CHƯƠNG 4 THỊ TRẤN PRIESTOWN
Thị trấn Priestown được xây dựng dọc hai bờ con sông Ribble, là thị trấn lớn nhất mà tôi từng ghé qua. Khi thầy trò chúng tôi đi xuống đồi, dòng sông trông như một con rắn khổng lồ lấp lánh sắc cam dưới ráng chiều hoàng hôn.
Đây là thị trấn đầy những nhà thờ, với những chóp tháp cao tháp nhọn vươn lên bên trên các dãy nhà phố nhỏ bé liền kề san sát. Ngay trên đỉnh ngọn đồi, gần với trung tâm thị trấn, là nhà thờ lớn. Cả ba nhà thờ lớn nhất tôi từng thấy từ trước đến nay có thể dễ dàng nhét được vào trong thánh đường này. Và gác chuông của thánh đường ấy lại hoàn toàn khác biệt. Tháp chuông được xây từ đá vôi, có màu hơi trăng trắng và cao đến nỗi tôi nghĩ rằng vào những ngày mưa thì cây thập tự trên đỉnh tháp sẽ bị mây che phủ đi mất.
“Đấy có phải là chiếc tháp chuông lớn nhất thế giới không vậy thầy?” tôi hào hứng chỉ tay lên ấy và hỏi.
“Không đâu anh bạn,” Thầy Trừ Tà đáp với nụ cười rạng rỡ hiếm hoi lắm mới thấy. “Nhưng đấy là tháp chuông lớn nhất trong toàn Hạt, cũng nên như thế thôi vì đây là thị trấn nổi tiếng có nhiều cha xứ. Ta chỉ ước giá như có ít cha xứ hơn một chút nhưng chúng ta đành phải liều thôi.”
Đột nhiên nụ cười trên gương mặt thầy nhạt đi. “Mới nhắc là đã xuất hiện rồi!” thầy nghiến chặt răng thốt lên, rồi kéo tôi vào quãng hở giữa hàng giậu ngăn cách với cánh đồng sát cạnh. Nép vào đấy, thầy đặt ngón tay trỏ lên môi ra hiệu im lặng và bắt tôi khom người xuống cùng thầy, trong khi tôi dỏng tai nghe tiếng những bước chân đang tiến đến gần.
Đây là một bờ rào cây táo gai cao, dày với cành lá um tùm chưa rụng bớt bao nhiêu, nhưng xuyên qua đấy tôi vẫn có thể nhìn ra một chiếc áo thụng đen bên trên đôi ủng. Là một cha xứ!
Chúng tôi ẩn mình nơi đấy thêm một đỗi lâu sau, dù cho tiếng bước chân đã xa dần xa dần rồi im hẳn. Chỉ đến khi ấy Thầy Trừ Tà mới dẫn đường cho hai thầy trò quay trở ra lối đi. Tôi thật không hiểu nổi trò lén lén lút lút này là thế nào. Chúng tôi đã đi qua rất nhiều cha xứ trong biết bao cuộc hành trình. Quả thật bọn họ chẳng khi nào tỏ ra quá thân thiện nhưng từ bấy đến nay chúng tôi chưa bao giờ phải trốn đi cả.
“Chúng ta phải đề cao cảnh giác nhé anh bạn,” Thầy Trừ Tà giảng giải. “đám cha xứ lúc nào cũng lắm chuyện nhưng trong thị trấn này thì bọn họ là hiện thân cho mối nguy có thật đấy. Con biết đấy, giám mục của Priestown là chú ruột của tay Đại Phán Quan. Chắc chắn là con đã nghe đến người này.”
Tôi gật đầu. “Ông ta săn lùng phù thủy phải không ạ?”
