THẰNG BỜM
I
"Ớ, Bờm ơi, có thương u thì con phải cố mà làm với người ta, chứ mẹ nghèo túng thế này, cơm ngô cơm khoai cũng không đủ no đâu con ạ.
Tôi vẫn ngồi trên đống rơm ở góc sân, nhai ngấu nghiến củ khoai lang sống vừa mót được ngoài đồng. Hễ u tôi ngẩng lên trông, tôi ngậm ngay miệng lại và giấu củ khoai vào bọc. U tưởng tôi chưa có gì vào bụng, càng thương, càng dỗ, bà biết đâu rằng dạ dày tôi đã căng khoai sống nước sông, rằng một đứa trẻ thiên tinh địa quỷ như tôi bao giờ chịu đói.
- Ớ Bờm ơi, bỏ nhà người ta mà lẻn về với mẹ, nhỡ người ta vu cho ăn cắp ăn trộm cái gì thì khổ cả mẹ lẫn con. Con đi đi, kẻo u lo sợ lắm. Đừng trêu vào cửa nhà giàu con ạ. Mình nghèo phải biết phận mình mới là người chứ.
Tôi vẫn không chuyển lòng. Tôi nhai vụng khoai một cách ngon lành. Ngọn đống rơm cao sát với cành cây bưởi. Tôi sẽ rún mình đu lên, ngồi vắt vẻo trong đám lá rậm.
- Ớ Bờm...
U tôi ngẩng lên thấy mất tôi, tưởng là tôi đã lần ra ngoài xóm, ngoài đình đánh khăng đánh đáo thì buồn rầu, đặt mẹt gạo đang sàng xuống, gục đầu vào vách khóc. U tôi khóc như thế đã nhiều, có gì lạ đâu. Cái tính hư hỏng, ngỗ nghịch của tôi càng khiến tôi tức bực. Tôi nghĩ đến những thằng bạn ở ngoài đồng, ngoài đình chùa đang cười đùa vui thích và hẳn là chúng đang nhắc đến tôi. Đại danh của tôi vang như sấm trong đám trẻ làng này, làng bên nữa. Chứ không ư! Thi bơi, tôi nhất. Thi vật, tôi nhất. Chúng bầu tôi làm đô vật. Thi đặt câu hát vè để chế cô gái mắt toét của ông Lý Cựu, để chế ông Nhiêu Khờ tham ăn, tham uống, đi ăn cỗ ở đám nào về cũng say khướt và cũng ốm đến ba ngày vì bội thực. Tôi có cái khiếu làm vè nhanh, người lớn cũng phải phục, duy có cô gái mắt toét của ông Lý Cựu và con gái ông Nhiêu Khờ là ghét tôi lắm. Không cần! Họ đã ghét tôi, thì tôi nghĩ ngay một bài hát để tôi tự giễu tôi cho thiên hạ buồn cười nhân thể. Quả nhiên khắp làng đều buồn cười.
Cái bài ấy được người lớn nhắc nhỏm và trẻ con đi đâu cũng hát váng lên, thế này:
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi hòn xôi, - Bờm cười.
Bài hát hay thế, văn chương thế, ai mà không phục, hả! Tôi lấy làm tự đắc ra phết. Người ta bảo tôi giá là người ngày xưa, đi học, đi thi, ắt là đỗ Trạng. Đã không được đỗ Trạng, thì sau này, tôi cũng đã có một thời đi... bán nhật trình giữa cái tỉnh Hà Nội to lớn gớm ghê. Hôm nào tôi cũng được ngồi ở đầu phố dưới mái hiên, hay dưới cột đèn mà đọc văn thơ của các ông nhà báo. Đọc xong rồi thì tôi cũng thường làm ngay một bài vè (hay bài thơ cũng thế) để đọc cho các bạn đồng nghiệp tý hon của tôi nghe. Chúng đều phục lắm. Và cũng như những ông người lớn ở làng, chúng giục tôi sao không gửi bài thơ ấy đăng báo, cho nó oai. Chuyện oanh liệt ấy, các bạn kiên nhẫn đọc tôi sau này sẽ rõ. Bây giờ hãy xin trở lại với cái thằng tôi, thằng Bờm lêu lổng, lười nhác, khốn nạn ngày ngày làm cho u nó đau khổ khóc một mình.
Vâng vâng, mẹ tôi còn khóc bên bực cửa, bên đống rơm, trong xó bếp, dưới cầu ao. Than ôi, người mẹ góa bụa nghèo khổ còn khóc nhiều vì thằng con côi bất hiếu bất nghĩa này, rồi đến ốm mà chết mất.
Chiều hôm đó, chơi nghịch chán, mớ khoai sống đã tiêu hết rồi, thấy đói quá, tôi mới mò về. U tôi đang nằm rên ở trong buồng. Tự nhiên tôi thấy thương u tôi lắm. Nhưng đang đói, tôi cần tìm cái gì ăn đã. Trong chạn còn một bát cơm trộn ngô, và đĩa tép rang mặn. Tôi ngấu nghiến. Ăn rồi, tôi ra vại nước mưa uống một gáo đầy. Tôi vươn bụng, đứng tần ngần một lát. Không biết nghĩ ngợi thế nào, tôi lại quay ra ngõ. Bỗng có tiếng u tôi gọi giật ở trong buồng. Chờ u tôi gọi hai câu nữa, tôi mới vào. U đưa tay sờ soạng đầu tôi, vì buồng tối lắm. Bàn tay rất nóng, quờ quạng lên má, lên cổ tôi. Tôi ngập ngừng, khẽ hỏi:
- U sốt?
Tiếng u tôi khẽ ừ, chìm vào tiếng khóc nấc lên.
