← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 14 CÂU CHUYỆN CỦA BỐ

Khoảng một tiếng trước khi hoàng hôn buông xuống, chúng tôi nhìn thấy nông trại. Tôi biết bố tôi và anh Jack chắc chỉ mới bắt đầu vắt sữa bò thôi nên lúc này mà vào nhà là thích hợp nhất. Tôi cần có dịp nói chuyện riêng với mẹ.

Tôi chưa trở về nhà lần nào kể từ mùa xuân rồi, khi mụ phù thủy già, Mẹ Malkin, đã ghé qua thăm nhà tôi một chuyến. Lần đó nhờ vào sự quả cảm của Alice mà chúng tôi tiêu diệt được mụ, nhưng vụ việc này đã làm cho Jack và vợ anh ấy, chị Ellie, không vui, và tôi biết hai người họ không muốn tôi ở lại nhà sau khi trời tối cho lắm. Công việc của Thầy Trừ Tà làm họ thấy sợ và họ lo có chuyện gì đó xảy đến với con của mình. Vậy nên tôi chỉ muốn giúp Thầy Trừ Tà và sau đó lên đường càng nhanh càng tốt.

Tôi cũng ý thức được rằng mình đang mạo hiểm với tính mạng của mọi người khi tôi đưa Thầy Trừ Tà và Alice về nông trại. Nếu người của tên Phán Quan theo chúng tôi đến tận đây thì bọn chúng cũng sẽ không thương tiếc cho những ai chứa chấp một phù thủy và một người trừ tà đâu. Tôi không muốn gia đình mình gặp nhiều nguy hiểm hơn nữa, thế là tôi quyết định để Thầy Trừ Tà và Alice ngay bên ngoài ranh giới nông trại. Nơi ấy có một lều chăn cừu của nông trại gần với chúng tôi nhất. Họ đã chuyển sang nuôi gia súc nên túp lều này bao nhiêu năm nay không được dùng đến. Tôi phụ với Alice đưa Thầy Trừ Tà vào trong lều rồi bảo cô chờ ở đấy. Xong xuôi, tôi băng qua cánh đồng, đi thẳng về hướng hàng rào bao quanh sân nông trại nhà mình.

Khi tôi mở cửa bước vào bếp, mẹ tôi đang ngồi tại nơi quen thuộc của bà trong góc nhà cạnh lò sưởi, trên chiếc ghế đu. Chiếc ghế đang ở yên một chỗ và mẹ chỉ nhìn tôi chăm chăm khi tôi bước vào. Các màn cửa sổ đã được kéo lại, và cây nến sáp ong trên chiếc chân nến bằng đồng đang được thắp sáng.

“Ngồi xuống đi con,” mẹ bảo, giọng bà mềm mỏng nhỏ nhẹ. “Kéo ghế lại đây và kể cho mẹ nghe nào.” Bà hình như chẳng ngạc nhiên chút nào khi thấy tôi.

Tôi từng quen với chuyện như thế. Mẹ luôn được cần đến khi các bà mụ gặp phải rắc rối trong những ca sinh khó, và cũng kỳ lạ thay là mẹ luôn biết trước khi nào có người cần đến sự giúp đỡ của mình trước khi lời nhắn được chuyển đến nông trại cả một lúc lâu. Mẹ có thể cảm nhận những chuyện như vậy, như là mẹ vừa cảm nhận được sự trở về của tôi. Có một điều gì đó rất đặc biệt về mẹ tôi. Bà có những thiên khiếu mà một kẻ như tên Phán Quan kia sẽ rất muốn trừ khử.

“Có chuyện không hay xảy ra phải không nào?” mẹ hỏi. “Tay con bị làm sao thế?”

“Không có gì đâu mẹ. Chỉ bị phỏng thôi à. Alice đã chữa chỗ này rồi. Giờ con chẳng thấy đau gì nữa hết.”

Mẹ tôi nhướn mày khi nghe nhắc đến tên Alice. “Kể chuyện ấy cho mẹ nghe đi con.”

Tôi gật đầu, cảm thấy cổ họng mình dâng nghẹn. Tôi phải cố đến ba lần trước khi thốt nổi câu đầu tiên. Khi đã nói được rồi thì mọi thứ tuôn trào hối hả.