“Ừ đúng, đúng là hắn ta làm việc này. Khi bắt được người nào mà hắn ta cho là một mụ hay lão phù thủy, hắn ta sẽ đội mũ choàng đen vào để trở thành quan tòa trong phiên xử – loại phiên xử thường kết thúc rất chóng vánh. Ngày hôm sau hắn sẽ đội mũ choàng khác. Hắn biến thành kẻ hành quyết và tổ chức nhóm lửa thiêu sống. Hắn nổi tiếng làm việc này rất thạo và thường bao giờ cũng có một đám đông lớn bu lại để xem. Người ta bảo hắn thường cẩn thận chọn vị trí chiếc cọc sao cho kẻ khốn khổ kia phải mất rất lâu mới chết được. Sự đau đớn ấy được cho là để khiến một phù thủy thấy hối hận những việc mụ đã làm, thế là mụ phải khẩn nài Chúa Trời xin được tha thứ, và khi mụ chết, linh hồn mụ ta sẽ được cứu rỗi. Nhưng đấy chỉ là cái cớ mà thôi. Tên Phán Quan thiếu những kiến thức của kẻ trừ tà và sẽ không biết được liệu một mụ phù thủy thực thụ có từ dưới mồ với tay lên để tóm lấy cổ chân hắn hay không! Không, hắn ta chỉ là một kẻ tàn bạo thích gây ra đau khổ. Hắn rất thích công việc của mình và ngày càng trở nên giàu có nhờ những đồng tiền kiếm được do bán đi của cải nhà cửa của những người bị hắn buộc tội.
“Ấy dà, thế mới nhắc ta đề cập đến rắc rối cho thầy trò mình. Thế này, tên Phán Quan xem người trừ tà cũng là phù thủy nốt. Giáo hội không thích bất cứ ai dây dưa với thế lực bóng tối, dù những người đó chiến đấu chống lại thế lực ấy thì cũng thế mà thôi. Giáo hội nghĩ chỉ có các cha xứ mới được phép làm chuyện này. Tên Phán Quan có quyền bắt bớ, cùng với quân lính có vũ trang của giáo hội làm theo chỉ thị của hắn – nhưng này anh bạn, phấn khởi lên đi, vì đấy chỉ là tin xấu thôi mà.
“Tin tốt lành là tên Phán Quan cư ngụ tại một thành phố lớn ở tít tận phía Nam, cách rất xa biên giới của Hạt, và hiếm khi hắn lại ngược lên phương Bắc. Vì thế nếu chúng ta có bị phát hiện và hắn ta có được triệu đến, thì cũng phải mất hơn một tuần hắn mới đến được đây, thậm chí có đi bằng ngựa cũng thế. Với lại việc ta đến đây hẳn cũng đã là điều ngạc nhiên. Không ai lại nghĩ ta sẽ đến dự tang lễ của người anh mà ta đã không thèm nói chuyện suốt bốn mươi năm cả.”
Nhưng lời của thầy chẳng an ủi được gì mấy. Khi chúng tôi di chuyển xuống đồi, tôi rùng mình về những lời thầy nói. Dường như việc đi vào thị trấn là đầy rủi ro. Với nào là áo choàng và trượng, thầy là người trừ tà không lẫn vào đâu được. Tôi vừa định mở miệng nói thế thì thầy đã ra hiệu chỉ sang bên trái bằng ngón cái để chúng tôi rời khỏi đường lộ đi vào một khu rừng nhỏ. Đi được thêm chừng ba mươi bước nữa, thầy tôi dừng lại.
“Đúng đấy anh bạn,” thầy bảo. “Cởi áo choàng của con ra đưa cho ta nào.”
Tôi không cãi lại; từ giọng thầy, tôi nghe ra là thầy nghiêm túc chứ chẳng chơi, nhưng đúng là tôi có thắc mắc không biết thầy định làm gì. Thầy cởi áo choàng có đính kèm mũ trùm của mình ra và đặt thanh trượng xuống đất.
“Được rồi. Giờ đi tìm cho ta vài nhánh cây với cành con đi nào. Mà này, đừng có nặng quá đấy.”