Lòng tôi xao động. Tôi không biết nói gì, chỉ biết đưa một ngón tay lên mút. Gió rít ngoài vườn chuối sau nhà. Gió thổi phần phật vào những bức câu đối vải trắng treo ngoài bàn thờ thầy tôi. Hình ảnh cái áo quan hạ từ từ xuống vũng nước bùn, làm cho tôi nhớ đến sự tan nát của gia đình tôi, làm cho tôi bắt đầu thương người mẹ ốm gầy đầu bịt khăn ngang trắng suốt ngày đi gồng thuê gánh mướn để nuôi con, mà thằng con ấy thì suốt ngày chơi bời lêu lổng, ăn vụng ăn trộm của dân làng để người ta đến tận cổng mà chửi réo.
Bàn tay nóng hổi kéo áo tôi, bảo ngồi xuống cạnh giường. U tôi thổn thức:
- Bờm ơi...
Tôi không biết nói sao, im lặng. Nước mắt trào ra lúc nào không rõ, tôi gục vào ngực u tôi mà nức nở:
- U ơi, u ơi!
Hai mẹ con khóc trong bóng tối. Khóc một lúc rồi tôi vùng chạy ra khỏi buồng, vùng chạy ra ngoài xóm. Sắp đến nhà cụ Chánh tổng, tôi dừng lại, nấp vào bụi cây. Trống ngực tôi đập mạnh. Tôi nhớ lại lời u tôi nói sáng nay: “Con bỏ nhà người ta lỏn về với mẹ, nhỡ người ta vu cho ăn cắp cái gì thì khổ cả mẹ lẫn con...”
Cái mặt hung ác của cụ Chánh tổng hiện ra doạ nạt tôi, đáng sợ như ông Ba-Bị, nếu thực có ông Ba-Bị. Tôi muốn trở về với u tôi. Nhưng u tôi đang ốm, ốm vì không dạy được tôi, không khuyên được tôi trở về hầu hạ, chăn trâu cắt cỏ cho cụ Chánh.
Vì làm ma thầy tôi, u tôi mắc nợ cụ Chánh một món tiền. Không trả được, chỉ còn cách bắt tôi sang bên cụ làm nô lệ. Tôi đã ở được năm sáu tháng. Năm sáu tháng nếm đủ nỗi nhọc nhằn: cơm thừa và roi vọt. Trong khi ấy, mẹ tôi đi gồng đi gánh cho người ta. Hai mẹ con mỗi ngày gặp nhau một lần. Ấy là vào buổi chiều, ở chợ về, thể nào u tôi cũng mua cho tôi nắm bỏng mật, thứ quà tôi thích nhất. Gặp nhau có nói được gì đâu. Tôi đứng bên trong cổng gạch nhà cụ Chánh, u tôi đi qua rón gót cho chó nhà cụ Chánh khỏi sủa, rồi vội vàng ném gói quà vào. Tôi đỡ lấy. Bao giờ cái bóng gày còm của u tôi đi khuất, tôi mới len lén vào phía sau ao, nấp vào một bụi cây mà ăn.
Sự nhẫn nhục chỉ có chừng, khổ quá, tôi đâm ra mặt liều. Tôi trả thù cụ Chánh bằng cách bắt trâu cụ nhịn đói. Dắt ra đồng, tôi buộc ghịt mũi vào gốc đa, không cho gặm cỏ. Có khi tôi đánh xuống sông, buộc vào chân cầu, trâu ngâm mình cả ngày, rồi chờ tối nhọ mặt người tôi mới dắt về, không ai biết. Đã có một con bị ốm đói, cụ Chánh cứ bắt cầy, trâu lăn ra chết ngay trong ruộng. Tội ác ấy khiến tôi hối hận mất mấy ngày. Đôi mắt lừ lừ đỏ như tiết của con vật dọa nạt tôi bao nhiêu đêm. Tối, tôi không dám thò ra xóm nữa, mỗi lần nghe thấy cái tiếng “phì phì” ở đâu là tôi giật bắn mình, ngỡ là ma trâu hiện lên báo oán.
Tôi vẫn cứ bị đòn. Việc đánh chửi tôi để trừ vào món nợ nhỏ, người ta cho là một việc cần phải nhắc đi nhắc lại ngày ngày cho nó vui tay người ta chăng! Bởi vậy, như trên các bạn đọc đã biết: tôi trồn về với u tôi.
Về nhà ở được hai hôm, tôi làm u tôi khổ sở, và bây giờ thì tôi đã hối, tôi đành liều trở lại nhà cụ Chánh, làm cho xong món nợ. Dù đau đớn xương thịt hàng ngày, ít ra tôi cũng giữ toàn chữ hiếu. Tôi khổ vì mẹ, vì cha, Trời sẽ thương tôi.
II
Trời thương tôi! Trời thương tôi!
Tôi cầu nguyện, mỗi khi muốn khóc. Tôi thương mẹ tôi đến xót xa lòng. Những gánh hàng nặng gánh thuê cho người ta, làm trĩu cái vai ốm gầy, suốt ngày này sang tháng khác, tôi muốn kêu lên, tuy cái thân tôi cũng vất vả chẳng kém gì. Tôi mơ ước đào được một miếng vàng, hay bắt được một gói giấy bạc bằng bắp đùi tôi, thì mẹ tôi tha hồ sung sướng như cụ Chánh.
Một lần, tôi đã ngây thơ thú cái mộng ấy với u tôi. U tôi gạt mồ hôi “sà” một tiếng, cười bảo:
- Của bắt được có ra gì. U con ta cứ ở hiền tất gặp lành. Trời thương, sao chả có ngày no ấm.
