CHƯƠNG 15 SỢI XÍCH BẠC
Khi tôi xuống dưới nhà thì mẹ tôi đã quay trở lại. Tôi nóng lòng muốn hỏi Thầy Trừ Tà ra sao rồi và mẹ đã làm gì cho thầy nhưng lại không có dịp. Nhìn qua cửa sổ, tôi thoáng thấy Jack đang băng qua sân cùng Ellie, đứa bé được công kênh trên hai tay họ.
“Mẹ đã làm những việc có thể cho thầy con rồi, con trai à,” mẹ tôi thì thầm ngay trước khi Jack mở cửa vào. “Chúng ta sẽ nói chuyện sau bữa tối.”
Jack đứng sững trên lối cửa nhìn tôi một đỗi, bao cảm xúc lẫn lộn thoáng qua mặt anh ấy. Cuối cùng anh cũng mỉm cười rồi bước đến đặt một tay lên vai tôi.
“Anh vui khi gặp lại chú đấy, Tom ạ,” anh bảo.
“Em đang trên đường về Chipenden nên tiện thể ghé qua đây,” tôi bảo với Jack. “Em định tạt vào xem mọi người có khỏe không thôi mà. Nếu biết bố ốm em đã ghé thăm sớm hơn rồi...”
“Giờ bố đang bình phục,” Jack bảo. “Đấy mới là điều quan trọng.”
“Ồ phải đấy Tom, bố giờ đã khỏe hơn nhiều rồi,” Ellie tán thành. “Vài tuần nữa bố lại khỏe như thường ấy mà.”
Tôi có thể thấy vẻ mặt buồn rầu của mẹ lại nói lên điều ngược lại. Sự thật là nếu bố còn sống được đến mùa xuân thì đã may mắn lắm rồi. Mẹ biết vậy và tôi cũng thế.
Trong bữa tối ai nấy đều có vẻ lạnh nhạt, kể cả mẹ. Tôi không đoán được đó là vì tôi có mặt ở đây hay là vì cơn bệnh của bố đã làm cho mọi người im lặng đến vậy, nhưng trong suốt bữa ăn Jack chỉ buồn gật đầu với tôi thôi, còn khi anh ấy có mở miệng thì chỉ để nói những lời cay mỉa.
“Chú trông xanh xao đấy Tom,” Jack nói. “Chắc phải là do ba cái trò lén lút trong bóng tối ấy nhỉ. Không tốt cho chú chút nào.”
“Đừng có lỗ mãng thế chứ, Jack!” Ellie mắng. “Mà này, em nghĩ gì về bé Mary của tụi chị nào? Tháng trước anh chị mới cho bé rửa tội đấy. Bé lớn khá nhiều kể từ lần cuối em gặp, phải không nào?”
Tôi mỉm cười gật đầu. Tôi rất đỗi kinh ngạc khi thấy đứa bé lớn mới nhanh làm sao. Thay vì còn là một em bé xíu xiu với khuôn mặt đỏ hồng nhăn nheo, giờ đây con bé đã đầy căng tròn ủm và tay chân cứng cáp cùng vẻ mặt lanh lợi hiếu kỳ. Bé trông như đã sẵn sàng rời khỏi đầu gối chị Ellie mà bắt đầu bò quanh sàn bếp rồi.
Tôi không thấy đói cho lắm, nhưng ngay khi mẹ xúc một phần đầy ắp món hầm nóng sốt vào đĩa cho tôi thì tôi cắm cúi ăn ngay.
Chúng tôi vừa dùng bữa xong thì mẹ đã mỉm cười với anh Jack và chị Ellie. “Mẹ có chuyện phải bàn với Tom,” bà nói. “Vậy sao hai con không lên lầu ngủ sớm một lần đi nhỉ? Với lại Ellie này, đừng lo chuyện rửa bát đĩa. Mẹ sẽ làm cho.”
Trong đĩa vẫn còn sót lại chút món hầm và tôi nhìn thấy mắt Jack đảo nhanh từ đĩa ấy sang mẹ. Nhưng Ellie đã đứng dậy nên Jack chậm chạp làm theo. Tôi có thể thấy là anh ấy chẳng vui vẻ gì.
“Con nghĩ con sẽ dẫn chó dạo quanh hàng rào ngoài rìa trước đã,” anh nói. “Tối qua có con cáo lởn vởn quanh đấy.”
