. Bấy giờ mặt trời đang lặn, chim muông xao xác động trên các vòm cây âm u. Những con vượn, khỉ trên cành kêu riu ríu, tinh nghịch ném xuống đầu bốn người những vỏ trái cây chúng đang ăn. Nhà sư vừa lội suối, trèo đèo, vừa lần tràng hạt tụng kinh. Vẻ mặt nghiêm trang của sư ông, khiến ba anh em kính trọng, nhưng sự yên lặng ghê gớm ấy làm ba anh em không hiểu ra sao cả.

Huệ tính nóng nảy, thấy mình cứ phải lẽo đẽo theo sau thì hầm hè khó chịu. Nhạc ý tứ hơn, đoán nhà sư tất có cái hơn người mà chưa cho mình biết, nên luôn đưa mắt ngăn Huệ không cho làm gì lỗ mãng.

Mặt trời lặn hẳn. Những giống thú chạy loạt soạt vút qua bốn người nhanh quá đến nỗi không thể nhận biết là con gì nữa. Gió ào ào rung cây, bỗng trong luồng gió nồng nặc một mùi tanh tưởi. Nhà sư lúc bấy giờ mới dừng bàn tay trên chuỗi tràng hạt, ngước nhìn chung quanh, nhưng vẻ mặt vẫn bình tĩnh không thay đổi. Một tiếng rít vang rừng. Con đười ươi lớn như một con trâu mộng, từ một hang đá, đang gầm thét nhảy xuống suối lội sang chỗ bốn người. Nước suối bắn tóe lên, reo như sóng biển.

Nhà sư vẫn đứng yên, không nói một tiếng. Huệ đang bực tức, bèn rút dao trong lưng, sấn ra bờ suối thủ thế trước. Con vật càng đến gần càng to quá, Huệ chỉ bằng cái đùi của nó. Nhạc cũng rút dao chạy đến đứng cạnh em. Lữ tuy có ý khiếp đảm, nhưng cũng liều hăng hái rút dao chạy tới. Ba cánh tay của ba cậu bé lấy hết cam đảm, lấy hết sức lực giơ cả lên một lúc.

Ba bước nữa, hai bước nữa… Nhanh như luồng gió, Huệ lánh nghiêng, đứng ré chân, định đâm cả lưỡi dao vào ngực con đười ươi. Con vật gầm lên, nhoài bàn tay dài rộng, lông lá ra nắm được bàn tay Huệ, lắc mấy cái, cười the thé. Nhạc thấy thế nguy, vội dùng hết gân, nhằm đúng cổ con vật, nghiến răng chém mạnh xuống. Đười ươi rú lên, rùng mình một cái. Huệ rút được tay ra. Bàn tay Huệ bị móng đười ươi cắm ngập vào ứa máu. Trong khi ấy máu ở cánh tay con vật cũng vì lưỡi dao Nhạc chém mà rỏ xuống, nước suối đỏ loang. Con thú điên cuồng, nhảy hẳn lên trên bãi cỏ, quờ hai tay toan tóm cả ba đứa trẻ mà xé nát. Huệ đang hăng, nhảy qua đầu đười ươi đâm xuống. Nhạc luồn ngang bụng sóc ngược lưỡi dao lên. Lữ thấy thế đười ươi quá dữ, và biết mình yếu, chậm hơn hai anh, chỉ nhảy nhót bên ngoài, chờ đười ươi quay lưng lại là đâm chí mạng. Con vật đã bị nhiều vết thương, máu phun ra tưới cả vào mặt mũi, quần áo ba anh em. Nhạc, Huệ cũng đã bị thương, và sức đã đuối. Con vật càng hăng máu càng gầm thét, hai tay vờn múa, hai hàm răng to há ra tưởng chỉ nuốt một cái là cả thân người chui tọt ngay vào bụng. Lữ lúc này cũng liều lĩnh vì thấy máu ở da thịt hai anh, lăn vào đâm, nhân lúc đười ươi vừa xoay lưng tới. Bất đồ, đười ươi quay ngay lại, giơ chân đè được Lữ xuống. Lữ nằm chết bẹp dưới móng vuốt sắc như dao. Nhạc, Huệ cố cứu, nhưng đười ươi đã tóm được kẻ thù càng thêm khỏe. Hai cánh tay nó mỗi lần vung ra lại làm chồn cánh tay Nhạc, Huệ, có khi làm cho hai cậu lao đao ngã. Đười ươi cúi xuống, toan tóm Lữ nhấc bổng lên xé nát ra. Vút nhanh như tia chớp, vị sư già nhảy đến, lao hai chân ra phía trước đá trúng ngực đười ươi. Con vật ngã bắn lại phía sau, rơi vào giữa suối, nước bắn lên trắng xóa. Mình con vật gieo xuống tảng đá, vang lên một tiếng tựa hồ trong cơn động đất vừa có một ngọn núi xụp đổ. Con đười ươi nằm không động đậy. Máu đỏ loang ra, dòng suối chảy cuồn cuộn cuốn máu nó vào lòng rừng sâu.

