← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6 GIAO KÈO VỚI ĐỊA NGỤC

Chẳng vội vã gì, tôi chầm chậm đi qua những con phố trải đá cuội ẩm ướt. Hai bàn tay tôi nhớp nháp mồ hôi vì lo lắng, còn hai chân dường như dùng dằng chẳng muốn tiến về phía nhà thờ lớn. Như thể chúng còn khôn hơn cả tôi vậy, nên tôi cứ phải buộc một chân này lê lên trước chân kia. Nhưng trời đêm đang se lạnh, và may mắn thay trên phố chẳng có lấy bao nhiêu người. Tôi thậm chí còn chẳng đi qua một cha xứ nào.

Tôi đến nhà thờ lớn vào khoảng bảy giờ kém mười, và khi bước qua cánh cổng đi vào khoảng sân trước lát đá rộng thênh thang, tôi không thể không liếc lên bức tượng đầu thú bên trên cổng chính. Chiếc đầu xấu xí hình như còn lớn hơn bao giờ hết và hai con mắt trông vẫn rất sinh động quỷ quyệt; chúng dõi nhìn theo tôi khi tôi bước về phía cửa. Chiếc cằm dài cong vêu hết mức, đến nỗi gần chạm đến mũi, khiến cho sinh vật này trông chẳng giống bất cứ thứ gì tôi từng nhìn thấy. Lại còn thêm hai tai như tai chó và một chiếc lưỡi lè dài khỏi miệng, hai sừng ngắn từ sọ uốn ngược lên trên, thốt nhiên hình ảnh này gợi cho tôi nhớ đến con dê.

Tôi nhìn sang hướng khác và bước vào trong nhà thờ lớn, hình thù quá đỗi kỳ quái của sinh vật kia làm tôi run lập cập. Vào trong thánh đường rồi tôi phải mất một lúc để mắt mình làm quen với vẻ thâm u, và thật nhẹ nhõm làm sao khi tôi thấy trong này dường như không có ai.

Thế nhưng tôi lại thấy sợ, vì hai lẽ. Thứ nhất, tôi không muốn ở trong thánh đường, nơi mà các cha xứ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Nếu Cha Cairns đang giăng bẫy hại tôi thì tôi vừa mới tự mình bước thẳng vào bẫy của ông ta. Thứ hai, hiện tại tôi đang ở trong lãnh địa của Quỷ Độc. Chẳng mấy chốc nữa thôi ngày sẽ tàn, và một khi mặt trời đã lặn thì Quỷ Độc, cũng như mọi sinh vật từ bóng tối khác, sẽ trở nên nguy hiểm vô cùng. Có lẽ đến lúc ấy tư tưởng của hắn có thể vươn lên từ hầm mộ mà tìm cho ra tôi. Tôi phải dứt điểm việc này càng nhanh càng tốt.

Buồng xưng tội ở đâu mới được nhỉ? Ở phía cuối thánh đường chỉ có vài ba bà lão, nhưng một ông lão đang quỳ mé trước thánh đường, gần một cánh cửa nhỏ của một buồng bằng gỗ dựng áp lưng vào bức tường đá.

Chừng đó cũng đủ cho tôi biết mình cần tìm gì. Cách đấy một quãng lại có thêm một buồng gỗ tương tự. Buồng xưng tội. Mỗi buồng có một ngọn nến trong chân nến thủy tinh xanh đặt bên trên. Nhưng chỉ có ngọn nến nơi buồng gần bên ông lão đang quỳ là được thắp sáng.

Tôi bước dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế mé tay phải và quỳ lên một chiếc ghế lễ đằng sau ông lão nọ. Sau đấy một lúc cánh cửa dẫn vào buồng xưng tội bật mở và một phụ nữ đeo mạng che mặt đen bước ra. Bà ta băng qua lối đi và đến quỳ bên ghế lễ cách đấy một quãng trong khi ông lão bước vào buồng xưng tội.

Sau đấy một lúc nữa thì tôi có thể nghe thấy ông lão ấy lầm rầm. Cả đời tôi chưa bao giờ đi xưng tội, nhưng tôi biết khá rõ những gì diễn ra trong ấy. Một trong những người anh của bố tôi từng trở nên rất sùng đạo trước khi bác ấy mất. Bố hay gọi bác ấy là “Joe Mộ Đạo” nhưng tên thật của bác ấy là Matthew. Bác thường đi xưng tội hai lần một tuần, và sau khi lắng nghe các tội lỗi của bác ấy, cha xứ ban cho bác phép sám hối. Điều này nghĩa là sau đấy bác Matthew phải đọc đi đọc lại thật nhiều lời kinh. Vậy nên tôi đoán ông lão trong kia hiện giờ đang kể cho cha xứ nghe về những tội lỗi của mình.