Anh vừa rời khỏi phòng thì tôi buột miệng hỏi ngay câu hỏi mà nãy giờ tôi đang nôn nóng muốn biết.
“Thầy ấy sao rồi mẹ? Liệu thầy Gregory có ổn không ạ?”
“Mẹ đã làm những gì có thể cho ông ấy rồi,” mẹ tôi đáp. “Nhưng những vết thương vùng đầu thường là tự chúng lành lại bằng cách này hay cách khác. Chỉ có chờ mới biết thôi. Mẹ nghĩ con nên đưa thầy trở về Chipenden càng sớm càng tốt. Ở đây ông ấy cũng được chào đón nhưng mẹ phải tôn trọng ý kiến của Jack và Ellie nữa.”
Tôi gật đầu và buồn bã nhìn xuống bàn.
“Con có thể ăn thêm phần nữa không, Tom?” mẹ hỏi.
Tôi không chờ được bảo đến lần thứ hai và mẹ tôi mỉm cười khi tôi cắm cúi ăn. “Mẹ chỉ lên lầu xem bố con ra sao thôi,” bà nói.
Loáng sau mẹ đã quay xuống. “Ông ấy ổn,” bà bảo. “Ông chỉ gật đầu bảo muốn ngủ tiếp.”
Mẹ ngồi xuống đối diện và nhìn tôi ăn, gương mặt bà trở nên nghiêm nghị. “Những vết thương mẹ nhìn thấy trên mấy ngón tay của Alice – có phải đấy là nơi Quỷ Độc hút máu của con bé không?”
Tôi gật đầu.
“Con có còn tin nó sau bao nhiêu chuyện đã xảy ra không?” đột nhiên mẹ tôi hỏi.
Tôi nhún vai. “Con không biết phải làm gì. Cô ấy đã bước sang thế giới bóng tối, nhưng không có cô ấy thì Thầy Trừ Tà và rất nhiều người vô tội khác nữa hẳn đã mất mạng rồi.”
Mẹ tôi thở dài. “Thật là chuyện khó chịu và mẹ cũng không chắc là câu trả lời đã rõ ràng chưa nữa. Ước sao mẹ có thể đi cùng để giúp con mang thầy con trở về Chipenden, vì đấy sẽ là cuộc hành trình không dễ dàng gì, nhưng mẹ không thể bỏ bố con lại. Nếu không được chăm sóc cẩn thận bố con có thể tái phát và mẹ không muốn mạo hiểm để chuyện đó xảy ra.”
Tôi dùng một miếng bánh mì chùi sạch đĩa rồi đẩy lùi ghế ra sau.
“Con nghĩ tốt hơn là con nên lên đường thôi mẹ ạ. Con ở đây càng lâu thì càng khiến mọi người chóng gặp nguy hiểm hơn. Chẳng có cách nào tên Phán Quan chịu để cho bọn con bỏ đi mà không đuổi theo cả. Hơn nữa bây giờ tên Quỷ Độc còn tự do và đã uống máu của Alice nữa chứ, nên con không thể mạo hiểm dẫn đường cho hắn đến đây được.”
“Khoan hãy vội đi đã,” mẹ tôi bảo. “Để mẹ cắt ít khoanh giăm bông và bánh mì cho con ăn dọc đường.”
“Cảm ơn mẹ ạ.”
Mẹ tôi bắt tay vào xắt bánh mì trong khi tôi dõi theo, lòng ước sao mình có thể nán lại lâu hơn. Trở về nhà thật hạnh phúc làm sao, cho dù chỉ ở được có một đêm cũng thế.
“Tom này, trong những bài học của con về phù thủy ấy mà, thầy Gregory có nói cho con biết về loại phù thủy sử dụng thuật hiệp thần không vậy?”
Tôi gật đầu. Những loại phù thủy khác nhau luyện thành sức mạnh theo nhiều cách khác nhau. Một số kẻ sử dụng cốt thuật, kẻ khác sử dụng huyết thuật; gần đây thầy có bảo tôi về loại phù thủy thứ ba và thậm chí còn là loại nguy hiểm hơn hẳn. Bọn chúng sử dụng phép được gọi là “phép hiệp thần”. Chúng đưa máu mình cho một sinh vật nào đó – có thể là một con mèo, con cóc hay thậm chí là dơi. Để đổi lại, sinh vật ấy biến thành tai thành mắt cho bọn họ và làm theo những gì họ muốn. Nhiều khi sinh vật ấy trở nên mạnh đến nỗi bọn phù thủy hoàn toàn rơi vào quyền kiểm soát của nó và bản thân bọn họ chỉ còn rất ít hoặc dường như là không còn chút ý chí nào.