Than ôi, mẹ tôi chỉ dám cầu trời thương cho đủ no đủ ấm thôi, chứ không bao giờ mong có ruộng cả ao liền, nhà ngói, sân gạch như cụ Chánh. Sự ước mong của mẹ tôi thật là tầm thường, bé nhỏ, biết rằng sau này tôi có thể cho mẹ tôi vui mừng với cái cảnh đủ no, đủ ấm đó không? Tôi cứ tẩn mẩn tính rằng u tôi cố lắm cũng chỉ nuốt được hai bát cơm gạo hẩm. Mặc thì vài ba mảnh áo vải nhuộm bùn dày như khố tải mo nang. Cuộc đời của u tôi, của hầu hết những người nhà quê chỉ cầu có thế thôi, vậy mà họ vẫn gày mòn vì đói rét!
Thấm thoắt qua hai năm ở nhà cụ Chánh.
Tôi đã được cụ tha cho về, vì đã trừ hết nợ, một lẽ nữa là cụ kêu nuôi tôi tốn gạo, tuy rằng tôi có tham cũng không nuốt hết những cơm thừa cơm vãi mà cụ chỉ dùng cho chó, cho gà.
Cái ngày được bước qua cái cổng gạch nhà cụ, tôi sung sướng như con chó tự nhiên tuột xích.
Mẹ con tôi lại đùm bọc lấy nhau. Bữa khoai, bữa cháo. Tôi không đi lêu lổng nữa. Tôi tập gánh đỡ u tôi. Tôi thổi cơm, trồng rau, nhổ cỏ. U tôi từ độ có tôi giúp, cũng đã được đôi lúc ngồi mà hưởng sự an nhàn.
Đời tôi, một buổi sớm nọ đã sáng ra một chút. Một người đàn ông mặc áo sơ mi xanh cộc tay, quần tây vàng, đi giầy tây trắng, đã đến nhà tôi, khiến tôi hốt hoảng. Mẹ tôi lúc ấy đang ngồi ngoài thềm vá áo, ngước lên dụi mắt, rồi lên tiếng:
- Anh Bếp đấy à? Anh ở Hà Nội về bao giờ thế?
Người đàn ông gọi u tôi là cô, và vẫy tôi lại, xoa đầu tôi, gọi tôi là em, rất thân mật. Tôi hết sợ, xán lại gần người lạ mặt ăn mặc sang trọng mà tôi được hân hạnh gọi là anh, anh Bếp.
Anh Bếp rất vui tính, luôn luôn cười. Có lẽ anh thích cười để mọi người trông rõ hai chiếc răng vàng của anh chăng. Tôi kiêu hãnh, theo anh đi khắp làng. Hôm sắp lên tỉnh, anh đến chào u tôi. Anh bảo:
- Thằng bé em này giá cô cho lên Hà Nội, theo cháu tập làm ăn thì chóng khá lắm. Xem chừng tinh quái lắm đây. Ở đất Hà Nội mà tinh quái là không lo đói.
U tôi vẫn cho là câu chuyện đùa, thở dài đáp:
- Đấy, tuỳ anh. Anh thương cô thì cứ đem em đi, gây dựng cho em nên người.
Không ngờ, cuộc đời tôi xoay chuyển vì anh Bếp răng vàng. Anh cam đoan đem tôi lên tỉnh thật. Anh cam đoan gây dựng cho tôi nên người thật. Tương lai ơi, tôi sẽ nên người gì đây? Tôi sẽ làm cái thứ hạng gì đây trong trời đất?
Thế là một buổi rạng đông, u tôi đã dậy nắm cơm nắm, vá víu rồi gấp mấy manh quần áo rách của tôi, u con tôi giã biệt nhau. Tôi lên đường, Tôi xa cây đa đình làng, xa con sông nước đục và rất nhiều đỉa, xa những cái đầu để chỏm và những cái bụng ỏng của lũ bạn tí hon, nhất là xa cái cổng gạch, đàn chó dữ của cụ Chánh tổng, tôi lên đường. Tôi xin biệt mẹ già, làng xã, lên đường đi với anh Bếp răng vàng để tìm cách nên người, để cho u tôi được mãn nguyện với cái mộng rất tầm thường là chỉ dám cầu trời thương cho đủ no ấm mà thôi.
U tôi theo tôi đến bờ đê. U tôi khóc. Tôi chưa kịp khóc thì anh Bếp đã kéo tay tôi lôi đi tuồn tuột. Anh mắng tôi hèn nhát. Anh huýt sáo, hát cái thứ tiếng sì sồ, ngồ ngộ. Mắt tôi khô dần. Cổng làng đã khuất. Bóng mẹ tôi không còn thấy nữa. Anh Bếp huýt sáo và hát vang lên. (Sau này, đã lăn lộn ở máy nước, ở hè phố Hà Nội rồi, tôi mới được biết là anh Bếp hát tiếng Tây). Tôi vui tai, vui chân, khuây ngay buồn. Con đường xe lửa đã hiện trên đường cao. Dãy nhà ga rõ dần màu vôi vàng trong nắng thu tươi sáng.
III
Hà Nội! A ha, Hà Nội! Hà Nội như thế này à? Cái thằng nhãi ranh chăn trâu cắt cỏ ở ngôi làng bé nhỏ toàn đình chùa, toàn tre pheo, đồng ruộng kia, hôm nay mới được đặt đôi bàn chân bẩn thỉu lên Hà Nội, ngây ngô nhìn ánh lửa Hà Nội, hít thở với vẻ sợ sệt không khí Hà Nội. Hà Nội đẹp quá. Người đẹp. Nhà đẹp. Xe pháo đẹp. Cây cối đẹp.
Anh Bếp nói mãi với ông bà chủ mới xin được cho tôi chân thằng bé phụ bếp, hay nói là chân thằng nhỏ thì cũng vậy. Nhưng thằng nhỏ ở đây cũng sướng. Tôi ở nhà tây ba từng. Tôi được ăn bít tết bò, bít tết thỏ, salát trộn trứng và dầu giấm. Tôi được giữ việc lau chùi ô tô. Những lúc không có ai, nhất là không có bác tài, tôi leo ngay lên nệm, ngồi rất bảnh. Sướng! sướng quá!
