CHƯƠNG 5 ĐÁM MA
Những gì vừa chứng kiến làm đầu óc tôi quay mòng mòng. Cũng đã nhiều tháng rồi kể từ lần cuối tôi gặp Alice. Dì của cô gái, mụ Lizzie Xương Xẩu, là mụ phù thủy mà tôi và Thầy Trừ Tà đã phải đối phó, nhưng còn Alice, không giống như những người còn lại trong gia đình mình, cô không hẳn là xấu xa gì. Thực ra có lẽ Alice là người duy nhất tôi từng thân gần như đến mức là bạn, và cũng nhờ cô ấy mà tôi tiêu diệt được Mẹ Malkin – mụ phù thủy độc ác nhất trong toàn Hạt.
Không, Alice chỉ là bị nuôi lớn giữa những người xấu thôi. Tôi không thể để cho cô ấy bị thiêu sống như phù thủy được. Làm thế nào đó tôi phải tìm cách giải cứu Alice, nhưng trong thời khắc ấy tôi chẳng biết nên làm thế nào. Tôi quyết định là ngay sau khi tang lễ kết thúc, tôi phải thử thuyết phục Thầy Trừ Tà giúp đỡ xem sao.
Rồi lại còn thêm tên Phán Quan nữa chứ. Thật kinh khủng làm sao khi chuyến viếng thăm của thầy trò chúng tôi đến Priestown lại trùng với lúc hắn đến. Thầy Trừ Tà và tôi đang trong tình thế nguy hiểm nghiêm trọng. Chắc chắn là giờ thầy tôi sẽ không thể ở lại đây sau đám tang. Một phần lớn trong tôi hy vọng rằng thầy sẽ ra về ngay và không phải đối mặt với Quỷ Độc. Nhưng tôi lại không thể để mặc cho Alice chết.
Khi cỗ xe đã đi qua, đám đông nhào tới trước và bắt đầu đi theo đám rước của tên Phán Quan. Vì bị kẹt cứng trong ấy nên tôi chẳng còn lựa chọn nào khác hơn là di chuyển theo họ. Cỗ xe tiếp tục đi qua nhà thờ lớn và dừng lại trước một căn nhà ba tầng to lớn với nhiều cửa sổ có chấn song. Tôi đoán đấy là nơi cư ngụ của linh mục chánh xứ – nhà của các cha – và các tù nhân sẽ bị đem vào đấy xét xử. Tù nhân được giải xuống khỏi cỗ xe và kéo vào trong nhưng tôi lại ở xa quá nên không nhìn rõ Alice được. Hiện tại tôi không thể làm gì, nhưng tôi phải nhanh nhanh nghĩ ra điều gì đấy trước vụ hỏa thiêu, mà vụ này sẽ diễn ra chóng lắm đây.
Tôi buồn bã quay lưng bỏ đi, chen lấn xô đẩy qua đám đông cho đến khi đến được nhà thờ lớn tổ chức tang lễ cho Cha Gregory. Tòa nhà có những cột trụ thật to và những cửa sổ kính màu nhọn đầu cao cao. Bất chợt, nhớ lại lời Thầy Trừ Tà từng bảo mình, tôi ngước nhìn lên tượng đá hình đầu thú vĩ đại bên trên lối vào điện chính.
Đấy là tượng biểu trưng cho hình dạng nguyên thủy của Quỷ Độc, hình dạng mà hắn đang cố gắng dần dần biến đổi trở lại khi hắn ngày một lớn mạnh hơn bên dưới khu hầm mộ kia. Thân thể phủ đầy những vảy với mớ cơ bắp u cộm căng cứng ấy đang khum khum mình, các móng vuốt sắc nhọn đang quặp cứng lấy thanh xà cửa bằng đá. Hắn trông như thể đang chực chờ vồ xuống.
Bao lâu nay tôi đã từng nhìn thấy nhiều thứ kinh khiếp, nhưng tôi chưa từng trông thấy bất cứ thứ gì xấu xí hơn cái đầu to cộ kia. Một chiếc cằm thòi ra từ cái đầu ấy cong vểnh lên, gần như chạm đến chiếc mũi dài sọc của hắn, và đôi mắt quỷ quyệt nọ dường như dõi nhìn theo tôi khi tôi bước về phía hắn. Hai tai hắn cũng kỳ quặc nữa, nếu gắn lên mình một con chó to hay thậm chí là chó sói thì trông vẫn không chướng mắt lắm. Đây không phải thứ để đối mặt trong bóng tối của hầm mộ chút nào!
Trước khi bước vào, tôi tuyệt vọng liếc nhìn lần nữa về phía nhà dòng, bụng thắc mắc không biết có chút hy vọng nào để giải cứu Alice hay không đây.
Tòa nhà gần như chẳng có ai nên tôi tìm lấy một chỗ ngồi ở phía sau. Gần cạnh tôi, đôi ba bà lão đang quỳ gối gục đầu cầu nguyện, trong khi một cậu lễ sinh đang bận bịu thắp nến.