Vài phút sau khi đã hoàn thành việc thầy yêu cầu, tôi ngồi quan sát thầy đặt thanh trượng dọc theo những cành cây rồi bó hết lại trong hai chiếc áo choàng của hai thầy trò. Tất nhiên, đến lúc đấy thì tôi đã đoán ra là thầy định làm gì rồi. Những cành cây thò ra từ hai đầu bó gậy trông thật giống như chúng tôi vừa ra ngoài nhặt củi. Làm vậy để ngụy trang thôi mà.
“Gần nhà thờ lớn có khá nhiều nhà trọ nho nhỏ,” thầy vừa bảo vừa quẳng cho tôi một đồng tiền bạc. “Sẽ an toàn cho con hơn nếu chúng ta không ở cùng một nhà trọ, bởi nếu người ta đến bắt thầy, họ sẽ bắt nốt cả con. Anh bạn này, tốt nhất là con cũng không nên biết ta ở đâu. Tên Phán Quan sử dụng nhục hình đấy. Bắt được một trong hai ta rồi hắn sẽ chóng tìm ra người kia thôi. Ta sẽ khởi hành trước. Chờ ta trong mười phút, rồi hãy đi theo ta.
“Con hãy chọn bất cứ nhà trọ nào mà tên của nó chẳng dính líu gì đến nhà thờ ấy, để chúng ta không phải tình cờ ở chung một chỗ. Cũng đừng ăn tối gì hết nhé vì ngày mai chúng ta phải làm việc. Tang lễ sẽ tiến hành vào lúc chín giờ sáng nhưng con hãy cố đến sớm để ngồi gần phía cuối của nhà thờ lớn; nếu khi ấy ta đã có mặt ở đấy rồi, con hãy giữ khoảng cách với ta.”
“Làm việc” có nghĩa là việc của người trừ tà và tôi băn khoăn không biết liệu chúng tôi có phải đi xuống khu hầm mộ để đối mặt với Quỷ Độc không nữa. Tôi chẳng thích cái ý tưởng ấy một chút xíu xiu nào.
“Ồ, còn một điều nữa này,” Thầy Trừ Tà vừa chớm quay đi lại vội nói thêm. “Con sẽ trông chừng túi của ta nhé, vậy con phải nhớ điều gì khi mang túi vào nơi như là Priestown này nào?”
“Xách túi bên tay phải ạ,” tôi đáp.
Thầy gật đầu đồng tình, đoạn vác bó củi lên vai phải và bỏ lại tôi đứng chờ trong khu rừng.
Cả hai chúng tôi đều thuận tay trái, là một điều mà các cha xứ không thuận lòng. Những người thuận tay trái là những người mà họ gọi là “nham hiểm”, những kẻ dễ bị Ác quỷ cám dỗ nhất hay thậm chí là còn vào bè vào đảng với hắn.
Tôi để cho thầy đi khỏi được mười phút hay lâu hơn một chút, chỉ để bảo đảm là có đủ khoảng cách giữa hai chúng tôi, và rồi, mang theo chiếc túi nặng trịch của thầy, tôi bước xuống đồi, thẳng tiến về hướng gác chuông. Khi đã vào đến trong trấn, tôi lại phải leo ngược dốc về phía nhà thờ lớn, và lúc đã đến được gần, tôi bắt đầu cuộc tìm kiếm nhà trọ.
Đúng thật là có rất nhiều nhà trọ; hầu như mọi nẻo đường lát đá cuội đều có một nhà trọ, nhưng vấn đề lại là tất cả các nhà trọ ấy đều không kiểu này thì kiểu khác dính líu đến nhà thờ. Nào là Cây Gậy Phép của Đức Giám Mục, Quán Trọ Gác Chuông, Thầy Dòng Vui Tính, nào là căn Mũ Tế rồi Thánh Kinh rồi Đèn Cầy, ấy là chỉ kể ra một vài căn thôi đấy. Nhà trọ cuối cùng nhắc tôi nhớ lý do chủ yếu vì sao chúng tôi đến Priestown này. Anh trai của Thầy Trừ Tà đã phát hiện ra bằng cái giá là chính mạng mình rằng, các cuốn kinh thánh và nến thường không có tác dụng gì để chống lại thế lực bóng tối. Thậm chí ngay cả khi dùng chung với chuông cũng chẳng ích gì.