Thế mà...
Không bao giờ tôi có can đảm nghĩ hết cái câu nó bắt tôi muốn khóc lớn lên.
- U ơi, thế mà... u ở nhà, tường xiêu, mái dột. Ăn thì ngô khoai...
Mỗi khi nghĩ vậy, dẫu đang ngồi ô tô, tôi cũng trèo ngay xuống. Dù đang yến tiệc cùng anh Bếp răng vàng, tôi cũng thừ người, để rơi cùi dìa phóng-xét xuống bàn.
Hạnh phúc không bền vững. Ông chủ tôi đổi vào mãi tận Sài Gòn. Anh Bếp đi theo. Tôi sợ cái xứ Sài Gòn xa quá, xin ở lại tìm chỗ khác làm. Dẫu sao thì tôi cũng đã béo ra một chút rồi, quần áo cũng lành lặn rồi. Và việc đáng kiêu hãnh nhất là tôi đã hai lần gửi lương về cho u tôi. Có thằng con đi làm việc trên tỉnh mà gửi lương về, chắc u tôi lấy làm mát lòng mát ruột.
Tôi lang thang trong thành phố. Bộ quần áo trắng là hộp, sạch được hai ngày. Ngày thứ ba thì nó ngả nước cháo lòng, nhầu nát.
Một hôm tôi qua bãi chợ hàng Da, một phường xiếc của ngườiNammới đến, đang căng lều, xếp ghế. Tôi xán đến xem voi, hổ. Các bạn hẳn còn nhớ anh Bếp răng vàng khen tôi tinh quái? Tôi rất sung sướng nhận cái đức quý hóa ấy. A, nếu không, sao tôi lại đoán ngay ra cái ông mặt đen choắt, người gầy lẳng khẳng, mắt như mắt vượn đang vuốt con bú dù kia là ông chủ gánh xiếc này! Lập tức, tôi chạy đến lễ phép xin việc làm. Ông chủ xiếc nhìn tôi từ chân đến đầu rồi bằng lòng cho tôi nhập vào ban xiếc. Nói thế cho sang, chứ công việc tôi là quét, quét, hầu hạ các ông voi, hổ, bú dù. Thế cũng danh giá chán rồi. Tôi biết có những anh xe, anh nhỏ đứng ngoài bờ rào kia đang thèm địa vị của tôi lắm. Chứ gì, được chơi thân với voi, gấu, hổ, báo mà dễ lắm à?
Tôi vào làm đã được hai ngày. Một người rất to lớn, tóc xoăn tít như đầu ông bụt ốc, phát cho tôi bộ quần áo vải vàng viền đỏ. Mặc vào, tự ngắm mình, tôi thấy cũng hay hay. Mấy thằng bạn đồng nghiệp, nghĩa là những thằng nhãi cũng chỉ chuyên việc hầu hạ các ông súc vật, đều khen tôi mặc đẹp và chúng còn khen tôi giỏi trai là khác nữa. Giờ hết việc, tôi tung tăng ra hàng nước, đi bách bộ quanh bờ rào, làm ra vẻ ta đây đi tuần xem có kẻ nào dòm nom nghịch ngợm gì không.
Cái gã to lớn tóc xoăn tuy có vẻ ác, lúc nào cũng cầm lăm lăm chiếc gân bò, nhưng chưa hề vụt tôi phát nào. Có lẽ tướng gã thì dữ dội, nhưng lòng thiện chăng! Những người khác cũng tử tế, chưa ai đánh mắng tôi. Tôi vẫn lấy làm lo ngại, và luôn luôn để mắt tới những bàn tay to lớn của bọn lực sĩ làm trò.
Phường xiếc mới đến, nên đang sửa soạn. Hai hôm nữa mới bắt đầu diễn. Chừng dăm hôm, tôi đã tò mò xem hết con vật này, con vật khác và đã đánh bạo lân la trò chuyện với mọi người. Những cô bé xinh xinh, khoẻ mạch và nhanh nhẩu, không cha, không mẹ, chúng đi giang hồ từ măng sữa, cho đến bây giờ mới chỉ chừng mười tuổi mà đứa nào ăn nói cũng như bà cụ. Những cậu bé, cũng vào tuổi ấy, hoặc hơn một chút, đen trũi và thịt xương rắn chắc, ăn nói cũng không kém gì các bà cụ tí hon kia.
May nhờ mặt mũi tôi cũng dễ thương, bộ điệu tôi lúc nào cũng lễ phép lối đàn em, nên chúng thân với tôi ngay. Nhưng càng thân, tôi càng bị chúng sai đi mua quà suốt ngày.
Người đã vậy, xong rồi. Tôi chỉ còn tìm cách thân với các ông vật nữa. Xin cho tôi gọi thế, vì tôi thấy chúng được ông chủ chăm nom vỗ về, chiều chuộng hơn cả với con người.
