NHỮNG NGÀY THƠ ẤU
Kính tặng hương hồn Mẹ hiền
Tôi vẫn đợi chờ một dịp trở lại thăm cái tỉnh lỵ nhỏ bé ngày xưa tôi đã sống ngày thơ ấu. Cũng đã có nhiều lần xuống Hải Phòng, đứng ở bến Sáu kho nhìn về một góc trời xa xôi kia, lòng bỗng thấy buồn nao nao. Tôi có thể xuống ngay chiếc tàu dưới bến để rồi sau đó vài giờ sẽ được đặt chân lên cái đất ngày xưa thân yêu của mình nhưng chẳng có lần nào tôi quyết định, vì lần nào tôi cũng ngại ngùng tự hẹn thầm rằng hãy để dành tới một dịp sau.
Thế mà bao nhiêu dịp sau đã tới, tôi vẫn chưa trở về cảnh cũ, xem sự đổi thay đã đến thế nào rồi.
*Ấy là tỉnh lỵ Quảng Yên. Hồi xưa, Quảng Yên chỉ mới có ba bốn phố lủng củng những căn nhà gạch một tầng xây lối cổ của ngườiNam. Một bức thành dài bao quanh trái núi chiếm gần hết tỉnh, trên đ dựng trại lính và bệnh viện cho người Pháp. Ngay đầu tỉnh, hàng mấy chục cây thông cổ thụ mọc rải rác đó đây, thân xù xì mang những chiếc vẩy dày cộp, lá xanh thẫm, về mùa xuân cả tán cây như lên hàng ngàn vạn chồi non mầu lửa hun nom tựa những ngọn nến đang reo cháy, nhìn chúng khiến lòng ta nao nức lạ thường.
Nhà tôi ở ngay bên chân núi ngoài thành. Một lớp nhà tranh, một khu vườn dâu, dăm ba con dê trắng, đó là cả sản nghiệp của thầy mẹ tôi.
Ngày ấy đã có một “trường nhà nước”, tôi xin vào học lớp tư. Tôi nhớ tôi có một người bạn ở liền bên cạnh, và tôi nhớ mang máng tên anh là Dị. Dị cũng gày, bé như tôi, nhưng có cái khác tôi nhiều quá: anh là con nhà giàu. Cái tòa nhà gạch rộng rãi, mái ngói còn nguyên màu đỏ chói đột khởi bên lớp nhà tranh làm cho tôi sợ sệt và làm xa cách cái tình bè bạn của tôi đối với Dị. Không bao giờ tôi dám bước vào nhà anh. Những lúc sang rủ anh đến trường, tôi chỉ đứng thập thò ngoài cửa. Bà mẹ anh nhiều khi vẫy gọi tôi vào ép ăn quà sáng với anh. Nhưng tôi ngượng nghịu lùi ra xa đứng nấp sau một gốc cây, đợi cho đến lúc Dị ăn xong. Cốc sữa trắng nõn, chiếc bánh tây vàng nóng, những quả chuối trứng cuốc mà tôi vừa liếc thấy trên bàn ăn của Dị khiến tôi thèm lắm, tôi đứng sau gốc cây để nuốt nước bọt và để nghĩ rằng tại sao mẹ tôi lại không mua cho tôi những thứ quà sang trọng ấy. Tôi định bụng đi học về sẽ hỏi mẹ tôi như thế, song lúc thấy mẹ tôi ra thềm giơ tay đón chiếc cặp sách của tôi, tôi lại quên mất câu hỏi đó. Vội vàng, tôi chạy xuống dẫy nhà ngang trèo lên giá tre nhòm xem những nia tằm phủ kín lá dâu. Những nắm lá dâu mẹ tôi hái ngoài vườn mới bỏ vào, những con tầm trắng mập xinh xắn bò ngổn ngang trên những chiếc lá non xanh mướt, mùi thơm như một thứ mùi cỏ quý. Tôi mải xem tầm ăn, quên cả rằng mình chưa ăn. Mẹ tôi xuống đứng sau tôi. Tôi ngảnh lại thấy vẻ mặt mẹ tôi không vui, tôi khẽ hỏi:
- Lứa này có khá không hả mẹ?