Tôi có khối thời gian nhìn quanh quất. Bên trong nhà thờ lớn dường như rộng lớn hơn, với mái cao và những rầm gỗ to tướng; thậm chí một cái ho húng hắng có vẻ sẽ vang dội mãi thôi. Trong này có ba lối đi giữa các hàng ghế – lối đi chính giữa, là lối dẫn thẳng đến bậc thang đi lên điện thờ, rộng đến mức có thể đủ lối đi cho cỗ xe cùng ngựa kéo. Nhà thờ lớn này đúng là xa hoa thật: mỗi một bức tượng trong tầm mắt đều được mạ vàng, ngay cả các bức tường cũng được ốp cẩm thạch. Nơi đây hoàn toàn khác xa với ngôi nhà thờ bé xíu ở Horshaw mà anh trai của Thầy Trừ Tà đã cai quản.
Phía trước lối đi chính điện là cỗ quan tài của Cha Gregory vẫn còn để mở, mỗi góc quan tài là một ngọn nến. Cả đời tôi chưa bao giờ từng thấy những cây nến như thế này. Mỗi cây cắm trên một chân nến bằng đồng to tướng, cây nào cây nấy cao hơn đầu người.
Người ta bắt đầu lũ lượt kéo vào nhà thờ. Họ vào thành từng cặp hay từng người một, và cũng giống như tôi, họ chọn lấy hàng ghế ngồi gần phía sau. Tôi mãi dõi tìm Thầy Trừ Tà nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng thầy.
Tôi không thể không nhìn quanh tìm bằng chứng hiện diện của Quỷ Độc. Tôi chắc là chẳng cảm nhận được sự hiện diện của hắn đâu, nhưng có lẽ một kẻ mạnh đến thế hẳn có thể cảm nhận được tôi đang ở đây. Ngộ nhỡ lời người ta đồn lại đúng thì sao? Ngộ nhỡ hắn đúng là có sức mạnh để đội lốt người và đang ngồi trà trộn trong giáo đoàn này thì thế nào! Tôi bồn chồn nhìn quanh quất nhưng rồi lại thấy thoải mái hơn khi nhớ đến lời Thầy Trừ Tà. Quỷ Độc đang bị chèn sâu tít dưới hầm mộ, vậy nên giờ đây, chắc chắn là tôi được an toàn.
Mà có thật không đây? Trí óc của hắn rất mạnh, thầy tôi đã bảo thế, và hắn có thể vươn đến nhà của các cha hay đến nhà thờ lớn để chi phối hay làm băng hoại các cha xứ. Biết đâu ngay lúc này đây hắn đang cố chui vào đầu tôi ấy chứ!
Tôi ngước lên, lòng hoảng kinh, và bắt gặp ánh mắt của một người đang quay lại chỗ ngồi sau khi đến viếng Cha Gregory lần cuối. Ngay lập tức, tôi nhận ra đó là bà quản gia của ông ấy và cùng lúc đấy bà ta cũng nhận ra tôi. Bà ta dừng lại ngay đầu dãy ghế của tôi.
“Sao cậu lại đến trễ thế?” bà ta căn vặn tôi bằng giọng thì thào rõ to. “Nếu lúc ấy cậu đến ngay sau khi tôi cho gọi cậu thì hẳn hôm nay ông ấy vẫn còn sống.”
“Cháu đã làm hết sức rồi,” tôi đáp, cố không lôi kéo người ta chú ý đến hai chúng tôi.
“Vậy thì có làm hết sức của mấy người cũng không được ích gì lắm, phải không nào?” bà ta hỏi. “Ngài Phán Quan đã nói đúng về lũ các người, các người chỉ toàn đem lại rắc rối và đáng phải nhận những gì sẽ xảy đến cho các người.”
Vừa nghe nhắc đến tên Phán Quan tôi đã giật thót, nhưng nhiều người khác bắt đầu kéo vào, tất cả đều mặc áo thụng đen và áo choàng. Các cha xứ – hàng tá hàng tá cha! Tôi chưa khi nào nghĩ mình sẽ trông thấy nhiều cha xứ cùng một lúc đến vậy. Cứ như thể giới tăng lữ trên toàn thế giới này đã tựu về dự đám ma của Cha Gregory già cả. Nhưng tôi biết là không phải thế và họ chỉ là những cha xứ sống ở Priestown mà thôi – và có lẽ thêm vài cha từ những làng quê và thị trấn lân cận. Bà quản gia chẳng nói thêm gì và vội vã trở lại hàng ghế của mình.
Đến lúc này thì tôi sợ thực sự. Tôi đang ở đây, ngồi trong thánh đường, ngay bên trên khu hầm mộ là nhà của thứ đáng sợ nhất trong toàn Hạt, vào cùng thời điểm mà tên Phán Quan ghé qua – và tôi đã bị nhận diện. Tôi tuyệt vọng những muốn rời khỏi nơi này càng xa càng tốt và thấp thỏm nhìn quanh tìm bóng dáng thầy mình, nhưng chẳng thấy thầy đâu. Ngay khi tôi vừa định chắc phải bỏ đi thôi, bỗng nhiên những cánh cửa lớn của nhà thờ bị đẩy tung ra rồi một đoàn dài những người diễu qua tiến vào. Chẳng còn lối thoát.