Me-sừ Toby, ấy là con voi cụt một ngà, rất ác đối với mọi người, nhưng rất ngoan với chủ của nó. Khi thấy ông chủ đến, Me-sừ Toby quỳ ngay xuống, cong vòi lên đón lấy mấy miếng đường hay quả chuối. Chú vượn già thì lúc nào cũng như chán nản ngồi ngắm mấy con hổ ủ rũ đứng nhìn thiên hạ đi lại nhặng sị ở bên ngoài. Ba cậu khỉ con trong khi ấy thì rất du côn, cứ thò tay ra ngoài chuồng để rình chộp đuôi mấy con chim trắng ngây thơ đu ở chiếc vòng tròn trong cái chuồng sơn xanh đẹp như lầu công chúa. Cả một xã hội rừng xanh bị xô đẩy đến cái xã hội loài người, mà con người lúc này được làm chúa, được cầm roi vọt đánh quật, dạy bảo chúng như ông đồ dạy đánh lũ học trò ngu dốt vậy. Đến như Bờm tôi đây, thằng nhãi oắt ở cái làng Riềng tỉnh Bắc Ninh bé nhỏ kia, tự nhiên được nhập vào phường xiếc, được mặc bộ quần áo vàng nẹp đỏ, thế rồi thì lừa lúc không có ai, cũng cầm roi chọc sừ hổ một cái, đá nhẹ sừ voi một cái, véo tai sừ vượn một cái, chửi đổng mấy câu, làm ra ta đây gớm lắm. Buồn cười nhất là thằng Bờm này, từ thủa được mọc lên mặt đất, ngoài con trâu, con bò, con gà, con chó, bây giờ mới trông thấy những con thú rừng kỳ lạ ấy, vậy mà tôi đã nhờn ngay với chúng! Cho hay, than ôi, than ôi... - tôi rất muốn than một câu để mà tôi khinh bỉ tôi một tí, nhưng cái thứ văn chương để diễn tả tư tưởng thực là khó quá, tôi không biết than ra sao cả, thôi thì Bờm bất tài xin chịu.
Tôí nay đại diễn!
Voi đá bóng, đu dây (nặng như con tượng mà đu dây, khiếp!)
Sư tử hí cầu, nhẩy lửa
Khỉ kéo xe, lái ô tô, xe đạp
Vượn bắn súng, đu bay
Chim giã gạo, gánh nước
Ngựa vằn, voi tướng quân bày trận
Vân vân, vân vân...
Ối chao, thì ra đấy toàn là những trò vè ghê gớm để thu tiền thiên hạ. Từ ngày được vào quét phân hầu hạ các ông rừng, cái đầu óc hẹp hòi ngây ngô của thằng Bờm quê mùa này đâu có nghĩ ra rằng ở trên đời lại lắm trò thú vị, lạ lùng đến thế!
Tôi sở dĩ đọc được tấm biển nó đang cỡi trên lưng tôi, ấy cũng nhờ ơn anh Bếp răng vàng dạy tôi học quốc ngữ trong ba tháng tôi chỉ quanh quẩn với việc lau chùi soong chảo. Cái gã lực lưỡng tóc bụt ốc, một sáng, đã đeo lên lưng tôi tấm biển nặng nề ấy, đội lên đầu tôi chiếc mũ đỏ nhọn hoắt vẽ những ngôi sao trắng, cầm chiếc bút to gần bằng chổi quét lia lịa phấn trắng vào mặt tôi, phẩy dưới mũi tôi một bộ râu hắc-ín, rồi đá mạnh vào đít tôi một cái mà thét lớn:
- A-lê-hấp! Chia nhau ra mà đi các phố đông, phố vắng, ngoại ô, tất cả! Tao có ô tô đi tuần, thằng oắt nào mà chúi vào một chỗ ngủ là tao tóm cổ về cho con Toby đập vỡ sọ!
Ối chao, me-sừ voi kia mà quấn lấy tôi, giơ cao cái vòi lên trời, giáng mạnh tôi xuống đất, như thế thì còn gì đời Bờm tôi nữa.
U tôi cho tôi đi tìm cách để nên người. Vậy mà chưa ra cái ngợm gì, chỉ mới rửa soong chảo, sau đó là bây giờ đây, ngày ngày quét phân voi phân hổ, rồi lại ngửa mặt lên cho người ta trát vôi bôi mực vào mặt mũi, người ta đeo biển vào lưng, u ơi, người mẹ nghèo đói xa xôi của con ơi, con đã lạy biệt mẹ ra đi để nên người như thế đấy, để cho con voi quật vỡ sọ như thế đấy!
Ý nghĩ bi đát kia làm hai mắt tôi đỏ sọng. Tôi khóc. Tôi vâng lời người ta dạy. Tôi còng lưng xuống mà đi, đi hết các ngã phố phường cát bụi. Chứ biết làm sao! Những con thú rừng kia còn phải khuất phục người ta, chứ cái thằng Bờm nhãi nhép này là cái thá gì mà bướng.
Tôi nghênh ngang với chiếc mũ nhọn, bộ mặt hề, với tấm biển; người ta xúm đọc trên lưng tôi. Tôi có cảm tưởng lưng tôi nhoi nhói buốt lên vì hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu con mắt soi vào, chiếu vào, như những mũi kim châm. Tụi trẻ con bu kín quanh tôi, chúng ngắm tôi như ngắm một con chó ghẻ mà còn được chủ làm dáng bằng cách tết cái băng lụa và đeo chuỗi chuông đồng vào cổ. Thoạt tiên tôi còn xấu hổ ở những phố đầu, sang đến mấy phố sau, tôi cũng trơ đi. Đi qua những cửa hiệu có gương ngoài cửa, tôi liếc ngắm mặt mũi thân hình tôi, ủa này lạ, tôi thấy tôi ngồ ngộ, còn đẹp là khác nữa. Chứ sao! Chán người bôi phấn vẽ râu như tôi, mà họ lấy thế làm đẹp, thì tôi, sao lại cho mình là xấu, hả!
Mỏi gẫy chân, và đau rừ bả vai xương sống vì tấm biển nặng. Tôi dở khóc, dở mếu, nhưng nghĩ đến lời dọa của gã lực lưỡng tóc quăn, tôi cứ phải đi, đi liền liền, không dám nghỉ, không dám uống nước, dù là uống nước Hồ Gươm, chứ tôi thì làm gì ra một đồng trinh nhỏ.