Mẹ tôi nhặt một con tầm đã chết vất ra sân lặng đi một lúc rồi mới đáp:
- Hỏng nhiều con ạ.
Bà cúi xuống thở dài. Có tiếng động ở ngoài vườn. Bà gọi:
- Ông Bồng ơi!
Ông Bồng là một ông già, mặt đen bóng như đồng hun, tóc đã lâm râm trắng. Ông ta lom khom bưng một thúng sắn mới đào đặt dưới chân chúng tôi, kéo vạt áo lau mồ hôi trán. Ông ta kiễng chân nhìn khắp lượt các nia tầm rồi lắc đầu không nói. Mẹ tôi thấy ông Bồng đã phải thất vọng thì tin ngay rằng lứa này hỏng thật, bà rơm rớm nước mắt nhìn ông ta:
- Có cách gì chữa được không ông?
Ông Bồng nhìn mẹ tôi như ái ngại, rồi cúi bưng thúng sắn ra ngoài giếng:
- Chữa sao được ạ. Còn nhờ trời, hãy chờ vài hôm nữa xem sao.
Đó là câu an ủi mẹ tôi. Mẹ tôi lại khấn trời mong cho lứa tầm khỏi hỏng, y như khi thày tôi hay tôi ốm, bà cũng khấn trời như thế.
Tất cả tình thương yêu, trìu mến, bà đã san sẻ hết cho chồng, cho con, cho đàn tầm, quên hẳn mình.
Ông Bồng cùng ở với chúng tôi chung khu đất. Chính ông đã giúp thày mẹ tôi sửa sang lớp nhà tranh đó sau khi mua lại được của một người nghèo; ông đã hì hục bao đêm ngày đào cái giếng ở góc sân để lấy nước ăn; ông đã gây thành một vườn dâu và đã truyền nghệ nuôi tầm cho mẹ tôi. Trước kia, ông Bồng cũng nuôi tầm, nhưng từ khi vợ ông chết, ông bỏ nghề, chỉ sống bằng mảnh vườn trồng sắn và bột hồng tinh. Ông có một thằng con trai. Nó gày loắt choắt, đen đủi và nhanh như con vượn. Sáng nào nó cũng dậy từ mờ đất, xách thúng đi buôn bánh giò rồi ra ngoài bến đón tàu ở Hải Phòng sang để bán. Nó kể mẹ tôi nghe nó làm quen với tất cả các người buôn bán trong các tàu nên không bao giờ phải lấy vé; hễ chuyến nào thấy chủ thì nó chui vào các đống hàng hóa của hành khách hoặc lẩn xuống hầm than. Nó tinh nghịch như quỷ sống nhưng rất có hiếu với bố, vì vậy mẹ tôi yêu nó vô cùng. Tôi nhớ những buổi sáng trời còn chưa tỏ, thằng bé con ấy không bao giờ quên gõ vào vách đánh thức tôi dậy học lại bài, và nhét qua những gióng song tre một cái bánh giò nóng. Tôi vui sướng nắm chặt bàn tay nó; nó vội vàng rụt tay lại, đội thúng bánh lên đầu chạy vụt ra ngoài ngõ. Sáng nào tôi cũng được ăn điểm tâm từ tinh sương như thế. Một lần mẹ tôi thấy lá bánh ngoài cửa sổ, hỏi tôi. Tôi nói thực, tuy nó đã dặn mãi rằng đừng nói với ai. Mẹ tôi chờ nó ở bến về, gọi lên nhà đưa tiền trả. Nó nhất định không lấy, thưa rằng:
- Con biếu cậu, con không dám nhận tiền đâu.