Thoạt tiên, tôi nghĩ người đàn ông đi đầu là tên Phán Quan vì ông ta có những nét tương tự. Nhưng người này trông lớn tuổi hơn và tôi nhớ ra Thầy Trừ Tà từng nói tên Phán Quan có người chú là giám mục của Priestown; thế hẳn là ông này rồi.
Tang lễ bắt đầu. Lời hát cất lên mải miết và chúng tôi phải đứng lên, ngồi xuống và quỳ liên miên. Vừa vào một vị trí chưa ấm chỗ thì chúng tôi đã phải thay đổi vị trí tiếp. Nếu như tang lễ được cử hành bằng tiếng Hy Lạp, hẳn tôi còn hiểu thêm được chút ít những gì đang diễn ra, vì mẹ tôi đã dạy cho tôi ngôn ngữ ấy từ khi tôi còn nhỏ. Nhưng phần lớn tang lễ của Cha Gregory là bằng tiếng La Tinh. Tôi chỉ hiểu lõm bõm đôi chút nhưng thế lại khiến tôi nhận ra mình phải chuyên cần học hỏi hơn.
Ngài giám mục nói về việc Cha Gregory đang ở trên thiên đàng, rằng cha ấy xứng đáng được lên trên đấy sau mọi việc tốt mà cha đã làm. Tôi hơi ngạc nhiên khi ông giám mục không đề cập đến việc Cha Gregory qua đời như thế nào, nhưng tôi nghĩ là mấy cha xứ này muốn giữ im mọi chuyện. Chắc là họ chẳng muốn thừa nhận trò đuổi ma của Cha đã thất bại.
Rốt cuộc, sau gần một tiếng đồng hồ, lễ tang chấm dứt và đoàn người rời khỏi nhà thờ, lần này có sáu cha xứ khiêng theo quan tài. Bốn cha xứ cao lớn đang mang những chân nến là những người phải khiêng nặng hơn vì họ đang loạng choạng bước đi. Chỉ đến khi viên cha xứ cuối cùng đi qua, ông này đang đi sau quan tài, tôi mới chú ý đến chân nến to tướng bằng đồng hình tam giác.
Cả ba mặt của chân nến ấy, mỗi mặt đều mang hình đại diện sống động của bức tượng hình đầu thú xấu xí mà lúc nãy tôi trông thấy bên trên cánh cửa thánh đường. Và dù có lẽ là do ánh nến lập lòe gây ra, một lần nữa những con mắt của đầu tượng này hình như lại dõi theo tôi khi viên cha xứ chầm chậm mang chân nến đi ngang qua.
Tất cả các cha xứ nối đuôi nhau hòa vào đám rước và phần lớn những người đang ngồi phía cuối nhà thờ lớn cũng lần lượt đi theo, riêng tôi thì nán lại khá lâu bên trong nhà thờ lớn, những muốn tránh mặt bà quản gia.
Tôi đang băn khoăn không biết mình nên làm gì đây. Nãy giờ tôi chẳng hề nhìn thấy bóng dáng Thầy Trừ Tà và cũng không rõ thầy đang trú tại đâu hay làm cách nào mà tôi có thể hội ngộ cùng thầy. Tôi cần phải cảnh báo thầy về tên Phán Quan – rồi giờ còn thêm bà quản gia nữa chứ.
Bên ngoài nhà thờ lớn, trời đã thôi mưa và khoảng sân phía trước nhà thờ tịnh không một bóng người. Liếc mắt sang phải, tôi chỉ có thể trông thấy phần đuôi của đám rước quành ra biến mất vào phía sau nhà thờ lớn, chắc hẳn nghĩa địa phải là ở phía ấy.
Tôi quyết định đi theo hướng ngược lại, qua lối cổng chính để ra ngoài phố, nhưng bỗng tôi chết lặng vì ngạc nhiên. Phía bên kia đường là hai người đang cãi nhau quyết liệt. Chính xác hơn thì, phần lớn vẻ quyết liệt đến từ phía một cha xứ mặt đỏ gay giận dữ với một bàn tay băng bó. Người còn lại là Thầy Trừ Tà.
Có vẻ như cả hai người đồng thời để ý thấy tôi. Thầy Trừ Tà ngoắc ngón cái, ra hiệu cho tôi phải rời đi ngay. Tôi làm theo, và thầy đi theo tôi, nhưng lại bước dọc theo phía bên kia đường.
Viên cha xứ gọi với sau lưng thầy, “Hãy nghĩ kỹ đi, John, trước khi quá muộn!”
Tôi cả gan liếc lại ra sau và thấy viên cha xứ không đi theo chúng tôi nhưng lại có vẻ như đang nhìn trừng trừng vào tôi. Cũng không chắc chắn lắm, nhưng tôi nghĩ ông ta đang bỗng nhiên chú ý đến tôi nhiều hơn là đến Thầy Trừ Tà.