Cánh cửa buồng xưng tội cứ đóng kín mít như là đến muôn đời muôn kiếp và tôi bắt đầu thấy sốt ruột. Một ý nghĩ khác lóe lên: lỡ ra trong ấy không phải là Cha Cairns mà là cha xứ khác thì sao? Nếu thế thì tôi phải xưng tội thật sự, bằng không sẽ trông có vẻ khả nghi lắm. Tôi cố nghĩ đến vài tội lỗi nghe sao cho đáng tin tí. Tham ăn có phải là tội không nhỉ? Hay ta chỉ gọi đấy là tính háu ăn thôi? Vâng, chắc chắn là tôi thích thức ăn rồi, nhưng đó là do cả ngày nay tôi đã chẳng ăn gì và bụng tôi bắt đầu kêu réo. Đột nhiên việc làm này dường như điên khùng quá đỗi. Thoắt cái thôi tôi có thể biến thành tù nhân mất.

Tôi trở nên hoảng loạn và đứng lên tính bỏ về. Chỉ đến lúc ấy tôi mới nhẹ cả người khi chú ý thấy một tấm thiếp be bé mắc vào tay nắm cửa. Trên tấm thiếp có ghi tên: CHA CAIRNS.

Đúng lúc đó cánh cửa lại mở và ông lão bước ra, thế là tôi thay vào chỗ ông ấy trong buồng xưng tội và đóng cửa lại sau lưng. Bên trong căn buồng vừa nhỏ vừa u ám, và khi tôi quỳ xuống, mặt tôi dí sát vào tấm lưới kim loại. Đằng sau tấm lưới là màn cửa màu nâu, và đâu đấy phía sau màn cửa, một ngọn nến đang lập lòe. Tôi không thể nhìn ra mặt mũi của người đang ở sau tấm lưới, chỉ là một hình đầu người tối đen.

“Con có muốn ta nghe lời xưng tội của con không?” Tiếng của cha xứ đặc sệt giọng vùng Hạt và ông ta thở khò khè rất to.

Tôi chỉ nhún vai. Nhưng rồi tôi nhận ra là ông ta không thể nhìn rõ mình qua tấm lưới. “Không ạ, thưa Cha,” tôi đáp, “nhưng cảm ơn cha đã hỏi. Con là Tom, là người học việc của thầy Gregory. Cha đã muốn gặp con mà.”

Một đỗi ngưng lặng trước khi Cha Cairns mở lời. “À, Thomas đấy à, ta mừng vì con đã đến. Ta yêu cầu con đến đây vì ta cần nói chuyện với con. Ta phải nói cho con nghe một chuyện rất quan trọng và ta muốn con nán lại đây cho đến khi ta nói xong. Con có hứa là sẽ không bỏ đi cho đến khi ta nói hết những gì cần phải nói hay không?”

“Con sẽ lắng nghe ạ,” tôi nghi ngại đáp. Giờ đây tôi rất cảnh giác khi phải đưa ra lời hứa. Mùa xuân rồi tôi đã hứa hẹn với Alice và lời hứa đó khiến tôi mắc vào một lô một lốc những rắc rối.

“Tốt đấy anh bạn,” cha xứ bảo. “Chúng ta đã tạo ra một khởi đầu tốt đẹp cho một nhiệm vụ quan trọng. Và con có biết nhiệm vụ ấy là gì không?”

Tôi phân vân không rõ liệu ông ta có phải đang nói đến Quỷ Độc hay không, nhưng rồi tôi lại nghĩ tốt nhất là không nên nhắc đến cái thứ ấy khi đang ở quá gần hầm mộ như thế này, vậy nên tôi trả lời, “Không ạ, thưa Cha.”

“À, Thomas này, chúng ta phải lập kế hoạch thôi. Chúng ta phải lên kế hoạch để có thể cứu rỗi lấy linh hồn bất tử của con. Nhưng con biết mình cần phải làm gì để khởi đầu tiến trình đó, phải không nào? Con phải dễ dàng đánh bại John Gregory. Con phải thôi không thực hiện cái công việc đồi bại ấy nữa. Con có làm thế vì ta không nào?”