Tôi nhớ nhất cái trò nó làm cho tôi phải cười những lúc tôi bị mắng hay là lo đến trường không thuộc bài thi. Hễ ở bến về, nó chạy ngay lên với tôi. Nó co một chân lại, nhảy lò cò quanh các cột nhà, miệng dẩu ra huýt sáo, hai bàn tay đập vào nhau theo nhịp cái câu nó hát đi hát lại:
Con cò bay lả, lả bay la, bay ra... bay ra Phố Cát, bay về... bay về Đồng Đăng.
Cô mình... có lấy... có lấy... ta chăng! ới cô mình ơi!
(Câu hát này, ngày nay đôi khi nhớ đến, hoặc nghe đứa trẻ nào hát đến, tôi lại thấy thằng bé con đen đủi, gày loắt choắt và nhanh như con vượn ấy hiện ra. Chẳng biết bây giờ nó đã làm gì. Lần nào đi qua các bến tàu, - bất cứ ở đâu, ở Sài Gòn, ở Cao Miên, ở các con sông xa lạ tôi đã từng đặt vết giầy, - tôi vẫn có ý tìm cái khuôn mặt quen quen đó, vì không hiểu tại sao, tôi cứ muốn tin rằng trời sinh ra nó là chỉ để cho nó sống mãi trên các bến tàu mà thôi... Thực vậy, tôi tin rằng nó đã là một kẻ giang hồ và có một điều tin chắc hơn nữa là không bao giờ nó đói).
Mải với thằng bé con này, tôi bỏ xa Dị quá. Vậy tôi trở lại cùng người bạn học con nhà giàu ấy. Tình bè bạn của chúng tôi, về sau này, thân thiết hơn một chút, tại từ cái buổi sáng tôi đứng chờ anh ở gốc cây, anh thường sang nhà tôi để rủ tôi đi chơi, đi học, chứ không được tôi sang nhà anh trước. Sự thay đổi ấy có lẽ do cái thông minh của Dị đã có sẵn ngay trong tuổi còn măng sữa đó chăng!
Tôi dong mấy con dê trắng lên chân thành cho ăn cỏ. Dị theo tôi và nhận phần hai con để trông đỡ hộ. Chúng tôi hay ngồi bên cái giếng to đào dưới thành, lúc nào cũng đông người kéo nước. Có lẽ đến gần khắp tỉnh ăn nước giếng này, vì ít nhà có giếng riêng. May mà nhà tôi có ông Bồng đào cái giếng nhỏ rồi, chứ mẹ tôi tiết kiệm không nuôi đầy tớ biết nhờ ai gánh nước cho! Hồi ấy chưa có máy nước và đèn điện. Tôi còn nhớ những buổi chiều mùa hạ, trước nhà tôi hoa xoan tây rụng trắng cả con đường lát đá, tôi đứng chờ một lão già câm. Chiều nào lão cũng móc ở cái túi áo tây vàng ra cho tôi một con cánh cam, rồi lão mới leo cái cột đèn sắt sơn hắc ín để đánh diêm châm ngọn đèn dầu đặt trong cái hòm kính bám đầy cát bụi. Mỗi phố cách một quãng khá xa mới có một cột đèn, tất cả tỉnh chỉ có chừng hai chục ngọn, cho nên sở Lục lộ của tỉnh nuôi có một mình lão để làm cái việc rất quan hệ cho một dúm dân, khi mặt trời đã tắt. Những tối có trăng, các phố lại thiếu cái ánh lửa vàng đục ấy, không hiểu sở Lục lộ muốn hà tiện bấc dầu, hay muốn cho người ta thưởng thức cái đẹp của đêm trăng. Riêng tôi, tôi mong cho mau hết tuần trăng để lại được gặp lão già câm, để đón con cánh cam xanh biếc và ngửa mặt lên chờ bàn tay lão khẽ vuốt tóc tôi, rồi lão lại quàng chiếc thang tre vào cái vai gày yếu, lẳng lặng đi đến cây đèn khác. Một buổi tối trời trở rét, tôi cũng ra chờ lão. Hôm ấy, hết mùa thu cánh cam không còn nữa, lão chưa tìm được con gì cho tôi. Tôi hiểu thế, bởi lão ta chỉ tay lên cây, lên trời u ơ nói. Lão trèo lên thang. Tôi thấy cái thang run theo hai bàn chân lão. Khi ngọn đèn dầu ở trên đầu tôi đã sáng, lão từ từ xuống, cái thang run hơn lúc nãy nhiều. Nhìn lên mặt lão, tôi thấy đôi mắt lão đỏ ngầu lên, và nước rãi ở cái miệng móm mém ứa rớt xuống cầm.