Thành phố bật đèn, tôi mới quay về. Khu chợ Hàng Da, đèn sáng rực trời. Lá cờ Pháp, lá cờNambay phất phới. Kèn “bú dích” du dương, ầm ĩ. Người xô lấy vé như nêm cối. Có kẻ khi chưa lấy được vé thì đầu còn bóng, áo quần là hộp; khi đã mở một đường huyết chiến để vào và để ra, ông công tử ấy đầu bù, ca vát tuột, cả người tơi ra như cái giẻ rách.
Trong khi bao nhiêu con người sang trọng rất vất vả để chiếm được một ghế ngồi xem người và vật làm trò, thế mà Bờm tôi câng câng bộ mặt bẩn thỉu vác tấm biển vào ngay cửa chính, không có quý vị nào dám chen lấn tôi, không có bàn tay nào dám chìa ra đón vé tôi, ô hô! Sung sướng quá, danh giá quá! Tôi đã khổ cực cả ngày, thì giờ này tôi phải hưởng sự sung sướng, tôi phải đi nghênh ngang, tôi phải báo thù... cái sự vất vả của tôi.
Bên chuồng hổ, tôi họp các thằng bạn vác biển của tôi lại rồi quây tròn quanh một mâm cơm gạo đỏ và rau muống già. Đã bụng đói thì ăn ngon tất, vừa ăn vừa chùi mặt.
Chính vào lúc này, bọn trai gái kia đang bôi son, trát phấn, kẻ mày vẽ râu để sắp sửa ra làm trò.
“ Hết lượt ta, đến lượt họ, có riêng gì ai đâu?” - Tôi nghĩ được câu ấy, lấy làm khoái lắm.
Đến giờ khai diễn. Cả một thế giới lạ kỳ của voi, hổ, vượn, của những người mà ban ngày tôi đi mua cho họ từng củ khoai, bát cháo hoa, sang lắm là bát phở. Thế mà dưới ánh đèn, trong những bài kèn “bú-dích” rất là du dương, ầm ỹ, những con người đó, những con thú đó, làm những tiết mục xiếc khiến tôi kinh ngạc, sợ hãi quá đi mất. Các quý vị ban nãy huých gạt nhau như thù hằn để tranh mua vé, bây giờ ngồi sát vào nhau từng hàng rất là có trật tự, rất là thân thiện, rất là đẹp đẽ để vỗ tay, để mời nhau hạt dưa, thuốc lá, để bàn tán khen với nhau không ngớt.
Tôi trốn việc, nấp vào một xó mà xem, ngây ngất. Tôi đâm ra kính phục các me-sừ thú vật ấy quá đỗi. Sừ voi, sừ hổ, sừ vượn, sừ bú dù... Tôi lấy làm hối hận đã dám hỗn láo chọc que, đá trộm những bậc thiên tướng ấy. Cả cái thằng lùn, chỉ bé gọn bằng ngón tay mà ăn rất tục, nói rất láo, ngủ ngáy như chó xồm, ban ngày tôi ghét lắm, thế mà lúc này tôi lại sinh yêu nó. Nó pha hề rất có duyên, cười chết được.
Từ tối hôm đó, tôi có cảm tình đặc biệt với phường xiếc. Tôi kính trọng, thân mến hết những con người, con thú mà số kiếp đã đưa lại gần nhau, sống với nhau những ngày giang hồ lưu lạc.
Cái thằng hề lùn, tôi càng gần gụi nó, càng thấy nó dễ thương. Nó chọc cười thiên hạ đấy, nhưng tôi nhận thấy nhiều khi nó lủi ra chỗ vắng, ngồi thừ rồi bưng mặt khóc.
Một hôm nó ốm, người nóng như than. Không ai nhìn đến nó. Tôi thương nó lắm, đi lấy gừng, tóc, trứng, rượu đánh cảm cho nó. Có một xu, tôi lại đi mua lá, nấu nước cho nó xông. Mồ hôi ra được, đỡ sốt, nó ôm lấy tôi cười mấy tiếng. Tôi cúi nhìn mặt nó, thấy nước mắt chảy ròng ròng.
- Bờm ơi, ta có một người mẹ. Mẹ ta ở mãi trên một vùng mạn ngược, ta nghe tin mẹ ta đang ốm...
Nó nức nở. Tôi chưa kịp an ủi nó thì người ta đã giục nó dậy sắm sửa ra trò. Nó gượng ngồi lên, mặc bộ quần áo đỏ, bôi vẽ mặt. Tôi thấy tay chân nó còn run lắm. Chuông rung, hai con ngựa chạy ra. Người con gái tết một bông hoa to tướng trên mái tóc, phấn trát bự như quét vôi chạy ra nhảy tót lên mình một con ngựa. Đến lượt thằng lùn. Nó vừa nhô ra sau tấm màn, người ta đã vỗ tay chào đón. Nó quay lông lốc ở giữa một cái vòng như quả bóng cho hai con ngựa nhảy qua. Tôi ở sau sân khấu lo lắng, chỉ sợ nó đang cơn sốt quay lỡ một vòng thì vó ngựa giẫm không lòi ruột cũng bể đầu. Con ngựa có cô gái đánh đàn đã vào buồng. Tới lượt thằng lùn phải cỡi con kia. Nó bắc thang trèo lên yên. Con ngựa phi nhanh quanh chiếc vòng. Nó chồm cồm, rún lên rún xuống, cười sằng sặc để phụ với tiếng cười của người xem. Vút! một sợi dây thép đã móc sẵn vào lưng nó nhấc bổng nó lên cao. Con ngựa chạy một mình. Nó bị treo lơ lửng, quay tít mấy vòng, nó la làng nước. Khán giả vỗ tay ầm giời. Sợi dây hạ xuống, nó ngã cong queo. Mọi lần thì nó đứng dậy ngay, nhào lộn ba cái rồi mới chạy vào buồng trò. Nhưng lần này nó nằm thẳng cẳng. Người xem càng cười rộ, cho là nó làm trò ra thế. Nhưng tôi biết, than ôi, tôi biết nó bị ngất đi. Lùn ôi, khổ cho cái thân mày, có phải mày bị ngất đi thực không? Tôi cuống quýt, tôi biết làm thế nào? Chẳng lẽ tôi chạy ra khiêng nó vào. Không được, công việc của tôi chỉ là quét dọn và vác biển, đâu đã được ra “sân khấu”.