Thầy trò chúng tôi đi xuống đồi một đỗi lâu rồi mặt đất mới trở nên bằng phẳng. Lúc đầu xung quanh chẳng có bao nhiêu người, nhưng rồi chẳng mấy chốc các con phố bắt đầu hẹp lại và đông đúc hơn, và sau vài lần đổi hướng, chúng tôi đi đến khu chợ có nền lát đá. Đấy là một quảng trường rộng lớn nhộn nhịp, ken đầy các gian hàng được dựng lên từ những khung gỗ và lợp trên ấy là mái che chống thấm xam xám. Tôi theo chân Thầy Trừ Tà đi vào đám đông, có đôi lúc đi rất sát. Tôi còn làm gì khác được chứ? Ở trong một nơi như thế này thì hẳn sẽ rất dễ mất dấu thầy ngay.
Ven rìa phía Bắc của khu chợ là một quán rượu khá lớn, bên ngoài là những băng ghế không người ngồi, và Thầy Trừ Tà đi xăm xăm thẳng đến hướng ấy. Thoạt tiên tôi nghĩ chắc thầy sẽ vào trong quán ấy và lòng thắc mắc không biết liệu chúng tôi sẽ mua đồ ăn trưa chăng. Nếu thầy quyết định phải ra về ngay vì tên Phán Quan đang ở đây thì sẽ chẳng cần phải nhịn đói làm gì nữa. Nhưng thay vì đi vào quán, thầy lại rẽ sang một ngõ cụt rải đá cuội, dẫn tôi đến một bức tường đá thâm thấp và đưa tay áo chùi sạch phần gờ tường gần mình nhất. Khi đã chùi gần hết mấy giọt nước trên ấy, thầy ngồi xuống và phẩy tay ra hiệu cho tôi làm theo.
Tôi ngồi xuống và nhìn quanh. Con hẻm trống trơn và các bức tường của những nhà kho xung quanh bao bọc chúng tôi từ cả ba phía. Cũng có vài cửa sổ nhưng tất cả đều nứt vỡ và bám đầy bụi bẩn, vậy nên chí ít là chúng tôi đang ở ngoài tầm ngắm của những con mắt tò mò tọc mạch.
Đi bộ nãy giờ làm Thầy Trừ Tà hụt cả hơi nên tôi có cơ hội mở lời trước.
“Tên Phán Quan đang ở đây,” tôi bảo thầy.
Thầy Trừ Tà gật đầu. “Biết rồi anh bạn, đúng là hắn đang ở đây. Lúc ấy ta đang đứng phía bên kia đường đối diện con, nhưng con lại mải trố mắt nhìn cỗ xe nên đã không trông thấy ta.”
“Nhưng thầy không nhìn thấy cô ấy à? Alice ở trên cỗ xe ấy...”
“Alice à? Alice nào thế?”
“Cháu gái của Lizzie Xương Xẩu ấy ạ. Chúng ta phải giúp cô ấy...”
Như trước đây tôi từng đề cập đến, Lizzie Xương Xẩu là mụ phù thủy mà thầy trò tôi đã đối phó vào mùa xuân rồi. Giờ đây Thầy Trừ Tà đang giam mụ ấy dưới hố, trong vườn nhà thầy ở Chipenden.
“Ồ, con bé Alice ấy đấy à. Này, tốt nhất con nên quên con bé ấy đi, anh bạn, bởi vì chẳng thể làm gì được cả. Tên Phán Quan có trong tay ít nhất là năm mươi tên bộ hạ trang bị khí giới đấy.”
“Nhưng như thế thì không công bằng,” tôi đáp trả, bụng chẳng thể tin là thầy có thể bình tĩnh đến thế. “Alice nào phải là phù thủy.”
“Cuộc đời này có mấy khi công bằng đâu,” Thầy Trừ Tà đáp. “Sự thật là, chẳng ai trong số ấy là phù thủy cả. Con thừa biết rồi đấy thôi, một phù thủy thực thụ sẽ đánh hơi ra tên Phán Quan đang đến gần từ khoảng cách hàng bao nhiêu dặm ấy chứ.”
“Nhưng Alice là bạn của con. Con không thể để mặc cho cô ấy chết được!” Tôi phản đối, cảm nhận được cơn nóng giận đang bùng lên trong lòng.
“Đây không phải lúc để tình cảm sướt mướt đâu nhé. Công việc của chúng ta là bảo vệ người dân khỏi thế lực bóng tối, chứ không phải là để cho những cô gái xinh đẹp làm xao lãng.”
Tôi giận điên người – nhất là khi tôi biết chính Thầy Trừ Tà cũng từng bị một cô gái xinh đẹp làm cho xao lãng – mà cô gái ấy lại là phù thủy cơ đấy. “Alice đã giúp cứu gia đình con thoát khỏi Mẹ Già Malkin, thầy không nhớ sao?”
“Và trước hết vì sao Mẹ Malkin lại được tự do nào, sao hả anh bạn, trả lời ta đi chứ!”
Tôi gục đầu xấu hổ.
“Là bởi vì con lằng nhằng với con bé ấy,” thầy nói tiếp, “và ta không muốn chuyện ấy lại tái diễn. Nhất là ở Priestown này lại càng không, đương lúc tên Phán Quan đang đe dọa chúng ta sát nút thế này. Con sẽ đặt mạng mình vào vòng nguy hiểm – và cả mạng của ta nữa. Mà này, nói nhỏ giọng lại chứ. Chúng ta không cần lôi kéo bất cứ sự chú ý không mong muốn nào đâu.”