Lão xoa đầu tôi; lần này, không hiểu sao, lão cúi thấp người nhìn vào mặt tôi một lúc rồi mới kéo lê cái thang đi...
Tối hôm sau, tôi lại ra cột đèn chờ. Nhưng một sự ngạc nhiên là tôi thấy một người trẻ tuổi vác thang săm săm tới. Khi người ấy xuống, tôi hỏi thăm lão già thì y cho tôi biết tối qua trong khi ốm, lão cố thắp đến cột đèn cuối cùng ở ngoài bến thì đuối sức bị ngã từ trên đầu thang xuống đất, chết ngay.
Cái chết của lão già câm khiến tôi ngơ ngẩn mất mấy ngày. Và tôi cứ rùng mình nghĩ đến đôi mắt đỏ ngầu của lão nhìn tôi lần sau chót đó.
Mẹ tôi thường cho tôi theo đến chợ. Không phải là chợ ở trong tỉnh mà cách xa một quãng đường dài. Chợ họp trong một rừng thông, một bên có núi đồi, xa xa là biển cả mênh mông, đứng ở chợ nghe rõ tiếng sóng vang dội lại.
Mẹ tôi hay mua những con “bông thùa”, giống như con đỉa, - cái giống này tôi sợ lắm, cũng như bây giờ tôi sợ đỉa, sợ giun. Lần nào đi chợ về, tôi cũng được bưng một rổ sim đầy, tôi cùng Dị ăn đến hai ngày mới hết. Lần nào đi chợ về, tôi cũng được mấy cái mai con mực, Dị và tôi hì hục dùng mấy cái mai mực làm thuyền chiến, trên có lính cắt bằng giấy cứng, đủ cả đao cung. Chúng tôi đem ra ngoài bến, thả bên những hòn đá dưới gậm cầu tầu. Sông Bạch Đằng thường có gió to sóng lớn. Hai cái thuyền trắng nõn nổi lềnh bềnh trên mặt nước đục ngầu, luôn luôn nhô lên, chúi xuống va chạm vào nhau. Hồi ấy đã được học lịch sử, chúng tôi có cảm tưởng rằng đấy là một trận huyết chiến của Trần Hưng Đạo với Ô Mã Nhi của nhà Nguyên, - “Xưa kia, tại con sông này, biết đâu chẳng chính ngay chỗ chúng ta đang đứng, đã vùi bao nhiêu xương máu”, - nghĩ thế, chúng tôi la hét ầm lên, trợ oai cho mấy anh lính giấy đang va đập vào nhau.
Một buổi sớm, độ hồi canh tư, tôi đang chập chờn đợi thằng con ông Bồng đến gõ vào vách đánh thức tôi dậy học bài thì tôi nghe thấy tiếng kêu văng vẳng ở bến tầu, thày mẹ tôi cũng vùng cả dậy, ai nấy ngơ ngác lắng tai nghe.
Tôi loáng thấy bóng ông Bồng chạy vút qua cửa sổ. Mẹ tôi gọi giật ông lại hỏi, giọng bà run lên:
- Cái gì đó hở ông?
Ông Bồng đáp vội vàng, giọng ông run run:
- Ngoài bến có tàu bị đắm, không biết thằng Bống nhà tôi có làm sao không.