“Con nghĩ cha muốn gặp con về chuyện giúp đỡ thầy Gregory,” tôi bắt đầu thấy nóng máu. “Con nghĩ thầy ấy đang gặp nguy hiểm cơ mà.”

“Hắn ta đang gặp nguy hiểm thật đấy Thomas à. Chúng ta có mặt ở đây là để giúp John Gregory, nhưng chúng ta phải bắt đầu bằng việc giúp đỡ con đã. Vậy con có làm theo những gì ta nói không?”

“Không thể được ạ,” tôi đáp. “Bố con đã trả bộn tiền cho con học việc, và mẹ con sẽ còn thất vọng hơn nhiều. Mẹ nói con có thiên khiếu và con phải sử dụng thiên khiếu ấy để giúp mọi người. Đấy là công việc mà những người trừ tà làm. Thầy trò chúng con đi khắp nơi giúp đỡ người ta khi họ gặp nguy hiểm do thế lực bóng tối gây ra.”

Mội đỗi im lặng thật dài. Tất cả tiếng động tôi nghe được là tiếng cha xứ thở khò khè. Thế là tôi nghĩ ra chuyện khác.

“Con đã giúp Cha Gregory đấy, cha biết không ạ,” tôi buột miệng. “Đúng là sau đấy Cha Gregory không qua khỏi, nhưng con đã cứu cha ấy thoát khỏi một cái chết đau đớn hơn nhiều. Ít ra là Cha Gregory đã chết trên giường bệnh, khi còn được ấm áp. Cha ấy đã cố xử lý một ông kẹ,” tôi dài dòng giải thích với giọng hơi lớn tiếng một chút. “Đấy chủ yếu mới là chuyện khiến cha ấy vướng vào tai họa. Lẽ ra thầy Gregory đã có thể giải quyết giùm cho cha ấy rồi. Thầy làm được những việc mà một cha xứ phải bó tay. Các cha không tiêu diệt được ông kẹ vì họ không biết cách. Làm chuyện này cần phải có nhiều thứ lắm chứ không phải chỉ vài ba lời cầu nguyện thôi đâu.”

Tôi biết lẽ ra mình không nên nói như thế về những lời cầu nguyện, và tôi trông chờ ông ta nổi cơn lôi đình. Nhưng không. Ông ta vẫn giữ bình tĩnh và như thế dường như càng khiến cho mọi chuyện tồi tệ hơn hẳn.

“Ồ phải rồi, cần phải có nhiều thứ hơn,” Cha Cairns lặng lẽ đáp, giọng ông ta giờ đây chỉ như tiếng thì thầm. “Nhiều, hơn rất nhiều. Con có biết bí mật của John Gregory là gì không, hả Thomas? Con có biết nguồn gốc sức mạnh của hắn đến từ đâu không?”

“Có chứ,” tôi đáp, giọng bỗng trở nên bình tĩnh hơn hẳn. “Thầy đã học tập hàng bao năm trời, trong suốt cả cuộc đời hành nghề của mình. Thầy có một thư viện đầy sách, và thầy phải kinh qua thời gian học việc cũng như con đây, thầy chăm chú lắng nghe lời thầy mình, ghi chép hết vào sổ, cũng giống như con bây giờ vậy.”

“Thế con không nghĩ là chúng ta cũng làm như thế sao? Phải mất biết bao nhiêu năm huấn luyện đằng đẵng để được làm cha đấy chứ. Và các cha xứ là những con người thông minh được huấn luyện bởi những người còn thông minh hơn. Vậy làm thế nào con hoàn thành được việc mà Cha Gregory không thể, dù cha ấy đã đọc qua kinh thánh thiêng liêng của Đức Chúa Cha? Làm sao con giải thích được chuyện thầy của con có thể liên tục dứt điểm xong xuôi những việc mà anh trai hắn hoàn toàn bất lực?”

“Đấy là vì các cha xứ không được huấn luyện đúng cách,” tôi đáp. “Và bởi vì thầy con và cả con nữa là con trai thứ bảy của người con thứ bảy.”

Viên cha xứ phát ra âm thanh kỳ quặc đằng sau tấm lưới. Lúc đầu tôi nghĩ ông ta đang bị sặc; rồi tôi nhận ra mình nghe thấy tiếng cười. Ông ta đang cười nhạo tôi.