Nhưng rồi cũng có người ra khiêng nó vào. Nó ốm nặng. Song mặc dầu ốm, tối sau nó vẫn phải ra làm trò, và vẫn phải làm lại cái trò treo lơ lửng ấy cho người ta hoan hô!
Thấm thoắt phường xiếc đã ở Hà Nội một tháng rồi. Một ngày kia, ông chủ truyền lệnh nhổ cột, hạ cờ, xếp ghế, để ra đi... Đi đâu? đi đến phương trời nào đây, hỡi đoàn người và đoàn vật không bao giờ yên chỗ? Tôi buồn rầu, suy nghĩ. Tôi quyết định rằng tôi không thể nào ra đi được nữa, vì ra đi nữa là xa mẹ tôi, xa cái mái lều rơm kia dần dần, và biết đâu mãi mãi. Hơn nữa, tôi thấy cái công việc bôi hề vẽ nhọ này rồi cũng chẳng đưa tôi đến một tương lai tốt đẹp gì.
Thế là phường xiếc bỏ Hà Thành, còn tôi thì ở lại, lang thang các phố như hồi anh Bếp răng vàng bỏ tôi. Sự từ bỏ đoàn người, đoàn vật kia cũng khiến tôi buồn rũ mất mười ngày. Nhất là anh lùn Bịn (tên anh), tôi mất anh là mất cả một tấm tình bạn bè đau xót. Bịn ơi, dù anh ở đâu, dù anh đi bán cười cho thiên hạ nơi nào, Bờm này vẫn thương anh, - tôi thương anh cũng như tôi thương cho cái thân phận tôi vậy.
- Anh Bịn! anh Bịn của tôi, biết ngày nào tôi lại được trông thấy cái miệng rộng của anh toét cười, và đôi mắt ốc nhồi của anh rúc vào hai bàn tay mà khóc vì xa mẹ, như tôi?
IV
Ở đây, chuyện đã khá dài rồi, tôi xin bỏ qua ít nhiều đoạn giang hồ của tôi sau khi thôi phường xiếc.
Tôi chỉ cần vỗ ngực mà khoe với các bạn đọc rằng tôi đã lạc lõng xuống Hải Phòng, bán nước vối ở bến Sáu Kho, bán bánh tây kẹp chả trên các chuyến tàu thủy, và tôi đã... làm xiếc (tôi học lỏm được ấy mà!) làm xiếc trên tàu, trên các bến xa lạ để kiếm tiền.
Khoe thế rồi, tôi cũng lại cần phải thân mật (các bạn cho phép Bờm đây được gọi là các bạn, vì rồi đây biết đâu trong cuộc nổi chìm, Bờm sẽ chẳng được kể với các bạn nhiều chuyện nữa). Vâng, vâng, tôi xin thân mật mà khuyên các bạn rằng lúc nào ta cũng nên phấn đấu trong cuộc sống. Tôi đã phấn đấu, và sẽ phấn đấu đến cùng để cho mẹ già tôi được hưởng những ngày no ấm, như mẹ tôi ngày đêm mong ước.
Một năm trời lông bông trên các ngả sông, trên các bến tàu, tôi đã gửi được khá tiền về cho u tôi, và tôi đã xin u tôi đừng đi gồng thuê gánh mướn nữa. Do một sự tình cờ, tôi lại quay về Hà Nội. Chán cái đời sông bến, tôi muốn sống giản dị, êm đềm để tạm nghỉ ngơi. Tức thì tôi đi bán báo. Tôi chạy, tôi kêu vang Hà Nội. Thú lắm, mỗi ngày tôi chỉ làm việc có một hai giờ trong buổi sáng, là đủ xu tiêu.
Xong giờ làm việc, tôi lại tụ họp mấy thằng đồng nghiệp đi chén thịt chó ở phố Hàng Hòm. Giữa lúc chén thịt chó, tôi thường hay làm vè, làm thơ (tôi nhắc lại đoạn vè trên kia). Lũ nhãi bạn tôi cổ võ, khuyến khích, vỗ tay, và đập bàn làm như các tay hảo hớn trong truyện Tàu cổ vậy. Thú lắm, nhưng lâu dần, rồi tôi tỉnh ngộ. Đồng tiền kiếm được, vì đua bọn nhãi mà tôi tiêu hết cả. Khốn nạn, chắc u tôi mong chờ, đau khổ lắm. Có lẽ u tôi lại phải đi gồng thuê gánh mướn như trước rồi chăng.
“Ta phải làm ăn đứng đắn, phải thương mẹ, phải cố nên người!” - Tự khuyến khích thế rồi, tôi lìa bỏ lũ bạn bè hư hỏng. Tôi chia thì giờ làm việc: buổi sáng bốn giờ ở Dạ lữ viện lên toà báo, lĩnh báo đi bán. Chín giờ hết báo, tôi làm một nghề mới nữa là đi đánh giầy. Tôi mới sắm cái hòm gỗ nhỏ, sơn xanh đàng hoàng. Cái hòm đựng hai hộp kem đen đỏ, hai chai phấn, vài chiếc bàn chải, một bó giẻ; tay xách hòm, miệng rao quang quác: “mũ trắng, giày dôn... giày dôn, mũ trắng!”. Hai nghề này giúp tôi kiếm được một đồng bạc mỗi ngày. Cứ nửa tháng tôi lại tìm người làng gửi về quê cho u tôi một gói giấy, trong đó đựng những đồng hào, đồng bạc mới, và kèm một bức thư kể sự làm ăn rất chí thú của tôi, và không lần nào tôi quên xin u tôi cứ vui vẻ mà tin cậy vào tương lai của Bờm này.