Nói rồi, ông chạy biến ra ngoài bờ rào dâm bụt. Tôi ngồi trùm chăn run bần bật, thấy hiện ra biết bao xác chết. Mẹ tôi cũng run bắn cả người, và bà lẩm bẩm khấn Trời, cầu cho không ai chết, nhất là thằng Bống, bà cầu cho nó đừng đáp thuyền ra bán hàng ở chiếc tàu bị nạn kia. Tôi cũng lo cho nó lắm. Cái chết của nó, nếu xảy ra, sẽ khiến tôi đau buồn hơn cái chết của lão già câm kia nhiều. Cả nhà tôi im lặng, lắng nghe tiếng kêu ngoài sông lúc này càng vang rộn thêm lên. Bỗng có tiếng chân người chạy huỳnh huỵch ngoài ngõ, rồi thằng Bống đẩy cửa chui vào. Tôi mừng quá nhảy xuống giường ôm lấy nó. Nó hổn hển thuật cho thầy mẹ tôi nghe cái tai nạn vừa xẩy ra: đó là chiếc tầu “Thông Vôi” ở Hải Phòng về.
Tầu đang lượn dần vào cặp bến thì hành khách tranh nhau lên trước đổ xô về một mạn, nhân lúc sóng gió to, tầu chòng chành, nước ùa vào, rồi nghiêng chìm xuống. May nó đi lấy bánh, chậm ra một chút thành ra thoát chết. Mọi khi tầu sắp đến nơi mới rúc còi, nó đã đáp thuyền ra bán bánh cho những hành khách đi suốt không lên bến.
Đến giờ đi học, Dị và tôi ra đường, thấy người ta vác trên vai những kẻ bị nạn đắm tàu, hoặc chưa chết, hoặc chết rồi, tóc rũ ra, mặt nhợt như tờ giấy. Trời ẩm giá và mù sa trắng xóa, những người sống và những người chết ấy chạy vùn vụt trên đường để đến Nhà thương, nhà xác.
Chúng tôi sợ quá, đi lẩn sau các gốc cây. Qua Nhà thương, tôi ù té chạy. Từ hôm ấy, cái Nhà thương kia đối với tôi là một thứ ghê rợn nhất. Muốn trốn tránh nó, tôi phải tìm con đường khác xa gấp hai lần.
Một đêm, trời đen như mực, mẹ tôi thấy đau quặn bụng, bà đánh thức thầy tôi dậy đưa bà đến nhà thương đẻ. Lúc qua nhà ngang, chỗ buồng tầm, mẹ tôi còn soi đèn xem các nia tầm còn lá dâu không rồi mới ra đi. Đêm khuya xe không có, thầy tôi xóc cánh tay mẹ tôi qua mấy con đường mới đến Nhà thương.
Than ôi, lần ra đi là lần mẹ tôi vĩnh biệt cuộc đời, cuộc đời chỉ có một người chồng, một đứa con và mấy nia tầm.
Mẹ tôi đã kiệt sức chết trên bàn đẻ, đứa con còn nằm trong bụng chưa ra. Mẹ tôi không được gặp con khi tắt thở, cũng không được thấy chồng, vì lúc ấy thầy tôi chạy lên núi, vào Nhà thương Tây gọi viên đốc tờ người Pháp. Ông ta không xuống, còn mắc ngủ và ngại rét. Tôi nhớ tôi đang trùm kín chăn bởi sợ ma - cái đất này, ông Bồng bảo có nhiều cốt lắm, đó là bãi chiến trường ngày xưa - thì thày tôi về khẽ kéo chăn ra và run giọng bảo: “Mẹ con đi rồi”! Giá lúc khác thì tôi không hiểu chữ “đi” là gì, nhưng ở lúc này tôi hiểu rõ ràng ngay cái nghĩa gớm ghê của nó. Tôi chui vào chăn mà khóc. Thày tôi lại mở cửa bước ra.
Ngày hôm sau, ở Nhà xác về, tôi thấy ông Bồng đang ngồi sơn chiếc quan tài. Mầu sơn đỏ như sắc máu! Bàn tay run rẩy của ông chậm chạp đưa chiếc bút sơn cùn trên tấm ván gỗ vàng tâm còn ướt, tiết ra một mùi hôi hám. Cỗ quan tài đóng vội, cá không liền khớp, gỗ xấu nứt vỡ ra, ông Bồng phải lấy đất sét trộn vôi nhét vào. Cái quan tài của mẹ tôi! của người đàn bà suốt đời vất vả, thờ chồng, quý con, hy sinh đến nỗi quên cả thân mình.