Tôi nghĩ như thế là khiếm nhã lắm. Bố tôi luôn nói rằng ta phải tôn trọng ý kiến của người khác, cho dù đôi khi ý kiến ấy nghe có ngớ ngẩn đến thế nào đi nữa.

“Chỉ là trò mê tín thôi, Thomas này,” rốt cuộc rồi Cha Cairns cũng lên tiếng. “Làm con trai thứ bảy của người con thứ bảy chẳng có nghĩa gì cả. Chỉ là chuyện tào lao. Lời giải thích xác thực cho sức mạnh của John Gregory là một điều kinh khủng đến nỗi vẫn khiến ta rùng mình mỗi khi nghĩ đến. Này nhé Thomas, John Gregory đã ký một giao kèo với Quỷ sứ. Hắn đã bán linh hồn mình cho Ác quỷ.”

Tôi chẳng thể nào tin được những gì ông ta đang nói. Khi mở mồm định bác lại thì chẳng lời lẽ nào thoát ra hết, nên tôi chỉ biết lắc đầu quầy quậy.

“Thật vậy đấy Thomas. Mọi sức mạnh của hắn là từ Ác quỷ. Thứ mà con và người trong Hạt gọi là ông kẹ thì chỉ là những loài quỷ sứ yếu kém hơn phải chịu đầu hàng vì ông chủ của chúng buộc chúng phải thế. Ác quỷ làm vậy cũng thấy đáng, bởi vì đổi lại, một ngày nào đó hắn sẽ sở hữu được linh hồn của John Gregory. Mà linh hồn là thứ rất quý giá với Chúa Trời, là một điều huy hoàng và tráng lệ, và Ác quỷ sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để vấy bẩn lấy nó bằng tội lỗi và lôi kéo nó xuống ngọn lửa vĩnh cửu của Địa ngục.”

“Vậy còn con thì sao?” tôi hỏi, thấy nóng mặt trở lại. “Con đã chẳng bán đi linh hồn gì cả. Nhưng con đã cứu lấy Cha Gregory.”

“Dễ hiểu thôi mà Thomas. Con là đầy tớ của Thầy Trừ Tà, như con hay gọi hắn là thế, để rồi đến lượt hắn, hắn lại là đầy tớ của Ác Quỷ. Vậy nên những sức mạnh ma quỷ sẽ được cho con vay mượn khi con đang phục dịch. Nhưng tất nhiên, nếu con hoàn tất hết kỳ huấn luyện cùng quỷ sứ và chuẩn bị thực hành cái nghề kinh tởm của mình với tư cách là một kẻ lành nghề chứ không còn là chân học việc nữa, thì sẽ đến phiên con thôi. Con cũng sẽ phải bán đi linh hồn của mình. John Gregory chưa nói cho con biết điều này bởi vì con hãy còn quá nhỏ, nhưng chắc chắn rồi một ngày nào đó hắn cũng sẽ phải nói thôi. Và khi ngày ấy đến, sẽ chẳng có gì ngạc nhiên nữa đâu vì con sẽ nhớ đến những lời lúc này ta đang nói với con đây. John Gregory đã phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng trong cuộc đời hắn và mang tội quá nặng. Con có biết hắn từng là cha xứ hay không?”

Tôi gật. “Con biết chuyện này rồi.”

“Và con có biết làm thế nào mà, chỉ ngay sau khi làm lễ thụ phong linh mục, hắn lại từ bỏ lời Chúa hay không? Con có biết đến sự ô nhục của hắn không?”

Tôi không trả lời. Tôi biết Cha Cairns rồi sẽ nói cho tôi nghe thôi.

“Một vài nhà thần học tranh luận rằng đàn bà không có linh hồn. Cuộc tranh luận ấy vẫn còn tiếp diễn, nhưng có một điều chúng ta đều biết chắc – một cha xứ thì không thể có vợ, bởi vì làm thế sẽ khiến hắn xao lãng việc hiến mình phụng sự Chúa. Sự sa ngã của John Gregory còn tệ hơn gấp đôi: hắn không những bị một người đàn bà làm cho xao lãng, mà người đàn bà đấy lại còn là người được hứa hôn với một trong những anh trai của hắn. Việc này làm gia đình chia năm xẻ bảy. Anh em trở mặt với nhau vì một ả tên Emily Burns.”