Tôi chóng nhận ra Thầy Trừ Tà đã chọn làm cho mọi chuyện dễ dàng với thầy nhưng lại khó khăn cho tôi, và tôi phải bỏ nhiều thời gian để sục sạo khắp những con phố chằng chịt nhỏ hẹp của Priestown và cả những con đường rộng hơn nối liền các phố nhỏ. Tôi đi dọc đường Fylde rồi leo ngược lên con phố rộng mang tên Cổng Thầy Dòng, mà chẳng thấy cái cổng nào cả. Những con phố lát đá đầy nhóc người qua lại và hầu hết đều trông như đang rất vội. Cái chợ to đùng gần đầu phố Cổng Thầy Dòng ngày hôm ấy không bán buôn gì cả, nhưng vài khách hàng vẫn chen nhau mặc cả với những người buôn hàng để tranh giá hời. Mùi cá tanh nồng nặc khắp nơi và một đàn hải âu đói mồi đang quang quác trên cao.
Cứ một lúc tôi lại nhìn thấy một dáng người mặc áo thụng đen, thế là tôi phải đổi hướng đi hoặc băng qua bên kia đường. Thật khó mà tin được rằng có thị trấn nào lại chứa được nhiều cha xứ đến vậy.
Kế đến, tôi đi xuống đồi Fishergate cho đến khi trông thấy dòng sông ở phía xa, rồi lại đi ngược vòng lên trở lại. Rốt cuộc tôi đã đi hết một vòng tròn mà chẳng được tích sự gì. Tôi không thể hỏi đại ai đấy chỉ cho mình đường đến một nhà trọ mang tên không dính líu đến nhà thờ bởi vì họ sẽ nghĩ là tôi khùng mất. Điều cuối cùng tôi muốn là lôi kéo sự chú ý của người khác. Dù rằng việc tôi đang mang chiếc túi da màu đen nặng nề của Thầy Trừ Tà bên tay phải cũng đủ khiến người ta tò mò liếc về phía tôi lắm lần.
Cuối cùng, mãi đến khi trời xẩm tối, tôi mới tìm thấy một nơi để trọ không quá xa nhà thờ lớn, nơi tôi khởi sự tìm kiếm. Đấy là một nhà trọ nhỏ bé mang tên Bò Đen.
Trước khi trở thành chân học việc cho Thầy Trừ Tà, tôi chưa khi nào trọ tại quán trọ, cũng chẳng khi nào có lý do để đi lang thang xa khỏi nông trại của bố tôi cả. Từ khi làm chân học việc rồi thì tôi nghỉ đêm tại nhà trọ có lẽ cũng được một tá lần. Lẽ ra là còn nhiều hơn thế cơ, vì chúng tôi thường hay rong ruổi trên đường, nhiều khi một lần có đến cả vài ngày. Nhưng Thầy Trừ Tà thích tiết kiệm tiền, nên trừ phi là thời tiết xấu lắm, còn không thầy sẽ nghĩ là nghỉ qua đêm dưới tán cây hay trong kho chứa cỏ cũ kỹ cũng ổn lắm rồi. Tuy vậy, đây là nhà trọ đầu tiên mà tôi từng trú một mình, nên khi đẩy cửa bước vào trong, tôi cảm thấy hơi chút lo lắng.