Vị sư lại đứng im, mặt thản nhiên như bao giờ cũng thế. Ba anh em Nhạc bấy giờ mới biết sức khỏe ghê gớm của kẻ tu hành, chỉ cần một cái đá mà một con đười ươi lớn như trâu phải bắn xa, tắt thở. Còn ba anh em tuy có khỏe, đã làm con vật bị thương, nhưng nếu không có nhà sư thì rồi cũng chỉ là châu chấu đá xe, và sau cùng sẽ kiệt sức, nát thịt xương trong cánh tay ác thú.

Ba anh em quỳ xuống lạy sư ông. Sư ông vỗ đầu ba anh em, đáp:

- Các con khá lắm đó!

Đáp một câu lạnh lẽo thế thôi, nhà sư lại cắm cúi đi, tay lần tràng hạt, đọc kinh như trước. Bốn người đi trong rừng tối, lẳng lặng như một đoàn ma quỷ. Đến chân một trái núi cao, nhà sư trỏ một ánh lửa trên ngọn núi.

- Chùa ta đó. Các con sẽ ở trên ấy mà học hành thêm nữa. Tuổi còn non, phải rèn luyện tài năng, tính nết thành già dặn và cương trực thì mới làm nên nghiệp lớn được.

Từ đấy, ba anh em Nhạc ngày học chữ, đêm học võ trên núi cao. Nhà sư rất yêu quý ba cậu học trò. Mỗi tháng hai lần, nhà sư cho tiểu gánh gạo xuống núi, về Châu Lộc cấp cho bà mẹ Nhạc.

*

Ba anh em lúc này, văn đã giỏi, võ cũng cao cường. Nhạc mười sáu tuổi, Huệ, Lữ mười lăm, mười bốn. Một hôm, ba anh em Nhạc xuống núi vào rừng kiếm củi. Cảnh sơn lâm vắng vẻ ba năm nay đã khiến anh em Nhạc buồn, chán nản. Cả ba cùng nhớ mẹ, nhớ quê và thèm khát đi các nơi xa lạ. Nhạc bàn với hai em, rồi viết thư. Huệ cầm thư lên núi, lẻn vào buồng sư ông. Sư ông đi vắng, Huệ để thư đấy rồi xuống núi.

Ba anh em hướng lên núi quỳ lễ vọng thày, đoạn lên đường.

Về đến nhà, anh em ôm lấy mẹ, mừng quá, cùng ứa nước mắt. Ở Châu Lộc ít ngày, ba anh em dắt mẹ đi kiếm ăn miền khác. Lưu lạc các nơi, sau đến một vùng biển. Ba anh dựng tạm một cái lều cho mẹ nằm, rồi đan lưới, ngày ngày đánh cá bán lấy tiền đong gạo.

Một ngày kia, ba anh em đẵn gỗ rừng làm chiếc bè lớn, lấy lá cây rừng kết lại làm buồm. Bè đã thả xuống biển rồi, anh em Nhạc cõng mẹ xuống, dong buồm thẳng ra khơi. Bè trôi đến một cù lao hẻo lánh, cây cỏ um tùm chưa có vết chân người. Nhạc ghé bè vào, cõng mẹ lên, rồi lại cùng em đẵn cây, dựng một túp lều nho nhỏ. Cuộc sống phiêu lưu nơi chân trời, mặt biển làm cho ba anh em vui thích. Khi ấy, việc thả lưới quăng chài hàng ngày được nhiều cá lớn, ăn không hết, vào bờ bán cho các làng xóm được rất nhiều tiền, lại càng khiến mấy mẹ con yên lòng, không lo phiền nữa.