Đến lúc này tôi chẳng còn ưa Cha Cairns tẹo nào, và biết chắc rằng nếu ông ta mà đi nói với mẹ tôi về việc đàn bà không có linh hồn, thì mẹ tôi sẽ mắng cho ông ta tan xác. Nhưng tôi tò mò muốn biết chuyện của Thầy Trừ Tà. Đầu tiên là chuyện về Meg, và giờ đây tôi lại được tỉ tê rằng, thậm chí trước đấy nữa, thầy từng dính líu đến người tên Emily Burns này. Tôi sửng sốt và muốn biết nhiều hơn.

“Thầy Gregory có cưới Emily Burns không ạ?” tôi buột miệng hỏi ngay.

“Dưới sự chứng kiến của Chúa thì không bao giờ,” Cha Cairns trả lời. “Ả đến từ Blackrod, nơi có gốc gác gia đình chúng ta, rồi sống ở đó một mình cho đến ngày nay. Có người bảo hai người bọn họ đã cãi cọ, nhưng gì thì gì dần dà rồi John Gregory lại tiếp nhận một mụ đàn bà khác mà hắn đã gặp mãi trên miền Bắc xa xôi của Hạt rồi đem mụ xuống miền Nam. Tên mụ ta là Margery Skelton, một mụ phù thủy khét tiếng. Dân địa phương gọi mụ là Meg, và chẳng bao lâu sau người dân trên khắp khu đầm lầy Anglezarke lẫn những thị trấn làng mạc phía Nam của Hạt đều khiếp hãi và nguyền rủa mụ.”

Tôi chẳng nói gì. Tôi biết ông ta mong chờ là tôi sẽ choáng lắm. Tôi có choáng thật, khi nghe mọi điều ông ta kể, nhưng việc đọc cuốn nhật ký của Thầy Trừ Tà ở Chipenden đã giúp tôi chuẩn bị tinh thần cho những điều tồi tệ nhất.

Cha Cairns lại khịt khịt mũi rõ to rồi ho húng hắng trong họng. “Con có biết trong sáu người anh của Jonn Gregory thì hắn đã mắc lỗi với ai không?”

Tôi đã đoán ra từ lâu. “Là Cha Gregory,” tôi đáp.

“Trong những gia đình sùng đạo như nhà Gregory ấy, truyền thống là luôn phải có một người con trai nhận lấy Thánh Chức. Khi John quẳng thiên chức của hắn đi, một người anh khác phải thế chỗ vào và bắt đầu được huấn luyện để trở thành linh mục. Đúng thế đấy Thomas, đấy là Cha Gregory, người anh em mà hôm nay chúng ta phải chôn cất. Ông ấy đã mất đi người hứa hôn và mất luôn một em trai. Ông ta có thể làm được gì hơn là quay đầu về phía Chúa cơ chứ?”

Lúc tôi đến đây, nhà thờ này dường như chẳng có ai, nhưng khi chúng tôi trò chuyện thì tôi ý thức được những âm thanh bên ngoài buồng xưng tội. Những tiếng bước chân và tiếng người thì thầm ngày một tăng dần. Bất thình lình ngay lúc ấy, một dàn đồng ca bỗng cất tiếng. Lúc này hẳn đã sau bảy giờ lâu lắm rồi và mặt trời chắc đã lặn mất. Tôi quyết định lựa lời thoái thác để bỏ ra về, nhưng khi vừa mở miệng thì tôi đã nghe thấy tiếng Cha Cairns đứng lên.

“Đi theo ta nào Thomas,” ông ta bảo. “Ta muốn chỉ cho con coi thứ này.”

Tôi nghe thấy ông ta mở cửa buồng bước ra nhà thờ, thế là tôi làm theo.

Cha Cairns ra hiệu cho tôi tiến về phía điện thờ, tại đây một dàn đồng ca gồm các cậu bé lễ sinh đang đứng trên các bậc cấp, xếp ngay ngắn thành ba hàng mỗi hàng mười cậu, được một cha xứ khác chủ xướng. Mỗi cậu đều mặc áo thầy dòng màu đen và áo thụng trắng.

Cha Cairns dừng bước, đặt bàn tay trái đang băng bó lên vai phải tôi.

“Hãy lắng nghe bọn họ đi nào Thomas. Chẳng phải giọng họ nghe như những thiên thần thánh thiện hay sao?”