Lối vào nhỏ hẹp dẫn đến một căn phòng rộng âm u chỉ được chiếu sáng bằng mỗi một ngọn đèn lồng. Căn phòng chứa đầy bàn ghế với một quầy bằng gỗ ở đầu kia căn phòng. Quầy xộc lên mùi giấm chua loét nhưng chẳng mấy chốc tôi nhận ra đó chỉ là mùi bia ôi ngấm vào mặt gỗ. Bên phải quầy có một chiếc chuông treo tòng teng trên đầu sợi dây thừng, thế là tôi giật dây chuông.
Ngay lập tức, một cánh cửa phía sau quầy bật mở và một ông hói đầu bước ra, vừa đi vừa chùi hai tay to bè lên chiếc tạp dề lớn dơ dáy.
“Cháu muốn mướn một phòng cho tối nay ạ,” vừa nói ra tôi lại nhanh chóng thêm vào, “cháu có thể phải ở lâu hơn nữa đấy.”
Ông ta nhìn tôi như thể tôi là thứ gì đó vừa mới được ông ta tìm thấy dưới đế giày mình, nhưng khi tôi lấy đồng bạc ra và đặt lên quầy, vẻ mặt ông ta trở nên vui vẻ hơn hẳn.
“Sao cậu chủ, cậu có muốn dùng bữa tối luôn không?” ông ta hỏi.
Tôi lắc đầu. Đằng nào tôi cũng phải nhịn đói, nhưng chỉ liếc một cái qua tạp dề vấy bẩn của ông ta là tôi đã mất hết hứng ăn uống.
Năm phút sau, tôi đã ở trong phòng mình với cánh cửa khóa chặt. Chiếc giường trông đến ghê còn chăn gối lại cáu bẩn. Tôi biết nếu là Thầy Trừ Tà thì hẳn thầy đã kêu ca rồi, nhưng tôi chỉ muốn ngủ thôi và ngủ ở đây vẫn còn tốt hơn ngủ trong kho chứa cỏ thông thốc gió. Thế nhưng, khi đưa mắt nhìn ra cửa sổ, tôi lại thấy nhớ Chipenden da diết.
Thay cho lối đi sỏi trắng băng qua vạt cỏ xanh rì dẫn đến khu vườn phía Tây và quang cảnh mỏm Parlick cùng những rặng đồi đá khác mà tôi thường nhìn ra, ở đây tất cả những gì tôi có thể trông thấy là một dãy nhà ám bụi phía đối diện, mỗi căn nhà có một ống khói nhả khói đen cuồn cuộn xuống phố.
Thế là tôi nằm trên giường, tay vẫn nắm chặt quai túi của Thầy Trừ Tà, rồi nhanh chóng đi vào giấc ngủ.
Vừa chớm sau tám giờ sáng hôm sau thì tôi thẳng tiến đến nhà thờ lớn. Tôi đã để chiếc túi được khóa cất lại trong phòng mình, bởi lẽ nếu đem nó đến dự tang lễ hẳn sẽ trông kỳ cục lắm. Tôi có hơi bứt rứt vì phải để túi lại nhà trọ, nhưng cả túi ấy lẫn cửa phòng tôi đều có khóa, và cả hai chiếc chìa giờ đang an toàn yên vị trong túi tôi đây. Tôi cũng mang theo cả chiếc chìa khóa thứ ba nữa.
Thầy Trừ Tà đã trao cho tôi chiếc chìa khóa ấy khi tôi đến Horshaw xử lý kẹ xé xác. Chiếc chìa này được một người anh khác của thầy, là bác thợ khóa Andrew, làm ra, và nó có thể mở được hầu như mọi ổ khóa với điều kiện là ổ khóa đó không phức tạp gì cho lắm. Lẽ ra tôi phải trả chìa lại nhưng tôi biết Thầy Trừ Tà có nhiều hơn một chiếc, và vì thầy cũng chẳng hỏi đến, nên tôi giữ nó luôn. Đây là thứ rất có ích, cũng giống như hộp nhóm lửa be bé mà bố tôi cho tôi khi mới bắt đầu tập sự. Tôi cũng luôn mang theo chiếc hộp ấy trong túi. Hộp nhóm lửa này trước đây thuộc về ông nội tôi và là của gia truyền, nhưng nó cũng là thứ rất hữu ích cho những ai theo nghiệp của Thầy Trừ Tà.