(Ông Bồng! ông đã chết từ lâu rồi, nhưng từ ngày nào, tháng nào, năm nào, tôi không biết, vì kẻ bạc bẽo này có trở lại thăm cái vườn dâu nương sắn nữa đâu! Tôi chưa được tạ ơn ông. Thú thực rằng, - vong hồn ông hãy tin cho tôi - ngày ấy, và cả ngày nay nữa, tôi thầm ước được ngồi sơn một chiếc quan tài cũng bằng thứ sơn đỏ tươi ấy để liệm ông, để tạ ơn ông).
Hôm đưa đám mẹ tôi, sương mù tan đi, trời bớt lạnh và nắng hừng lên từ sáng sớm. Bốn người phu gày ốm do thằng Bống chạy đi mướn được, vác cỗ đòn gỗ mộc đến, đặt chiếc áo quan lên. Trống kèn không có. Theo sau chỉ có dăm ba người bạn làm việc cùng thầy tôi. Dị đi kèm tôi một quãng rồi trở về lúc nào tôi không biết. Thằng Bống đi trước, một tay cầm cành tre buộc một tờ giấy hồng điều, một tay rắc những thoi vàng xuống mặt đường.
Qua khỏi tỉnh, đám tang đi vào một cánh rừng thông. Bắt đầu từ đây là đường đất núi thắm như son; dưới những bước chân cất nặng nề, bụi đỏ vẩn lên bay tản mát. Tiếng gió reo nhè nhẹ trên cành thông, và tiếng sóng vỗ ngoài bờ biển xa, buồn hiu hắt. Chiếc quan tài đỏ chói dưới mặt trời nghiêng nghiêng trên vai những kẻ ốm gày nhọc mệt leo lên dốc núi. Màu đỏ bị nắng rọi vào càng nổi gắt lên trong cái màu xanh dịu của lá cây. Cái màu đỏ ghê gớm ấy thấm nhập vào đôi đồng tử tôi, vào đấy linh hồn tôi ngày thơ ấu, đến mãi bây giờ vẫn còn khiến tôi rùng rợn khi trông thấy nó ở đâu... ở cái áo trên mình người con gái, ở chiếc ca vát trên cổ một chàng trai. Cái màu đỏ không bao giờ tôi quên được, bởi vì nó là cái màu của máu, của chiếc quan tài mẹ tôi.
Bốn người phu dừng lại dưới một đồi thông. Tôi ngẩng lên, đã thấy ông Bồng đứng bên miệng huyệt từ bao giờ, tay cầm cái cuốc. Thì ra, một mình, ông đã mò ra đấy từ canh ba, hì hục đào mãi đến lúc này mới xong. Mấy sợi thừng ròng xuống, mẹ tôi cũng từ từ xuống theo. Ông Bồng đứng xoạc chân sang hai bên thành huyệt, cúi đỡ áo quan cho được thăng bằng, rồi ông là người trước tiên lấp đất. Hòn đất rắn rơi đánh thịch vào mặt ván thiên, lòng tôi đứt ra từng khúc, tôi tưởng mẹ tôi dưới đó đã bị thương, đã kêu lên, đã nhỏm lên. Nhưng không, tôi không thấy gì hết, mắt tôi chỉ hoa lên vì những xẻng đất tới tấp rơi mãi xuống người mẹ tôi, - cái màu sơn đỏ chói mất dần, huyệt cứ đầy dần.
Rồi thì, một nấm đất cao! Mấy nén hương tỏa vài tia khói trắng.