“Mẹ ơi, bọn chúng sém chút đã thiêu chết thầy Gregory rồi đấy. Tên Phán Quan bắt được thầy ở Priestown. Chúng con đã trốn thoát nhưng bọn chúng sẽ đuổi theo thôi, trong khi Thầy Trừ Tà lại không được khỏe. Thầy cần được giúp. Cả chúng con ai cũng thế.”

Nước mắt chảy thành dòng xuống mặt tôi khi tôi tự thú nhận với chính mình chuyện gì giờ đây đang làm tôi canh cánh nhất. Lý do chính khiến tôi không muốn đến khu đồi trọc là vì tôi sợ. Tôi sợ bọn chúng sẽ bắt được tôi và tôi cũng sẽ bị thiêu chết.

“Con đang làm trò quỷ gì ở Priestown thế?” mẹ tôi hỏi.

“Anh của thầy Gregory qua đời và đám ma của ông ta tổ chức ở đấy. Thầy trò con phải đến dự.”

“Con không kể cho mẹ biết hết mọi chuyện rồi,” mẹ tôi bảo. “Làm cách nào mà con thoát được khỏi tay tên Phán Quan vậy?”

Tôi không muốn cho mẹ biết Alice đã làm gì. Bạn biết rồi đấy, mẹ tôi từng một lần cố giúp Alice và tôi không muốn bà biết là rốt cuộc cô ấy đã trở thành thế nào, đã dấn thân vào thế lực bóng tối như Thầy Trừ Tà từng e ngại.

Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi kể cho mẹ nghe toàn bộ câu chuyện. Khi tôi kể xong, mẹ tôi thở dài sườn sượt. “Chuyện thật sự rất tồi tệ đấy,” bà nói. “Quỷ Độc đang tự do ngoài kia chẳng phải là điềm lành cho bất cứ ai trong Hạt cả – rồi còn thêm một phù thủy trẻ bị trói buộc vào hắn nữa chứ – ôi, ta lo sợ cho tất cả mọi người chúng ta. Nhưng chúng ta phải chấp nhận tình thế thôi. Chúng ta chỉ làm được có vậy. Mẹ đi lấy túi thuốc và đi xem mình có thể làm được gì cho thầy Gregory đáng thương không nào.”

“Cảm ơn mẹ ạ,” tôi nói, chợt nhận ra là nãy giờ mình toàn nói về những vấn đề của bản thân. “Nhưng ở nhà mọi chuyện ra sao vậy mẹ? Con bé con của Ellie thế nào rồi ạ?” tôi hỏi.

Mẹ tôi mỉm cười nhưng tôi lại nhìn ra một thoáng u sầu trong mắt bà. “Ồ, con bé khỏe ấy mà, còn Ellie và Jack thì vẫn hạnh phúc như trước giờ vẫn thế. Nhưng con này,” mẹ khẽ chạm vào tay tôi, “mẹ cũng có vài tin không hay báo cho con đây. Là về bố con ấy. Lâu nay ông bệnh rất nặng.”

Tôi đứng bật dậy, không thể tin nổi những gì mẹ vừa nói. Vẻ mặt của bà mách cho tôi biết chuyện này nghiêm trọng đây.

“Ngồi xuống đi con trai,” mẹ tôi bảo, “và hãy lắng nghe cho kỹ trước khi con bắt đầu thấy lo buồn. Tình hình tuy không tốt nhưng cũng có thể đã còn tệ hơn đấy. Khởi đầu là một cơn cảm lạnh nặng nhưng rồi nó lại ăn vào phổi bố và biến chứng thành sưng phổi khiến chúng ta sém chút là mất ông rồi. Giờ thì bố con đang hồi phục, mẹ hy vọng là thế, nhưng mùa đông này ông ấy phải mặc cho thật đủ ấm. Mẹ e là bố sẽ không bao giờ có thể làm được nhiều việc đồng áng nữa. Jack sẽ phải nai lưng làm mọi việc mà không có bố thôi.”

“Con có thể giúp mà mẹ.”