Tôi nhìn quanh. Ngoại trừ hai thầy trò tôi ra, con hẻm hoàn toàn vắng bóng người. Cũng có vài ba người đi qua đầu hẻm đấy, nhưng họ ở cách khá xa và cũng chẳng buồn liếc về phía chúng tôi làm gì. Xa xa đằng sau họ, tôi có thể trông thấy những mái nhà phía bên kia quảng trường chợ phiên, và vươn cao lên khỏi những ống khói, là gác chuông của nhà thờ lớn. Nhưng khi mở miệng tiếp, tôi vẫn hạ thấp giọng xuống.
“Mà tên Phán Quan đang làm gì ở đây vậy chứ?” tôi hỏi. “Chẳng phải thầy đã nói hắn chỉ hoạt động ở miệt phía Nam và chỉ lên phương Bắc này khi hắn được triệu đến hay sao?”
“Chủ yếu là thế, nhưng thỉnh thoảng hắn tiến hành một cuộc viễn chinh lên phương Bắc đến tận Hạt hay còn xa hơn thế nữa. Hóa ra trong mấy tuần lễ rồi hắn đã đi càn quét qua vùng duyên hải, thu gom đám người cặn bã đáng thương bị xích trên cỗ xe kia.”
Tôi bực bội vì thầy cứ gọi Alice là một trong những người cặn bã, trong khi tôi biết không phải như thế. Nhưng đây không phải lúc tiếp tục tranh cãi làm gì, nên tôi cố giữ hòa khí.
“Nhưng ở Chipenden chúng ta khá được an toàn,” Thầy Trừ Tà nói tiếp. “Hắn chưa bao giờ phiêu lưu lên phía rặng đồi đá cả.”
“Thế bây giờ chúng ta sẽ về nhà chứ ạ?” tôi hỏi.
“Không đâu anh bạn, chưa đâu. Lúc trước ta đã bảo con rồi đấy thôi, ta còn những việc chưa hoàn tất ở thị trấn này.”
Tim tôi chùng xuống và tôi lo lắng nhìn ra đầu ngõ. Người ta vẫn qua qua lại lại lo làm chuyện của họ, và tôi có thể nghe thấy những ông chủ gian hàng rao giá hàng hóa của mình. Nhưng mặc cho chung quanh đầy tiếng ồn ào huyên náo, phúc thay là thầy trò chúng tôi đang ở khuất mắt mọi người. Dù thế, tôi vẫn cảm thấy bồn chồn không yên. Đáng lẽ chúng tôi phải ở cách xa nhau. Vị cha xứ bên ngoài nhà thờ lớn lúc nãy quen biết Thầy Trừ Tà. Bà quản gia lại biết mặt tôi. Thế lỡ may có ai đó khác đi vào ngõ hẻm này rồi nhận ra chúng tôi và cả hai thầy trò đều bị bắt thì thế nào? Nhiều cha xứ trong các giáo xứ quanh Hạt chắc là đang có mặt ở đây và họ sẽ nhận ra Thầy Trừ Tà ngay. Điều an tâm duy nhất là vào lúc này, chắc tất cả bọn họ vẫn còn đang ở trong sân nhà thờ.
“Cha xứ lúc nãy thầy đang nói chuyện cùng ấy ạ, ông ta là ai thế? Dường như ông ta có biết thầy nên liệu ông ta có đi mách với tên Phán Quan là thầy đang ở đây không?” Tôi vừa hỏi vừa thắc mắc không biết có nơi nào còn là nơi thực sự an toàn không nữa. Tôi chỉ biết là tay cha xứ mặt đỏ gay bên ngoài nhà thờ lớn kia thậm chí có thể dẫn tên Phán Quan đến thẳng Chipenden ấy chứ chẳng chơi. “À, còn chuyện này nữa thầy ạ. Bà quản gia của anh trai thầy đã nhận ra con trong buổi tang lễ. Bà ta rất tức giận. Có lẽ bà ấy sẽ bảo cho ai đấy biết là chúng ta đang ở đây.”
Tôi thấy hình như thầy trò chúng tôi đang vô cùng mạo hiểm khi ở lại thị trấn Priestown trong lúc tên Phán Quan cũng đang lảng vảng quanh đây.
“Bình tĩnh lại đi anh bạn. Bà quản gia sẽ chẳng nói cho ai biết cả. Bản thân bà ta và anh trai ta chẳng phải là không có tội lỗi gì đâu. Còn về tay cha xứ kia à,” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa thoáng cười nhẹ, “đấy là Cha Cairns. Ông ta là người trong gia đình, là anh họ của ta. Một người anh họ thích nhúng mũi vào chuyện người khác và đôi lúc hăng hái quá mức, nhưng nói cho cùng ông ta chỉ có ý tốt thôi. Ông ta luôn cố cứu rỗi lấy ta để đưa ta về lại con đường ‘chính đạo’. Nhưng ông ta chỉ tốn hơi vô ích. Ta đã chọn lấy con đường cho chính ta – và dù có đúng hay sai thì đấy vẫn là con đường ta tiến bước.”