“À, đấy là những gì mà Alice nghĩ là hiện giờ con bé đang làm đấy, Tom ạ – sử dụng phép hiệp thần. Con bé đã giao kèo với kẻ ấy và đang sử dụng hắn để có được thứ mình muốn. Nhưng con trai ơi, con bé ấy đang chơi một trò chơi nguy hiểm. Nếu bất cẩn, nó sẽ có kết cục làm tôi tớ cho kẻ ấy và con không bao giờ còn tin tưởng được nó nữa đâu. Ít nhất là trong khi Quỷ Độc vẫn còn sống.”
“Thầy Gregory bảo Quỷ Độc đang ngày càng lớn mạnh đấy mẹ. Rằng chẳng bao lâu nữa hắn sẽ có thể khôi phục lại hình hài nguyên thủy của hắn. Con từng thấy hắn dưới khu hầm mộ rồi – hắn đã biến thành Thầy Trừ Tà và cố lừa con. Vậy nên rõ ràng là ở dưới ấy hắn đang ngày một trở nên mạnh hơn.”
“Đúng là vậy thật nhưng những gì vừa xảy ra sẽ làm cho hắn loạng choạng một tí. Con thấy đấy, Quỷ Độc sẽ vẫn còn phải sử dụng rất nhiều năng lượng để thoát được khỏi cái nơi mà hắn đã bị chèn ép trong biết bao nhiêu năm dài. Vậy nên lúc này đây hắn sẽ rất hoang mang bối rối, chắc là giờ hắn đã trở lại là một linh hồn rồi và chưa đủ mạnh để khoác lốt da thịt vào đâu. Chắc hẳn hắn sẽ không thể nào thu phục được toàn bộ sức mạnh cho đến khi giao kèo máu với Alice được hoàn tất.”
“Liệu hắn có thể nhìn qua mắt của Alice không ạ?” tôi hỏi.
Ý nghĩ ấy mới đáng sợ làm sao. Tôi sắp sửa phải đi cùng Alice trong đêm tối. Tôi nhớ lại cảm giác bị sức nặng của Quỷ Độc ép trên đầu và hai vai mình, biết là mình sắp bị chẹt và thời khắc cuối cùng của đời mình sắp đến. Có lẽ sẽ an toàn hơn nếu tôi chờ cho đến khi mặt trời lên...
“Không, chưa đâu con ạ. Alice đã cho hắn máu và sự tự do. Để đổi lại hắn sẽ phải hứa nghe theo lời con bé ba lần, nhưng qua mỗi lần thì hắn sẽ muốn thêm nhiều máu của con bé hơn. Sau khi lại cho hắn uống máu tại đám hỏa thiêu ở Wortham, con bé sẽ yếu đi và ngày càng khó cưỡng lại hắn. Nếu Alice cho Quỷ Độc uống máu thêm lần nữa, hắn có thể nhìn qua mắt của con bé. Cuối cùng, sau lần uống máu thứ ba, Alice sẽ thuộc về Quỷ Độc và hắn sẽ có đủ sức mạnh để trở lại nguyên hình. Đến lúc đó chẳng ai có thể làm gì để cứu Alice đâu,” mẹ tôi bảo.
“Vậy nghĩa là dù Quỷ Độc đang ở đâu thì hắn cũng sẽ tìm theo Alice ư?”
“Hắn sẽ tìm theo đấy con ạ, nhưng trong khoảng thời gian ngắn này thì chưa đâu, trừ phi con bé triệu hắn đến, bằng không cơ hội để hắn tìm ra chỗ của Alice không cao lắm. Nhất là khi con bé đang trên đường di chuyển. Nếu con bé ở yên một chỗ trong một khoảng thời gian dài bất kỳ thì Quỷ Độc sẽ có nhiều cơ hội tìm ra nó hơn. Nhưng mà qua mỗi đêm hắn sẽ trở nên mạnh hơn đấy, nhất là khi hắn ra tay với vài nạn nhân khác. Bất kể loại máu nào cũng có thể giúp cho hắn hết, dù là máu người hay máu động vật. Ai đó đi một mình trong đêm tối sẽ rất dễ bị khủng bố. Rất dễ thuận lòng làm theo ý hắn. Trong một khoảng thời gian hắn sẽ tìm theo Alice, và rồi sau đó hắn sẽ ở bất cứ nơi đâu gần với con bé trừ lúc ban ngày, khi đấy chắc chắn hắn ở dưới đất. Những sinh vật từ thế giới bóng tối hiếm khi lang thang đây đó khi có ánh sáng lắm. Nhưng với Quỷ Độc được tự do ngang dọc thế này, đang ngày một phục hồi sức mạnh, thì mọi người trong Hạt đều phải lo sợ khi màn đêm buông xuống.”