Chẳng bao lâu sau tôi đã leo ngược lên đồi, chếch bên tay trái tôi là gác chuông. Hôm ấy là một buổi sáng lướt thướt, mưa lâm râm quất thẳng vào mặt tôi, mà tôi đã nói đúng về gác chuông rồi ấy nhé. Ít nhất phải có đến một phần ba phần chóp trên của gác chuông chìm trong những đám mây xám đen đang cuồn cuộn kéo về từ phía Tây Nam. Trong không khí còn có cả mùi cống thối, và mỗi căn nhà đều có một ống khói ngun ngút, mà khói chủ yếu là tìm đường sà xuống ngang phố.
Rất nhiều người dường như đang hối hả đi ngược lên đồi. Một người phụ nữ gần như chạy vượt qua tôi, kéo theo hai đứa con và bắt chúng đi nhanh hết mức. “Nào! Nhanh lên nào!” bà ta quát. “Chúng ta sẽ bỏ lỡ mất thôi.”
Trong một đỗi, tôi cứ tưởng phải chăng ba mẹ con nọ cũng đi đến dự lễ tang, nhưng hình như là không phải thế bởi gương mặt của họ tràn đầy phấn khích. Lên đến ngay đỉnh thì ngọn đồi bằng phẳng ra và tôi rẽ trái sang phía nhà thờ lớn. Tại đây, một đám đông háo hức đang xếp dọc hai bên đường, như thể họ đang chờ xem gì đấy. Đám người này làm nghẽn cả lề đường, làm tôi phải vất vả len qua hết mức cẩn thận. Tôi phải luôn mồm xin lỗi, chật vật tránh không giẫm lên chân ai, nhưng dần dà đám đông ken cứng lại khiến tôi phải dừng bước và chờ đợi cùng họ.
Tôi chẳng phải chờ lâu. Đột nhiên tiếng hò reo cổ vũ bừng lên từ phía bên phải. Tôi nghe thấy tiếng vó ngựa lộc cộc tiến lại từ đằng trước họ. Một đám rước lớn đang tiến vào nhà thờ lớn, hai kỵ sĩ đầu tiên vận áo choàng, mũ đen và đeo kiếm ngang hông. Phía sau họ là thêm nhiều kỵ sĩ nữa, những người này được trang bị dao găm và dùi cui, mười, hai mươi, năm mươi, cho đến khi sau chót xuất hiện một người đàn ông cưỡi trên lưng con bạch mã khổng lồ.
Người đàn ông này cũng vận áo choàng đen, nhưng lấp ló nơi phần cổ và cổ tay bên dưới lớp áo choàng là tấm áo giáp sắt đắt tiền, còn chuôi thanh kiếm đeo ngang hông ông ta lại được khảm toàn hồng ngọc. Đôi ủng của ông ta làm bằng loại da thượng hạng và chắc chắn đáng giá hơn số tiền một anh nông dân kiếm được trong cả năm.
Phục trang và phụ kiện của người đàn ông này cho thấy ông ta là người đứng đầu, nhưng dù ông ta có mặc toàn giẻ rách đi chăng nữa, thì việc ông ta là chỉ huy cũng chẳng lẫn vào đâu được. Tóc ông ta vàng óng, xõa đong đưa bên dưới chiếc mũ đỏ rộng vành, và đôi mắt màu biếc xanh đến mức sắc trời hạ cũng phải thẹn thùng kém xa. Tôi bị gương mặt của ông ta mê hoặc. Gương mặt ấy điển trai đến mức phi phàm, nhưng lại cũng cương nghị nữa, với cằm vươn ra và vầng trán cương nghị. Thế rồi tôi nhìn lại lần nữa vào đôi mắt xanh kia và nhận thấy vẻ tàn bạo lóe ra từ đấy.