“Không đâu con trai, con còn có công việc của riêng con. Khi Quỷ Độc đang tự do và thầy của con lại yếu sức thì Hạt này lại cần con hơn bao giờ hết. Này, thôi để mẹ lên lầu báo bố con trước là có con ở đây. Và mẹ sẽ không kể bất cứ rắc rối nào của con cho bố biết cả. Chúng ta không việc gì phải để cho bố biết thêm tin xấu hay những cơn sốc không hay nào. Chúng ta chỉ giữ riêng bí mật giữa mẹ con ta thôi nhé.”

Tôi chờ trong bếp nhưng chỉ ít phút sau mẹ tôi đã đi xuống lầu, mang theo chiếc túi.

“Thôi, con lên gặp bố trong khi mẹ đi giúp thầy con đi. Bố vui vì con đã về nhưng đừng để cho bố phải nói quá nhiều đấy. Ông vẫn còn rất yếu.”

Bố tôi đang ngồi tựa lưng lên chồng gối trên giường. Ông mỉm cười yếu ớt khi tôi bước vào phòng. Khuôn mặt bố tiều tụy và mệt mỏi, trên cằm ông lởm chởm râu bạc khiến ông trông còn già hơn.

“Ngạc nhiên quá đấy Tom. Ngồi xuống đây nào,” bố tôi nói, hất đầu ra hiệu về phía chiếc ghế bên cạnh giường.

“Con xin lỗi ạ,” tôi bảo. “Nếu con biết bố ốm thì con đã quay về sớm hơn để thăm bố rồi.”

Bố tôi giơ tay lên như muốn nói chẳng hề gì đâu. Rồi ông bắt đầu ho dữ dội. Mọi người cho là sức khỏe của bố đang trở nên khá hơn nên tôi không muốn nghe ông nói gì khi ông ốm nặng. Căn phòng mang mùi bệnh. Hơi hướm của một thứ mà ta không khi nào ngửi thấy khi ở ngoài trời. Thứ gì đó chỉ luẩn quẩn trong những phòng người ốm.

“Công việc sao rồi con?” bố tôi hỏi, sau khi đã dứt cơn ho sặc sụa.

“Không tồi ạ. Giờ con đã quen với nó rồi và con thích công việc này hơn việc đồng áng,” tôi vừa đáp vừa gạt đi những gì mới xảy ra vào sâu trong tâm trí.

“Việc đồng áng với con quá tẻ nhạt chứ gì, hử?” bố hỏi với thoáng mỉm cười. “Này con, bố cũng đâu phải suốt đời làm nông dân đâu.”

Tôi gật đầu. Thời trai trẻ bố tôi từng là thủy thủ. Bố từng kể rất nhiều chuyện về những nơi ông đã đi qua. Đấy là những câu chuyện thật thú vị, đầy màu sắc và hứng thú. Hai mắt bố luôn sáng lên xa xăm mỗi khi ông hồi tưởng lại những quãng thời gian ấy. Tôi muốn trông thấy ánh sáng sinh khí ấy quay trở lại trong đôi mắt bố mình.

“Phải rồi bố nhỉ,” tôi bảo, “kể cho con nghe những câu chuyện của bố đi. Chuyện về con cá voi khổng lồ ấy.”

Bố tôi im lặng một lúc, đoạn nắm lấy tay tôi, kéo tôi vào gần hơn. “Bố nghĩ có một chuyện bố phải kể cho con nghe đấy con trai, trước khi quá muộn.”

“Bố đừng nói năng vớ vẩn thế chứ,” tôi ngạc nhiên khi thấy ông đổi hướng câu chuyện như thế.

“Không đâu Tom, bố hy vọng được chứng kiến thêm một mùa xuân và mùa hè nữa, nhưng bố không nghĩ mình còn ở lại thế gian này lâu lắm đâu. Dạo gần đây bố suy nghĩ rất nhiều và bố nhận ra đã đến lúc phải nói cho con những gì bố biết. Bố không mong là sẽ gặp được con trong một thời gian dài nhưng giờ con đang ở đây và ai biết được lần tới chúng ta gặp nhau sẽ là khi nào chứ?” Bố ngừng lời rồi nói tiếp, “Chuyện về mẹ con đấy – chuyện bố mẹ đã gặp nhau như thế nào ấy.”