Đúng lúc ấy, tôi nghe thấy tiếng bước chân và tim tôi chỉ muốn thót lên cổ. Có ai đó đã quành vào ngõ hẻm và đang bước thẳng đến chỗ chúng tôi!
“Mà thôi, nói đến gia đình,” Thầy Trừ Tà nói với vẻ chẳng lấy gì làm quan ngại, “lại thêm một thành viên nữa đang đến đây này. Đây là anh trai Andrew của ta.”
Một người đàn ông dáng người dong dỏng mang khuôn mặt buồn rầu, xương xẩu, đang băng qua mặt hẻm trải đá cuội tiến về phía chúng tôi. Ông ấy trông còn lớn tuổi hơn Thầy Trừ Tà, gợi cho tôi nhớ đến một bù nhìn được ăn mặc đàng hoàng, vì dù mang đôi ủng da tốt và ăn mặc sạch sẽ, bộ quần áo trên người ông cứ bay phấp phới trong gió. Trông ông ấy cần phải được ăn sáng đầy đủ hơn cả tôi nữa.
Chẳng buồn chùi đi mấy giọt nước đọng, ông ấy ngồi xuống bờ tường đối diện với Thầy Trừ Tà.
“Tôi nghĩ sẽ tìm thấy chú ở đây. Chuyện buồn quá, chú ạ,” ông ấy rầu rĩ nói.
“Vâng,” Thầy Trừ Tà đáp. “Giờ chỉ còn sót lại hai anh em ta. Năm anh trai đã qua đời hết rồi.”
“John, tôi phải nói cho chú biết, tay Phán...”
“Vâng tôi biết,” Thầy Trừ Tà đáp với hơi hướm sốt ruột.
“Vậy thì chú phải rời khỏi đây thôi. Ở đây không an toàn cho cả hai người đâu,” ông Andrew vừa nói vừa gật đầu chào tôi.
“Không đâu Andrew, chúng tôi sẽ chẳng đi đâu cho đến khi tôi hoàn tất chuyện cần làm. Vậy nên tôi cần anh làm lại cho tôi chiếc chìa khóa đặc biệt kia,” Thầy Trừ Tà bảo với Andrew. “Để mở cánh cổng ấy.”
Ông Andrew giật nảy mình. “Không đâu John, đừng có điên,” ông vừa nói vừa lắc đầu quầy quậy. “Lẽ ra tôi sẽ không đi đến đây nếu tôi biết chú lại muốn có thứ ấy. Chú đã quên lời nguyền rồi sao?”
“Suỵt,” Thầy Trừ Tà vội ra hiệu. “Không được nhắc đến trước mặt thằng bé chứ. Mình anh ôm lấy cái trò mê tín nhảm nhí vớ vẩn ấy đi.”
“Lời nguyền ạ?” tôi thoắt nhiên thấy tò mò.
“Thấy anh đã làm nên nông nổi gì chưa hả?” thầy tôi giận dữ rít lên với ông anh trai. “Chẳng có gì đâu,” thầy quay sang tôi an ủi. “Ta không tin vào những thứ rác rưởi như thế và con cũng không nên tin làm gì.”
“Này, hôm nay tôi đã phải chôn cất một người anh trai của mình,” ông Andrew lên tiếng. “Đi về nhà ngay bây giờ đi, trước khi tôi lại phải chôn thêm một người nữa. Tên Phán Quan rất thích tóm được Thầy Trừ Tà của Hạt đấy. Hãy quay trở về Chipenden khi còn có thể đi nào.”
“Tôi sẽ không đi đâu, Andrew ạ, dứt khoát thế. Tôi có việc phải làm ở đây, có hay không có Phán Quan cũng thế,” Thầy Trừ Tà quả quyết nói. “Vậy anh có giúp hay là không đây?”
“Vấn đề không phải ở đấy, chú biết thế rồi còn gì!” Ông Andrew năn nỉ. “Trước đây tôi vẫn luôn giúp chú cơ mà, đúng không? Có khi nào tôi làm chú thất vọng chưa? Nhưng chuyện này hoàn toàn điên rồ. Chú đang liều lĩnh để rồi bị hỏa thiêu chỉ bằng việc nán lại đây thôi đấy. Giờ không phải lúc can dự vào cái thứ ấy đâu,” ông vừa nói vừa khoa tay về phía đầu ngõ và nhướn mắt nhìn ra gác chuông. “Với lại, hãy nghĩ cho thằng bé đi nào – chú không thể lôi nó vào chuyện này. Không phải lúc này. Vào mùa xuân, khi tay Phán Quan đã đi khỏi rồi thì hẵng quay lại đây và chúng ta sẽ bàn bạc tiếp. Còn giờ, chú có mà điên nếu còn cố làm chuyện gì. Chú không thể đương đầu với Quỷ Độc lẫn tay Phán Quan – chú không còn là chàng trai trẻ nữa, mà nhìn qua đã biết là chú chẳng phải khỏe khoắn gì đâu.”