Tôi chưa từng nghe thấy thiên thần hát bao giờ nên chẳng thể trả lời được, nhưng chắc chắn là các cậu bé kia phát ra âm thanh nghe hay ho hơn bố tôi nhiều, bố thường hay bắt đầu cất tiếng ca khi chúng tôi gần vắt xong sữa. Giọng của bố nghe ghê đến nỗi có thể biến sữa thành chua loét.

“Lẽ ra con cũng có thể trở thành một thành viên trong ca đoàn ấy rồi đấy, Thomas à. Nhưng con đã để cho quá muộn. Giọng của con đã bắt đầu khàn đi và cơ hội được phục vụ trong ca đoàn đã bị vuột mất.”

Điều này thì ông ta nói đúng. Các cậu bé kia đa phần đều nhỏ tuổi hơn tôi và giọng của các cậu nghe giống giọng con gái hơn là giọng con trai. Mà thôi, khả năng hát hò của tôi cũng chẳng khá khẩm hơn bố tôi là mấy.

“Thế nhưng, vẫn có những việc khác mà con có thể làm. Để ta chỉ cho con xem này...”

Ông ta dẫn đường đi băng qua điện thờ, qua cánh cửa đi ra dọc theo hành lang. Rồi chúng tôi bước ra khu vườn ở phía sau nhà thờ. À, trông nơi này rộng cỡ một cánh đồng chứ không hẳn là khu vườn, và thay vì được trồng hoa hồng hoa hoét thì nơi đây trồng toàn rau.

Trời đang tối dần nhưng vẫn còn đủ ánh sáng để nhìn thấy một hàng rào cây táo gai phía xa và ngay sau đấy là những bia mộ trong bãi tha ma của nhà thờ. Phía trước dãy hàng rào là một cha xứ đang quỳ gối dùng xẻng nhổ cỏ. Khu vườn thì thênh thang, chỉ có mỗi chiếc xẻng lại bé xíu.

“Thomas này, con xuất thân là gia đình nhà nông. Đấy là loại lao động chân chính, tốt đẹp. Làm việc ở đây con sẽ thấy như ở nhà mình,” ông ta vừa nói vừa chỉ tay về phía cha xứ đang quỳ.

Tôi lắc đầu. “Con không muốn làm cha xứ ạ,” tôi bảo.

“Ồ, con chẳng thể nào thành cha xứ được đâu!” Cha Cairns la lên, giọng đầy choáng váng và căm phẫn. “Vì lẽ con đã đến quá gần Ác quỷ và giờ đây cho đến hết cuộc đời con sẽ được canh chừng cẩn thận phòng khi con lại sa ngã. Không đâu, người đàn ông kia là một tu huynh.”

“Huynh ư?” tôi hỏi lại, lòng hoang mang, cứ nghĩ ông ta là người trong gia đình hay sao đấy.

Cha xứ mỉm cười. “Trong những nhà thờ lớn như nhà thờ này, các cha xứ luôn có các phụ tá trợ giúp. Chúng ta gọi họ là tu huynh bởi lẽ, mặc dù không thể thi hành thánh lễ nhưng họ có thể thực hiện những nhiệm vụ quan trọng khác và là một phần trong ngôi nhà Đức Chúa. Huynh Peter là người làm vườn của chúng ta và cũng rất thạo việc đấy. Con thấy sao nào Thomas? Con có muốn làm một tu huynh hay không?”

Tôi biết quá rõ làm huynh đệ là như thế nào rồi. Là con út trong bảy anh em trai, tôi đã luôn được giao những việc mà chẳng ai khác muốn lãnh. Ở đây trông có vẻ cũng tương tự thế. Dù sao đi nữa, tôi đã có công việc rồi và tôi chẳng tin lời nào của Cha Cairns về Ác quỷ và Thầy Trừ Tà cả. Cũng khiến tôi suy nghĩ chút ít đấy, nhưng từ trong sâu thẳm tôi biết chuyện ấy không thể nào là sự thực được. Thầy Gregory là một người cao quý.

Trời mỗi lúc một tối dần và lạnh hơn nên tôi quyết định đã đến lúc phải đi.

“Cảm ơn cha đã nói chuyện với con, thưa Cha Cairns,” tôi mở lời, “nhưng cha có thể nói cho con nghe về hiểm nguy mà thầy Gregory sẽ gặp phải được không, thưa Cha?”

“Rồi sẽ nói thôi mà, Thomas,” ông ta vừa đáp vừa cười nhẹ với tôi.