“Bố sẽ được nhìn thấy lắm mùa xuân nữa mà bố,” tôi nói, nhưng trong bụng rất ngạc nhiên. Trong tất cả những câu chuyện hấp dẫn của bố, có một chuyện mà ông chưa khi nào kể đến đầu đến đũa: là chuyện bố đã gặp mẹ như thế nào. Chúng tôi có thể nhận thấy ông thật sự không khi nào muốn kể đến chuyện ấy. Hoặc là ông thay đổi đề tài hoặc bảo bọn tôi đi mà hỏi mẹ. Chúng tôi chẳng bao giờ hỏi. Khi ta còn nhỏ, có những chuyện ta không hiểu nhưng lại chẳng hỏi han cho rõ làm gì. Ta biết là bố mẹ mình không muốn nói cho ta biết. Nhưng hôm nay thì khác.

Bố mệt mỏi lắc đầu rồi cúi đầu thật thấp, như thể đang có một gánh nặng lớn đè xuống hai vai ông. Khi ông ngồi thẳng lại, nụ cười nhẹ đã trở lại trên mặt.

“Mà này, bố không chắc là mẹ có cảm ơn bố đã nói cho con biết không đấy, vậy nên ta giữ chuyện này giữa hai bố con thôi nhé. Bố cũng sẽ không kể cho các anh con nghe đâu, và bố yêu cầu con cũng làm như thế đấy, con trai. Nhưng bố nghĩ với loại hình công việc mà con đang theo, rồi con lại là con trai thứ bảy của người con thứ bảy, thôi thì...”

Bố lại ngưng lời và nhắm nghiền mắt. Tôi chăm chăm nhìn bố, lòng cảm thấy một đợt sóng muộn phiền khi tôi nhận ra bố trông mới già và ốm yếu làm sao. Bố mở mắt ra và bắt đầu kể.

“Chúng ta dong thuyền vào một cảng nhỏ để lấy thêm nước ngọt,” bố kể, khởi đầu câu chuyện theo cách như thể ông cần phải nói cho chong chóng vào trước khi đổi ý. “Đấy là một nơi cô quạnh được những ngọn đồi cao lởm chởm đá bao quanh, trên đấy chỉ có nhà của tay chủ cảng và vài túp lều nhỏ bé của ngư dân được xây bằng đá trắng. Bọn ta đã lênh đênh trên biển hàng tuần liền nên ông thuyền trưởng, một người đàn ông tốt bụng, bảo rằng bọn ta xứng đáng được nghỉ ngơi chút ít. Thế là ông ấy cho mọi người lên bờ nghỉ phép. Bọn ta chia thành hai phiên và bố thuộc phiên thứ hai, bắt đầu sau khi trời đã tối mịt.

“Đám bọn ta gồm khoảng mười hai người và khi chúng ta đến được quán rượu gần nhất, nằm ven rìa một ngôi làng trên nửa đường lên núi, thì quán rượu gần sửa soạn đóng cửa. Thế là chúng ta phải uống thật nhanh, nốc bao nhiêu là rượu mạnh qua cổ cứ như là không còn có ngày mai nữa, rồi chúng ta mỗi người mua một bình vang đỏ để uống trên đường quay về thuyền.

“Hẳn là bố đã uống quá nhiều, bởi vì khi thức dậy bố chỉ nằm một mình ở ven con dốc ngược xuống cầu cảng. Mặt trời vừa mới ló dạng nhưng bố cũng chẳng lo gì vì đến giữa trưa chúng ta mới dong buồm ra khơi. Bố lồm cồm đứng dậy phủi phủi bụi. Đúng lúc ấy, bố nghe thấy tiếng nức nở từ xa vọng lại.

“Bố đứng đó nghe ngóng chừng được một phút trước khi đi đến quyết định. Ý bố là, tiếng khóc ấy nghe như tiếng phụ nữ nhưng làm sao mà bố chắc được chứ? Ở những vùng ấy có đủ thứ truyền thuyết lạ kỳ về những sinh vật săn khách lữ hành làm mồi. Bố chỉ có một mình, và cũng không ngại nói cho con biết là bố thấy sợ, nhưng nếu bố không đi xem thử ai đang khóc thì hẳn bố sẽ không bao giờ gặp được mẹ con và giờ sẽ không có con ở đây đâu.