Ông Bồng rắc trên mộ những hạt vừng. Ông cắt nghĩa rằng: làm thế, bảy ngày bảy đêm hạt vừng mọc thành cây, đứa bé trong bụng mẹ mới thoát ra đi đầu thai ngay cửa khác. Nếu không, thai còn vướng trong bụng cho đến vài năm thịt người mẹ nát lũa ra, nó mới được thoát đi. Tuần lễ sau viếng mộ, tôi thấy hạt vừng đã lên cây. Tôi tin rằng vừa đêm qua đã có một vong hồn ở dưới ấy bay lên, và hiện lúc này đã làm người, đang nằm trong một cái nôi ấm áp.
Ông Bồng, thằng Bống theo tiễn thày tôi và tôi ra bến tàu một buổi chiều. Tôi bỏ học, thày tôi thôi việc, trở về Hà Nội để xa lánh cái nơi đồng chua nước mặn đã cướp đi mất của chúng tôi một người thân yêu. Dị cũng theo ra, chúng tôi đã thành thực khóc hết cả nước mắt của đôi bạn nhỏ.
Tàu rời bến, tiếng còi vang trên sóng nước. Ông Bồng chắp tay hứa với thày tôi sẽ luôn luôn đắp điếm mộ phần mẹ tôi. Tôi với trông theo Dị và trông theo cái thuyền mai mực còn nổi bồng bềnh giữa những hòn đá xám để buồn tiếc cái vui sáng của ngày thơ, mà từ lúc này có lẽ tôi không còn có nữa.
*Thực vậy, mỗi ngày được sống, tôi càng gặp bao nhiêu thất vọng, nếm bao nhiêu cay đắng. Bây giờ gặp Dị, chắc chúng tôi phải lạ nhau. Cái cậu bé con nhà giàu ấy sướng từ thuở lọt lòng, ngày nay đã làm gì rồi đây? - Làm quan, làm ông phán, hay là... Nhưng quyết là không làm cái nghề này như tôi.
Bởi ngày xưa, những lúc chúng tôi ngồi trên núi coi dê, Dị chỉ thích nói chuyện khai mỏ, làm nhà, đóng tàu thủy chạy ganh với tàu “Thông Vôi”, “Phi hổ”, - còn tôi, tôi chỉ mê đọc “Tùy Đường”, “Tam quốc”, và học thuộc lòng thơ ngụ ngôn, - tôi thuộc nhất bài thơ cô ả đi buôn sữa. Tôi thường đọc bài ấy giễu anh. Đến bây giờ, tôi nhận ra rằng ngày nhỏ tôi đã tự giễu tôi, tôi đã tiên tri cuộc đời tôi mà tôi không biết. Tôi đã âm thầm ôm bao nhiêu mộng, nuôi bao nhiêu chí hướng, để rồi thì không làm gì khác hơn cái nghề bán hồn, bán óc này năm sáu năm nay. “Như thế chẳng đủ lắm rồi ư!”.
Tôi trích câu này trong bức thư của một người bạn ở Rạch Giá viết cho tôi khi được tin tôi giã nghề viết để đi làm nghề buôn. Người bạn xa của tôi ơi, vậy ra như thế cũng đủ lắm rồi à? Nhưng mà ở cái đất nước mình, bạn chẳng thấy ư, biết bao nhiêu nghệ sĩ vẫn nằm co đấy...
...
Tôi say lời, lạc bút mất rồi. Đáng lẽ tôi nói đến việc bốc mộ mẹ tôi từ nãy.
Thầy tôi, chừng mười năm sau, lại xuống Quảng Yên xin giấy phép ông Sứ để mang xương mẹ tôi về quê hương. Đêm nằm nhà trọ, thày tôi đã chiêm bao thấy mẹ tôi đứng đầu giường, tóc xõa ra, mình mặc cái áo mà thày tôi đã mặc cho lúc chết. Mẹ tôi khóc nấc lên mấy tiếng rồi biến đi ngay. Ấy là lần đầu, thày tôi thấy mộng. Vốn không mê tín mà lúc kể chuyện tôi nghe, thầy tôi cũng phải nhận rằng khi đó lòng rất tỉnh, mới nằm chưa ngủ, rõ ràng thấy cái bóng đứng trên đầu, rõ ràng nghe tiếng khóc.