Có gì đấy trong nụ cười kia mách cho tôi biết rằng mình đã bị lừa. Rằng ông ta chẳng có ý định giúp đỡ gì Thầy Trừ Tà cả.

“Con sẽ suy nghĩ về những điều cha vừa bảo với con, nhưng con phải quay về ngay thôi bằng không con sẽ lỡ bữa tối mất,” tôi bảo với ông ta. Lúc ấy lời này nghe có vẻ như một lý do thoái thác hợp lý. Ông ta không có cách nào biết được là tôi đang nhịn đói vì phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó với Quỷ Độc.

“Ở đây chúng ta cũng có bữa tối cho con mà Thomas,” Cha Cairns đáp. “Đúng ra là chúng ta muốn con ở lại đây đêm nay.”

Hai cha xứ khác từ cửa hông bước ra và đang tiến về phía chúng tôi. Hai người này to lớn, và tôi chẳng ưa gì cái vẻ trên mặt họ cả.

Có một thoáng chốc mà chắc là tôi có thể bỏ chạy thoát thân, nhưng hình như bỏ chạy thì ngớ ngẩn quá khi tôi còn không rõ chuyện xảy đến tiếp theo là gì.

Và rồi không còn kịp nữa vì hai cha xứ kia đã đứng kè kè hai bên, túm chặt phần trên cánh tay và vai tôi. Tôi không vùng vẫy vì chẳng ích gì. Tay của họ vừa to vừa khỏe và tôi cảm thấy rằng nếu đứng yên một chỗ quá lâu thì mình sẽ bắt đầu lún xuống đất mất. Họ bắt đầu đẩy tôi ngược vào phòng áo lễ.

“Chuyện này là để tốt cho con thôi Thomas à,” Cha Cairns vừa nói vừa đi theo chúng tôi vào trong. “Tối nay ngài Phán Quan sẽ túm cổ John Gregory. Tất nhiên hắn ta sẽ được đem ra xét xử, nhưng kết cục đã quá rõ ràng rồi. Hắn sẽ bị thiêu sống trên giàn hỏa vì tội cấu kết với Ác quỷ. Đấy là lý do vì sao ta không thể để con quay về với hắn. Với con thì vẫn còn hy vọng. Con chỉ là một cậu bé và linh hồn con vẫn còn có thể cứu được mà không cần phải thiêu đốt đi. Nhưng nếu như con đang ở bên hắn khi hắn bị bắt, con sẽ phải chịu chung số phận. Vậy nên việc này chỉ là để tốt cho con thôi.”

“Nhưng thầy ấy là em họ của ông kia mà!” Tôi buột miệng thốt lên. “Thầy là người cùng một nhà. Làm sao ông lại có thể làm như thế chứ? Hãy thả tôi đi để tôi cảnh báo cho thầy.”

“Cảnh báo ư?” Cha Cairns hỏi. “Con nghĩ là ta chưa từng cố báo trước cho hắn hay sao? Ta đã làm như thế gần suốt quãng đời trưởng thành của hắn rồi. Giờ thì ta cần phải nghĩ cho linh hồn hơn là cho thể xác của hắn. Ngọn lửa sẽ tẩy sạch hắn. Chịu lấy đau đớn, linh hồn hắn sẽ được cứu rỗi. Con không hiểu sao? Ta làm điều này là để giúp hắn đấy Thomas. Còn có những thứ quan trọng hơn sự tồn tại ngắn ngủi của chúng ta trên thế gian này nhiều.”

“Ông đã phản bội lại thầy ấy! Phản bội lại chính máu mủ huyết thống của mình. Ông đã báo cho tên Phán Quan biết chúng tôi đang ở đây!”

“Không phải cả hai người đâu, chỉ mình John thôi. Vậy nên hãy tham gia cùng chúng ta nào Thomas. Cầu nguyện đi rồi linh hồn của con sẽ được tẩy sạch và tính mạng con sẽ không khi nào bị nguy hiểm nữa. Con thấy sao?”

Cãi cọ với kẻ quá quả quyết là mình đúng thì chẳng ích gì, nên tôi không thèm tốn hơi tốn sức. Âm thanh duy nhất vang lên là tiếng bước chân chúng tôi vọng lại, và tiếng chìa khóa khua lẻng xẻng khi bọn họ dẫn tôi đi mỗi lúc một sâu hơn vào trong thánh đường u tịch.