“Bố men theo lối đó leo ngược lên ngọn đồi dốc, lúc qua bên kia đồi thì phải bò lồm cồm xuống cho đến khi bố đến ngay rìa mỏm đá. Mỏm đá ấy rất cao, bên dưới là những con sóng xô tới tấp vào kè đá, và bố có thể trông thấy con thuyền đang neo trong vịnh, và nó nhỏ đến nỗi dường như bố có thể đặt nó vừa vặn vào lòng bàn tay mình.

“Một phiến đá hẹp chìa ra khỏi mỏm đá như chiếc răng chuột, và một cô gái đang ngồi tựa lưng vào đấy, mặt hướng ra biển. Cô ấy bị một sợi xích trói vào phiến đá. Hơn nữa, trên người cô gái còn không có mảnh vải che thân.”

Nói đến đây, mặt bố tôi đỏ dừ.

“Khi ấy, cô gái bắt đầu khóc to lên kể lể cho bố nghe. Kể về việc gì đó mà cô ấy khiếp sợ. Thậm chí còn tồi tệ hơn là bị trói vào phiến đá ấy rất nhiều. Nhưng cô gái đang nói bằng ngôn ngữ của mình còn bố thì chẳng hiểu được lấy một chữ – cho đến giờ bố vẫn chẳng hiểu đâu nhưng mẹ con đã dạy cho con rất nhiều rồi, và con có biết rằng con là đứa duy nhất mà mẹ con chuyên tâm dạy dỗ đến thế không? Mẹ con là một người mẹ tốt nhưng chẳng có ông anh nào của con từng được nghe đến một tiếng Hy Lạp hết.”

Tôi gật đầu. Vài người anh của tôi không lấy làm hài lòng lắm với chuyện này, đặc biệt là Jack, và điều ấy đôi khi làm cuộc đời tôi hơi khó sống.

“Không, cô gái ấy không thể giải nghĩa bằng lời rằng đấy là gì, nhưng có điều gì đó từ ngoài khơi xa kia đang làm cho cô ấy kinh sợ. Bố chẳng nghĩ ra được đấy là gì, nhưng rồi mặt trời vừa nhú lên khỏi đường chân trời thì cô ấy thét váng lên.

“Bố nhìn chằm chằm vào cô ấy nhưng vẫn không thể tin vào mắt mình: những vết phồng rộp bé xíu bắt đầu xuất hiện trên da cô cho đến khi, chỉ trong vòng chưa đầy một phút, cả người cô ấy là một trời đau đớn. Cô ấy khiếp sợ mặt trời. Cho đến tận bây giờ, như con chắc hẳn đã lưu ý, mẹ con luôn thấy khổ sở khi phải ra ngoài dưới ánh mặt trời của Hạt, nhưng ánh nắng trên vùng đất đó gay gắt đến mức nếu không được giúp đỡ thì cô ấy sẽ mất mạng.”

Bố dừng lại thở lấy hơi, còn tôi nghĩ ngợi về mẹ. Trước nay tôi vẫn biết là mẹ hay tránh ánh nắng mặt trời – nhưng dù có biết tôi cũng chẳng để tâm đến làm gì.

“Bố thì làm gì được cơ chứ?” Bố tôi tiếp tục. “Bố phải suy nghĩ cấp tốc, thế nên bố cởi phăng áo mình ra che cho cô ấy. Chiếc áo không đủ lớn và chẳng còn cách nào khác hơn là bố phải dùng cả quần của mình. Rồi bố đứng lom khom ở đấy, quay lưng về phía mặt trời, để cho bóng của bố phủ lên cô ấy, che chắn cho cô ấy khỏi ánh nắng dữ dội.

“Bố đứng mãi như thế cho đến lúc chiều tà, khi mặt trời đã khuất sau ngọn đồi. Lúc đó thuyền của bố đã ra khơi mà không có bố, còn lưng bố thì rộp lên vì cháy nắng, nhưng mẹ con vẫn còn sống và các vết phồng trên người đã mờ đi. Bố chật vật tìm cách giải thoát cô ấy khỏi sợi xích, nhưng cho dù là ai đã thắt những gút ấy thì đó phải là kẻ am hiểu tường tận về các loại gút hơn một tay thủy thủ như bố nhiều. Chỉ đến khi bố tháo được xích ra khỏi người cô gái, bố mới chú ý thấy một việc thật tàn ác đến khó tin. Ý bố là, cô ấy là một người tốt, mẹ con ấy – làm thế nào mà ai đó có thể làm một việc như thế, lại còn với một cô gái nữa chứ?”