Những lúc rảnh rỗi, anh em Nhạc lại ham mê luyện võ. Huệ đóng nhiều bè, bện người rơm đặt lên các bè giả làm lính. Lính rơm cũng cầm khí giới y như lính thực. Huệ thả bè ra khơi, cầm cờ đứng chỉ huy. Nhạc và Lữ cũng chỉ huy hai toán bè khác. Trận dàn thành hai bên, Huệ một mình dẫn sáu bè, địch với hai toán bè của Nhạc, Lữ. Cờ đỏ ở tay Huệ, cờ xanh, cờ vàng ở tay Nhạc, Lữ múa ra hiệu. Huệ một tay đánh trống trợ oai, một tay múa cờ, múa kiếm, oai phong như vị nguyên soái trong một cuộc thủy chiến lớn. Ngày nào cũng tập, và tối đến, ba anh em lại đem các chiến thuật ra bàn tán.Về sau, Nguyễn Huệ có tiếng giỏi thuỷ chiến là do vậy.

Ở hoang đảo thấm thoắt đã nửa năm. Nhạc, một hôm, ngỏ ý với mẹ muốn lên bộ, đi tìm cách lập thân. Rồi đó, Nhạc và Huệ xuống bè. Còn Lữ ở lại đảo đánh cá, cày bừa hầu hạ mẹ.

Nhạc, Huệ vào Bình Định. Huệ xin đi ở cày thuê. Nhạc xin được chân lính trạm, cưỡi ngựa chạy giấy công văn. Bình Định là nơi có nhiều ngựa quý. Hai anh em sẵn ngựa, tập cưỡi luôn, không mấy ngày đã giỏi, ngựa không yên cương mà cưỡi chạy như bay.

Một hôm, Nhạc chạy công văn đi nhầm đường, hết lương ăn. Ngựa chạy qua một cái trại cây trái rất lớn của một nhà giàu. Nhân lúc hết tiền ăn, lại nghe tin nhà giàu kia muốn mua ngựa tốt, Nhạc bèn xuống ngựa, gõ cửa trại.

Trại chủ ra, xem ngựa thì lấy làm ưng lắm. Giá cả xong xuôi, Nhạc bỏ tiền vào túi, rồi lập mưu, giả vờ làm ra tiếc rẻ con ngựa quý. Nhạc vuốt ve, thở dài mãi, sau nhân lúc chủ trại không để ý, Nhạc lấy quả ớt trong túi ra sát vào chỗ hiểm của ngựa. Tức thì ngựa phát cuồng lên, lồng hí rầm rĩ. Chủ trại kinh sợ hỏi tại sao?

Nhạc đáp:

- Phàm ngựa khôn thì như thế cả. Để tôi cưỡi vài vòng cho nó đỡ cuồng vó là yên.

Chủ trại cho Nhạc cưỡi. Thừa cơ, Nhạc phóng chạy luôn. Chủ trại đem ngựa hay hơn đuổi theo kịp, toan bắt lại. Nhạc thấy trước mặt một cái ao bùn, lại sinh kế, quất ngựa nhảy đại xuống giữa hố bùn sâu. Chờ chủ trại bỏ ngựa quý đấy, vén quần lội xuống bùn dắt con ngựa mới, Nhạc cười bảo:

- Đấy, tôi xin trả ngựa ông.

Nói rồi, Nhạc nhảy từ yên ngựa xuống bùn, lội rất nhanh lên bờ. Người kia vừa lõm bõm lội được đến con ngựa ở giữa ao thì Nhạc đã lên bờ và nhảy phắt lên con ngựa quý đang gặm cỏ, vừa ra roi phóng vừa nói to:

- Tôi không thèm lừa ông đâu. Chờ chạy xong công văn, hôm khác tôi sẽ đến trại trả ngựa ông.

*

Sau đó, vì lẫn ngựa, chủ trạm bắt đền đuổi đi. Nhạc lại cùng Huệ lang thang. Ít lâu sau, hai anh em trở về hoang đảo đón mẹ và Lữ, đem nhau vào miềnNam, lập nên sự nghiệp.

Ngọc Giao

Truyền Bá, số 72 năm 1943