Trong lúc hai người họ nói chuyện, tôi nhìn lên tháp chuông nhà thờ. Tôi ngờ rằng tháp chuông ấy được nhìn thấy từ mọi nơi và đứng trên ấy có thể quan sát được toàn cảnh thị trấn này rõ mồn một. Ngay gần trên đỉnh tháp chuông là bốn khung cửa sổ nhỏ, sát dưới chiếc thánh giá. Từ đấy ta có thể nhìn ra mọi nóc nhà trong thị trấn Priestown, nhìn gần khắp các con phố cùng nhiều người trên ấy, bao gồm cả chúng tôi.
Thầy Trừ Tà đã bảo tôi rằng Quỷ Độc có thể lợi dụng người ta, chui vào đầu rồi nhìn ra ngoài từ mắt họ. Tôi rùng mình, tự hỏi không biết hiện giờ một trong các cha xứ có đang ở trên đấy không, và Quỷ Độc đang lợi dụng ông ta để quan sát chúng tôi từ trong khoảng tối của đỉnh tháp chăng.
Nhưng Thầy Trừ Tà không thay đổi ý định gì cả. “Thôi đi nào Andrew, hãy nghĩ mà xem! Đã bao nhiêu lần anh bảo tôi rằng thế lực bóng tối đang ngày càng lớn mạnh trong thị trấn này rồi? Rằng những cha xứ đang ngày càng băng hoại, rằng người dân đang sợ hãi? Và hãy nghĩ đến những hai lần thuế thập phân và đất đai mà tên Phán Quan đang cướp bóc, cùng với những người phụ nữ và bé gái bị thiêu sống kia. Điều gì đã làm những cha xứ thay đổi và biến họ thành ra thối nát đến vậy? Thế lực kinh khủng nào đã khiến những người tốt đi gieo rắc bao nỗi bạo tàn hay khoanh tay đứng nhìn mặc cho những hành động tàn bạo hoành hành thế?
“Tại sao chứ, ngay ngày hôm nay, anh bạn đây đã phải chứng kiến bạn mình bị chất lên xe đưa vào chỗ chết chắc. Vâng, lỗi là ở Quỷ Độc, và Quỷ Độc phải được ngăn chặn ngay. Anh thực sự cho là tôi sẽ để những chuyện này diễn ra thêm nửa năm nữa ư? Đến khi đó sẽ có biết bao nhiêu người vô tội lại bị thiêu chết, sẽ bỏ mạng vào mùa đông này trong nghèo khổ, đói kém và lạnh giá nếu tôi không ra tay làm gì? Cả thị trấn đang tràn lan lời đồn về những cảnh tượng bên dưới hầm mộ. Nếu những lời đồn ấy là xác thực thì quả là quyền năng và uy lực của Quỷ Độc đang trở nên mạnh mẽ, hắn đang biến mình từ một linh hồn sang một sinh vật bằng xương bằng thịt. Chẳng mấy chốc hắn sẽ quay lại hình dạng ban đầu, hiện hình của linh hồn quỷ dữ đã từng đàn áp những Người Lùn trong bạo tàn. Và đến khi ấy tất cả chúng ta sẽ ở đâu nào? Khi ấy việc hắn khủng bố hay chiêu dụ một ai đó đến mở cổng ra sẽ dễ dàng đến dường nào cơ chứ? Không, việc này đã rành rành như ban ngày rồi. Tôi phải ra tay để giải thoát Priestown khỏi thế lực bóng tối, trước khi quyền năng của Quỷ Độc mạnh hơn thêm chút nào nữa. Vậy nên tôi lại hỏi anh đây này, một lần nữa nhé. Anh sẽ làm cho tôi chiếc chìa khóa ấy chứ?”
Trong một đỗi, anh trai của Thầy Trừ Tà vùi mặt vào hai bàn tay giống như một trong những bà lão lầm rầm cầu nguyện trong nhà thờ. Cuối cùng ông ấy cũng ngẩng lên và gật đầu. “Tôi vẫn còn giữ khuôn chìa khóa lần trước. Sáng sớm mai tôi sẽ giao chiếc chìa cho chú. Chắc là tôi còn điên hơn cả chú rồi,” ông Andrew nói.
“Vậy là tốt đấy,” Thầy Trừ Tà đáp. “Tôi biết anh sẽ không làm tôi thất vọng đâu mà. Tinh mơ ngày mai tôi sẽ ghé lấy.”
“Lần này tôi hy vọng chú biết mình sẽ phải làm gì khi chú xuống dưới đó đấy!”
Mặt Thầy Trừ Tà đỏ ửng vì giận. “Này anh trai, anh làm việc của anh đi, còn tôi lo chuyện của tôi!” thầy bảo.
Nghe đến đấy, ông Andrew đứng dậy, thở hắt ra rõ là chán chường, và bỏ đi mà không thèm liếc lại ra sau lấy một cái.
“Được rồi anh bạn,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, “con hãy ra về trước. Quay trở lại phòng con và ở yên đấy đến sáng hôm sau. Cửa hàng của Andrew nằm trên phố Cổng Thầy Dòng. Ta sẽ đến đấy lấy khóa và sẵn sàng gặp con khoảng hai mươi phút sau khi trời sáng. Sớm cỡ ấy thì sẽ không mấy người qua lại đâu. Con còn nhớ chỗ con đứng lúc trước khi tên Phán Quan đi ngang chứ?”