Bố tôi chợt im bặt và nhìn chăm chăm xuống hai tay mình, tôi có thể thấy hai tay bố run rẩy khi hồi tưởng lại những gì ông đã chứng kiến. Tôi chờ trong một phút rồi mới nhẹ nhàng gợi ý.

“Là gì vậy hả bố?” tôi hỏi. “Người ta đã làm gì thế ạ?”

Khi ngước nhìn lên, mắt bố ngấn lệ. “Bọn chúng đã đóng đinh bàn tay trái của mẹ con vào tảng đá. Là một cây đinh to đầu bẹt và bố không nghĩ ra được cách nào để giải thoát cho tay cô ấy mà không làm cô ấy phải đau hơn nữa. Nhưng cô gái chỉ mỉm cười giằng tay mình rách ra, để cây đinh vẫn còn dính vào tảng đá. Máu chảy thành giọt nhỏ xuống đất cạnh chân cô ấy nhưng cô gái vẫn đứng lên đi về phía bố như thể chẳng có chuyện gì.

“Bố lùi một bước và sém chút rơi ra khỏi mỏm đá, nhưng cô ấy đã đặt tay phải mình lên vai bố làm bố đứng vững lại, và rồi chúng ta hôn nhau. Là một thủy thủ mỗi năm ghé qua hàng tá cảng, trước đấy bố từng hôn vài cô rồi, nhưng thường là chỉ sau khi bố nốc đầy cả bia thành ra đờ đẫn, đôi khi còn sắp ngất đi nữa ấy chứ. Bố chưa bao giờ hôn một cô gái khi còn tỉnh táo và chắc chắn là không làm điều ấy giữa ban ngày ban mặt. Bố không thể cắt nghĩa được nhưng ngay lập tức bố biết cô gái ấy là một nửa của mình. Là người phụ nữ mà mình sẽ chung sống hết phần đời còn lại.”

Đến đây bố tôi lại ho và ho thật lâu. Khi dứt cơn thì bố hụt cả hơi và phải chờ thêm đôi ba phút nữa tôi mới nói được trở lại. Lẽ ra tôi nên để cho bố nghỉ ngơi nhưng tôi biết có thể mình chẳng còn cơ hội nào nữa. Đầu óc tôi quay cuồng. Có điều gì đấy trong câu chuyện của bố gợi nhắc cho tôi nhớ đến những gì Thầy Trừ Tà đã viết về Meg. Mụ ta cũng từng bị trói bằng xích. Khi được thả ra mụ đã hôn Thầy Trừ Tà cũng như mẹ tôi hôn bố. Tôi thắc mắc không biết sợi xích ấy có phải là xích bạc hay không nhưng tôi không thể hỏi được. Một phần trong tôi không muốn biết câu trả lời. Nếu bố muốn tôi biết, hẳn bố đã kể rồi.

“Chuyện gì xảy ra tiếp theo vậy bố? Làm thế nào mà bố quay về nhà được vậy?”

“Mẹ con có tiền, con trai à. Bà sống một mình trong căn nhà rộng nằm trong khu vườn có tường cao bao quanh. Nơi ấy cách chỗ bố tìm thấy mẹ chưa tới một dặm, thế nên chúng ta đi về đó và bố ở lại nơi ấy. Bàn tay của mẹ con nhanh chóng lành lặn mà chẳng để lại dù là những vết sẹo mờ nhất, và bố dạy cho mẹ ngôn ngữ của mình. Hay, thật ra mà nói, là mẹ hướng dẫn cho bố cách dạy mẹ. Bố chỉ vào một vật và lớn tiếng gọi tên nó. Khi mẹ con lặp lại những gì bố nói thì bố chỉ cần gật đầu tỏ ý là đúng. Một từ chỉ cần dạy một lần là đủ. Mẹ con thực sáng dạ lắm, con trai à. Rất sáng dạ. Bà ấy là một người phụ nữ thông minh và không bao giờ quên cái gì cả.