Chiều hôm sau, thày tôi xách chiếc va li, tôi nhớ là một chiếc va li bằng mây đan, xuống một chiếc tàu thủy sang Hải Phòng. Hôm ấy sông sóng nhỏ, tàu chạy được nhanh. Nhưng bỗng nhiên một mạn tàu cứ dần dần nghiêng lệch, có mấy người kêu lên. Tức thì mại bản đi xem máy móc, rồi đi lục lọi khám xét các đồ hành lý.
Thày tôi lo lắm. Nếu họ mở đến chiếc va li, lẽ tất nhiên họ vứt xuống nước liền, và họ còn làm lôi thôi nữa. Ấy là do cái dị đoan của các tàu bè trên sông họ cho rằng hễ tàu nào mang cốt người thì bị đắm. Thày tôi lo quá, họ vẫn lục soát kỹ càng, sau không biết làm sao thày tôi phải khấn đến vong hồn mẹ tôi. Chẳng rõ vong hồn mẹ tôi có xui khiến gì chăng mà bọn mại bản sắp đến chỗ thày tôi bỗng không khám nữa, vì tàu đã thôi nghiêng và đã gần đến Cảng. Thế là được thoát. Gặp xe lửa, thày tôi đáp về quê ngay.
Xuống một ga nhỏ, thày tôi một mình với cái va li đựng mớ xương khô, đi giữa những cánh đồng không, giữa những bãi tha ma mù mịt tối.
Về tới đầu làng, bởi kiêng không nên đem cốt vào nhà, thày tôi giấu chiếc va li trong một bụi tre gai, bẻ cành lá phủ lên trên.
Một ông thày địa lý đã được mời về đợi trước và những người anh em họ tôi, được tin thày tôi tới nhà rồi liền thắp đuốc, dong đèn, vác thuổng cuốc kéo ra nghĩa địa. Tôi cũng được người ta đánh thức dậy, thấy thày tôi thì mừng rỡ quá, rồi tôi đi theo bọn người kia đi. Gió đêm thổi lộng lên rét lắm. Trời tối đen, giơ bàn tay không trông rõ. Mới có canh hai. Phải làm ngay, vì ông thày địa lý bảo nếu để quá giờ thì hỏng hết. Ông chú họ tôi lấy lá chiếu căng trên đầu huyệt che hướng gió. Mọi người im lặng vì gió rét bạt hơi, và có lẽ cũng vì bị bao bọc trong cái khí âm ghê rợn nên không ai muốn nói.
Chị họ tôi vừa gánh ra một nồi nước trầm hương. Tôi trải tấm vóc hồng vào trong lòng chiếc tiểu sành. Trong khi ông thày ngắm lại huyệt xem đào có đúng theo những đường dây ông căng không thì các anh họ tôi mở va li ra, nhặt từng mẩu xương nhúng vào chậu nước trầm cọ rửa. Trước tôi còn sợ, sau nhìn mãi thấy dạn đi. Tôi tranh phần rửa cái đầu lâu. Cái đầu lâu bây giờ ở trên tay tôi, dập nát, nên tôi nhè nhẹ tay kẻo vỡ! Cái đầu lâu ngày xưa kia, có mớ tóc dài óng chuốt như tơ, có đôi mày liễu, cặp mắt bồ câu, hai lúm đồng tiền, hai hàm răng hạt na đen nhánh - hàm răng đen của người đàn bà Huế. Tôi gỡ những sợi rễ thông bám vào trong đôi hố mắt, trên cái xương hàm, rồi hai tay bưng đặt vào trong tiểu sành. Đã đến giờ, ông thày bảo mọi người hạ tiểu.
Rồi thì lại một nấm đất cao! Lại mấy nén hương tỏa lên vài tia khói trắng.
Sự xê dịch của mẹ tôi trong cõi chết thế là xong. Cả kiếp tài hoa của người thiếu nữ sông Hương chỉ còn gửi lại một nắm xương khô ở quê chồng nơi xứ Bắc.
(Đăng Tiểu thuyết thứ Bẩy, số 300-301/1940)