Nửa năm sau, Hà Nội không thấy tôi rao báo, rao mũ trắng, giầy dôn nữa. Tôi không đi đâu cả. Tôi vẫn ở Hà Nội như thường, nhưng tôi đã đổi nghề, tôi đã xin được chân sắp chữ ở một toà báo lớn. Lương chẳng được bao nhiêu, nhưng tôi rất vui sướng, vì đây mới là bước đẹp đẽ đưa tôi đến tương lai đó. Ở xưởng in, dầu mỡ làm tôi nhem nhuốc, song tôi rất yêu quý nghề này. Đã bao lâu nay, mỗi lần đến lĩnh báo, tôi đã thèm thuồng đứng ngó nhìn người ta cần cù làm việc trước những ô chữ, và những tiếng máy in chạy sầm sầm nhả ra những tờ báo rộng đày bài, đày tin tức, khiến lòng tôi nao nức...
Tôi lại viết thư về cho mẹ tôi mừng. Một buổi chiều ở xưởng in về đến nhà trọ, tôi bỗng bàng hoàng, mừng mừng, tủi tủi: mẹ tôi kia, mẹ tôi ở nhà quê ra. Ôi! mẹ tôi béo hơn trước rồi. Mẹ tôi mặc tấm áo vải nâu dày mới may, song tóc mẹ tôi đã bạc nhiều hơn xưa. Mái tóc bạc có lẽ vì những ngày đợi chờ thương nhớ thằng con lưu lạc. Chân tay mẹ tôi đã đẫy ra, có lẽ vì đã có những bát cơm nóng sốt, không phải nhịn nhường cho con ăn như trước nữa.
Bữa cơm ấy, tôi mua thêm vài hào chả trâu, lòng lợn, đãi mẹ tôi. Bữa cơm sang lắm đấy, nhưng cả hai mẹ con tôi chỉ nhìn nhau mừng quá mà ăn chút ít cũng no rồi.
Tôi vừa buông đũa thì ở ngòai phố kèn “bú-dích” thổi vang trên một chiếc ô tô qua cửa. Tôi vội ngó ra: đó là phường xiếc mới về. Nhìn thoáng trên ô tô, nhận thấy vẫn là bọn người thổi kèn đánh trống của cái phường tôi làm năm nọ.
Mừng quá, tôi có dịp đưa mẹ tôi đi xem nhữn cái kỳ lạ ở trên đời, và tôi có dịp gặp lại những con người, con vật, bạn xưa cũ của tôi.
Tối đến, hai mẹ con tôi dắt nhau đi xem phố. Cái gì cũng khiến mẹ tôi khen ngợi một cách ngây ngô, bỡ ngỡ. Tôi càng thương xót mẹ tôi hơn. Hai mẹ con tôi vào rạp, ngồi ghế hạng bét. Thế cũng là tốt rồi, là nhiều lắm lắm rồi. Tôi, nhất là mẹ tôi, còn dám mong gì hơn nữa! Bỗng tôi thấy thoáng bóng anh lùn Bịn đi ra cửa, vì chưa tới giờ khai diễn. Để mẹ tôi ngồi đấy, tôi vội chạy ra ôm choàng lấy anh mà reo lớn:
- Bịn ơi! anh Bịn ơi!
- Bớ này Bờm! Úi cha chả, đằng ấy lớn như thổi, bắp thịt như lực sĩ. Lại quần áo đàng hoàng góa! - Anh nói tiếng Sài Gòn. Anh ôm lấy chân tôi, kiễng mãi lên để vỗ vai tôi ba cái mạnh.
Chúng tôi hể hả, dắt nhau ra hàng nước, nói cười ba hoa như hai kẻ thủy thủ lâu ngày mới ghé cùng một bến để gặp nhau. Hai bát nước chè tươi, khói bốc lên nghi ngút. Tôi kể qua anh nghe những nghề nghiệp của tôi. Anh kể tôi nghe những cuộc phiêu lưu của anh qua tỉnh này, xứ nọ. Thôi thìTrung,Nam, Bắc, Miên, Lào đủ cả. Bao nhiêu tháng ngày, bao nhiêu cực khổ, bao nhiêu mưa nắng, vậy mà cái thân hình ngắn ngủn ủa anh vẫn thế, duy có bộ mặt anh thì già cỗi thêm nhiều, trông như một gốc cây cổ thụ. Chúng tôi ngồi lặng im để cùng cảm động với nhau trong hai phút. Bỗng tôi bấm tay anh, trỏ vào trong rạp:
- Kia, mẹ tôi kia anh ạ. Mẹ tôi mới ở quê ra...
Bịn nhìn theo ngón tay tôi, mỉm cười:
- Bà còn khỏe chán, anh nên mừng đi anh ạ.
Nói rồi, anh rầu mặt lại, đầu cúi xuống, cúi xuống. Và một tay anh đưa lên đỡ lấy cầm. Tôi biết anh muốn khóc. Anh động lòng nghĩ đến người mẹ già đang ở tận một miền nước độc thượng du. Tôi toan tìm lời an ủi, thì có người gọi anh vào để ra trò.Mười phút sau, anh bạn tôi đã ra trò. Anh lại nhắc lại những câu khôi hài, những dáng điệu ngộ nghĩnh của mình để làm cho thiên hạ cười rũ rượi, vỗ tay ầm ĩ.
Ngọc Giao
Truyền Bá, số 58 / 1942
HẾT