Tôi gật đầu.
“Hãy đứng ở góc đường gần đấy nhất đấy anh bạn. Đừng có đến muộn. Và nhớ là, chúng ta phải tiếp tục nhịn đói đấy. Ồ, thêm điều này nữa: đừng quên mang theo chiếc túi của ta. Ta nghĩ chúng ta hẳn phải cần đến nó.”
Trên đường trở về quán trọ đầu óc tôi quay cuồng. Tôi nên sợ điều gì nhất đây: một người đàn ông đầy quyền uy sẽ săn đuổi và thiêu sống tôi trên cây cọc chăng? Hay là một sinh vật đáng sợ đã từng đánh bại thầy tôi khi thầy đang ở tuổi sung mãn, và, qua đôi mắt của một cha xứ, có thể ngay lúc này hắn đang quan sát tôi từ những cửa sổ cao cao trên gác chuông kia?
Khi liếc mắt nhìn lên nhà thờ lớn, tôi bắt gặp một khoảng đen do chiếc áo thụng của một cha xứ gần bên tạo ra. Tôi đảo mắt sang để rồi trông thấy một cha xứ: Cha Cairns. May sao là lề đường đang đông nghẹt người và ông ta đang nhìn chăm chăm tới trước nên thậm chí còn không liếc cả sang phía tôi. Tôi nhẹ cả người, vì lỡ may ông ta nhìn thấy tôi ở đây, quá gần với nơi tôi trọ, thì hẳn ông ta chẳng cần phải suy nghĩ gì nhiều cũng đoán ra được là tôi đang ở đâu. Thầy Trừ Tà từng bảo Cha Cairns vô hại nhưng tôi không thể không nghĩ rằng càng ít người biết được chúng tôi là ai và đang trọ tại chỗ nào thì càng tốt. Nhưng sự nhẹ nhõm của tôi chỉ được một lúc cho đến khi tôi quay trở lại phòng mình và trông thấy một mẩu giấy đính trên cửa phòng.
Thomas,
Nếu con muốn cứu lấy mạng của thầy mình, hãy đến buổi xưng tội của ta tối nay vào lúc bảy giờ. Còn sau đấy thì mọi chuyện sẽ là quá muộn.
Cha Cairns
Tôi thấy lo đến phát ốm. Làm thế nào mà Cha Cairns biết được tôi đang ở đâu cơ chứ? Liệu có ai đó theo dõi tôi chăng? Là quản gia của Cha Gregory chăng? Hay là tay chủ quán trọ? Tôi đã chẳng thích cái vẻ bề ngoài của ông ta tí nào. Liệu có phải ông ta đã báo tin cho nhà thờ lớn không nhỉ? Hay là do Quỷ Độc? Phải chăng kẻ ấy biết được nhất cử nhất động của tôi rồi? Có phải chính hắn đã báo cho Cha Cairns biết nơi để tìm ra tôi không? Cho dù là đã xảy ra chuyện gì đi nữa, viên cha xứ ấy biết tôi đang ở đâu, và nếu ông ta mách cho tên Phán Quan biết thì hắn sẽ đến bắt tôi bất cứ lúc nào.
Tôi cuống cuồng mở cửa phòng ngủ ra rồi khóa cứng lại sau lưng. Đoạn tôi đóng hết các cánh cửa chớp, tuyệt vọng mong rằng sẽ tránh được mọi con mắt tò mò của Priestown. Tôi kiểm tra xem chiếc túi của Thầy Trừ Tà có còn tại nơi mình đã cất không rồi ngồi xuống giường, chẳng biết phải làm gì tiếp. Thầy Trừ Tà dặn tôi phải ở lì trong phòng cho đến sáng. Tôi biết thầy sẽ chẳng thích tôi đi đến gặp ông anh họ của mình đâu. Thầy đã bảo ông ta là một cha xứ nhiều chuyện. Liệu có phải ông ta lại xía vào chuyện người khác nữa không? Mặt khác thầy cũng bảo tôi rằng Cha Cairns chỉ có ý tốt. Nhưng ngộ nhỡ viên cha xứ này thực sự biết điều gì đó có khả năng đe dọa Thầy Trừ Tà thì sao? Nếu tôi ở lại trong phòng, có thể thầy tôi sẽ rơi vào tay tên Phán Quan mất. Tuy vậy, nếu đi đến nhà thờ lớn, thì rõ là tôi đang đi thẳng đến hang ổ của tên Phán Quan và tên Quỷ Độc! Tang lễ hồi sáng đã là quá nguy hiểm rồi. Liệu tôi có thể thử vận may mình thêm chút nữa chăng?
Việc lẽ ra tôi thật sự nên làm là thuật lại cho Thầy Trừ Tà biết về mẩu tin nhắn. Nhưng tôi không thể làm thế. Vì một lẽ, thầy đã không cho tôi biết thầy đang ở nơi nào.
“Hãy tin vào trực giác của con,” Thầy Trừ Tà trước nay vẫn luôn dạy tôi như thế, nên cuối cùng tôi đã đưa ra quyết định. Tôi sẽ đi đến nói chuyện với Cha Cairns.