Ông ta làm tôi nhớ đến một hiệp sĩ từng đi ngang qua nông trại của chúng tôi, khi tôi còn là cậu bé con. Tay hiệp sĩ ấy thậm chí còn không liếc qua nông trại nhà tôi lấy một lần. Trong mắt ông ta, chúng tôi chẳng hề tồn tại. Ừ thì, dẫu sao đấy cũng là điều mà bố tôi hay bảo. Bố cũng nói rằng tay hiệp sĩ ấy là giới quý tộc, rằng chỉ nhìn qua ông ta là bố cũng đủ biết ông ta thuộc dòng dõi gia đình mà tổ tiên truyền đời qua hàng thế hệ đều uy quyền và giàu có.
Nói ra từ “quý tộc” xong, bố tôi nhổ toẹt một bãi xuống bùn và bảo rằng tôi rất may mắn được làm anh nông dân với một ngày làm việc chân chất trước mặt.
Người đàn ông đang cưỡi ngựa đi qua Priestown này rõ ràng là người quý tộc mang đầy vẻ ngạo mạn và quyền uy ngời ngời trên mặt. Tôi choáng váng lẫn thất kinh nhận ra rằng mình phải đang nhìn vào tên Phán Quan, vì lẽ đằng sau hắn là hai con ngựa thồ kéo một cỗ xe không mui và trên đấy là nhiều người đang bị trói đứng vào nhau bằng dây xích.
Những người ấy chủ yếu là phụ nữ nhưng cũng có vài ba người là đàn ông. Đa phần bọn họ đều trông như thể đã không được ăn uống tử tế trong một thời gian dài. Họ mặc quần áo cáu bẩn và nhiều người trong số họ rõ ràng đã bị đánh đập. Toàn thân họ bầm tím và thậm chí một người phụ nữ còn có mắt trái trông như quả cà chua thối. Vài phụ nữ khóc than trong tuyệt vọng, nước mắt đầm đìa hai má. Một người khác luôn miệng rít lên đến chói cả tai rằng bà ta vô tội. Nhưng chẳng ích gì. Tất cả bọn họ đều là tù nhân, rồi sẽ chóng bị đưa ra xét xử và thiêu sống.
Một phụ nữ trẻ tuổi đột nhiên phóng đến chỗ cỗ xe, với tay về phía nam tù nhân và cố hết sức đưa cho ông ta trái táo. Có lẽ cô ấy là người thân của tù nhân này – biết đâu là con gái cũng nên.
Thật kinh khủng làm sao, tên Phán Quan lạnh lùng quay đầu ngựa giẫm lên cô ấy. Mới thoắt trước cô ấy còn đang cầm trái táo; vậy mà thoắt sau cô đã nằm bẹp xuống mặt đường rống lên đau đớn. Tôi nhìn thấy vẻ tàn nhẫn trên gương mặt hắn ta. Hắn rất lấy làm thích thú được đả thương cô gái nọ. Khi cỗ xe được áp giải hai bên là những kỵ sĩ trang bị vũ khí còn nhiều hơn nữa lăn bánh qua, đám đông reo hò rú lên những lời thóa mạ và gào lên thành tiếng “Thiêu hết chúng đi!”
Đúng lúc ấy, tôi trông thấy một cô gái bị xích giữa những người khác. Cô tầm ngang tuổi tôi và hai mắt đang mở to hoảng sợ. Mái tóc đen của cô rũ bệt xuống trán vì nước mưa, lúc này đang từ mũi và cằm cô gái nhỏ xuống như nước mắt. Tôi nhìn qua chiếc váy đen cô đang mặc, rồi liếc xuống đến đôi giày mũi nhọn của cô, mà trong đầu không thể tin được mình đang trông thấy điều gì.
Đấy là Alice. Và cô là một tù nhân của tên Phán Quan.