“Mà thôi, bố ở lại căn nhà ấy trong nhiều tuần và cũng rất vui vẻ, trừ vài ba đêm nào đó những bà chị của mẹ con đến thăm. Họ có hai người, cao dong dỏng, vẻ mặt hung tợn. Họ thường nhóm một đống lửa bên ngoài phía sau nhà và ngồi ở đấy cho đến sáng để nói chuyện với mẹ con. Thỉnh thoảng ba người bọn họ nhảy nhót quanh đống lửa; những đêm khác thì họ chơi xúc xắc. Nhưng mỗi lần họ đến bao giờ cũng có tranh cãi và dần dà các cuộc tranh cãi càng theo chiều hướng xấu đi.

“Bố biết ắt hẳn là điều gì đó liên quan đến bố, vì các bà chị của mẹ con thường quắc mắt nhìn bố qua cửa sổ với vẻ giận dữ và mẹ con phải vẫy tay bảo bố quay vào phòng. Không, hai người ấy không thích bố lắm và bố nghĩ, đấy là lý do chủ yếu buộc chúng ta phải rời bỏ căn nhà ấy và quay lại Hạt.

“Lúc ra đi bố chỉ là một tay làm thuê, một thủy thủ bình thường, nhưng khi quay về thì bố như là một người đức cao vọng trọng. Mẹ con đã chi tiền cho chuyến đi về và chúng ta thuê hẳn một ca-bin cho riêng chúng ta. Rồi mẹ con mua nông trại này và bố mẹ làm lễ cưới trong nhà thờ nhỏ ở Mellor, nơi bố mẹ của bố được chôn cất. Mẹ con không tin vào những gì chúng ta tin nhưng bà đã làm thế vì bố để cho láng giềng khỏi bàn tán dị nghị, và đến trước cuối năm thì anh Jack của con chào đời. Ta đã có một cuộc sống tốt đẹp, con à, và phần tốt đẹp nhất bắt đầu vào cái ngày bố gặp mẹ con. Nhưng bố kể cho con nghe chuyện này là vì bố muốn con hiểu. Con có biết rằng, một mai khi bố qua đời, mẹ con sẽ quay về quê hương của bà, trở lại nơi bà thuộc về không?”

Tôi há hốc mồm ngạc nhiên khi nghe bố nói thế. “Thế còn gia đình của mẹ thì sao?” tôi hỏi. “Chắc chắn là mẹ không muốn rời xa các cháu của mình đâu.”

Bố tôi buồn bã lắc đầu. “Ta không nghĩ là mẹ con còn lựa chọn nào khác đâu, con trai. Mẹ con từng bảo với bố là bà còn một số chuyện mà bà gọi là ‘chút chuyện dang dở’ ở bên ấy. Bố không biết đấy là chuyện gì, vả lại mẹ cũng chưa bao giờ bảo cho bố biết vì sao bà lại bị trói vào tảng đá cho chết. Bà có cuộc đời và thế giới riêng của mình, và khi đến thời điểm, bà sẽ quay lại với chúng, vậy nên con đừng làm khó mẹ con đấy. Nhìn bố này, anh bạn. Con thấy gì nào?”

Tôi chẳng biết phải nói gì.

“Con đang thấy một ông già không còn sống được bao lâu trên cõi đời này nữa. Bố nhìn ra sự thật này mỗi khi bố nhìn vào gương, vậy nên con đừng cố bảo bố là bố nói không đúng làm gì. Còn mẹ con, bà ấy còn đang trong thời xuân sắc. Có thể bà không còn là cô gái một thời nữa, nhưng bà vẫn có biết bao nhiêu năm sống khỏe mạnh. Nếu không phải vì những việc bố làm trong ngày hôm đấy, thì mẹ con hẳn sẽ chẳng thèm để mắt đến bố đâu. Mẹ con xứng đáng được có tự do, vậy nên con hãy để cho bà ra đi với nụ cười. Con sẽ làm vậy chứ, con trai?”

Tôi gật đầu rồi ngồi im bên cạnh bố cho đến khi ông bình thản trở lại và thiếp vào giấc ngủ.