“Mọi chuyện bắt đầu như thế nào vậy mẹ? Thầy Gregory kể với con là vua Heys – vua của Người Lùn – đã phải hy sinh các con trai của mình cho Quỷ Độc và không biết bằng cách nào mà người con út đã chèn được hắn.”
“Đấy là một câu chuyện kinh khủng và đáng buồn,” mẹ tôi đáp. “Thật không ai dám nghĩ đến những gì đã xảy ra cho các người con của đức vua. Nhưng mẹ nghĩ tốt hơn là con nên biết để hiểu được con đang chống lại thứ gì. Quỷ Độc sống dưới những khu hầm mộ ở Heysham, giữa xương cốt của người đã khuất. Đầu tiên hắn bắt người con cả đến đấy rồi đối xử với anh ta như đồ chơi, nhặt nhạnh hết những ý nghĩ và mơ ước trong trí óc của anh ta cho đến khi chẳng còn sót lại gì ngoài nỗi đau đớn và tuyệt vọng u tối nhất. Và hắn tiếp tục làm thế với hết người con trai này đến người con trai khác. Con nghĩ xem cha của họ đã phải cảm thấy thế nào nào! Ông ấy là một vị vua, thế mà chẳng thể làm gì để cứu vãn được.”
Mẹ tôi buồn bã thở dài. “Chẳng có người con nào của vua Heys sống sót được hơn một tháng dưới kiểu tra tấn như thế. Ba người đã nhảy xuống từ mỏm đá gần đấy để rồi tan xác trên bãi đá bên dưới. Hai người khác không chịu ăn uống gì rồi chết dần chết mòn. Người con thứ sáu bơi thẳng ra biển cho đến khi sức cùng lực kiệt và chết đuối – xác của anh ta được những cơn thủy triều mùa xuân đưa dạt vào bờ. Cả sáu người con ấy đều được chôn dưới những thạch mộ khắc từ chính rặng núi đá. Một nấm mồ xa hơn đó một tí là nơi chôn cất của vua cha, ông qua đời chẳng bao lâu sau cái chết của người con thứ sáu, vì quá đau buồn. Vậy nên chỉ còn lại Naze, người con út của ông, người con thứ bảy, là sống được lâu hơn ông.
“Bản thân vị vua cũng là người con thứ bảy, nên Naze cũng giống như con và có thiên khiếu. Ông ấy nhỏ bé, thậm chí là so với chuẩn của các thần dân, và dòng máu cổ xưa chạy rần rật tràn qua các huyết quản của ông. Bằng cách nào đó ông ấy đã chèn được Quỷ Độc nhưng không ai biết chính xác là thế nào, cả thầy con cũng không biết. Sau đó kẻ này đã giết chết Naze ngay tại chỗ, chẹt ông ấy bẹp dí vào phiến đá. Nhiều năm sau đó, vì xương cốt của ông làm cho Quỷ Độc nhớ lại mình đã bị phỉnh như thế nào, nên hắn đã nghiền nát xương cốt ông ấy thành hàng mảnh nhỏ rồi hắt qua Cổng Bạc, để rồi sau đấy thần dân của Naze có thể mai táng ông ấy cho đàng hoàng. Những gì còn sót lại của ông ấy được chôn cùng với những người anh khác dưới những tấm bia đá ở Heysham, nơi được đặt tên theo tên của vị vua cổ đại.”
Hai mẹ con tôi chẳng nói năng gì một đỗi lâu. Thật là một câu chuyện kinh khủng.
“Vậy thì giờ đây làm sao chúng ta ngăn được hắn khi hắn lại được tự do hả mẹ?” tôi hỏi, phá tan bầu im lặng. “Làm sao ta có thể kết liễu hắn?”
“Để việc ấy cho thầy Gregory đi Tom. Con chỉ cần giúp thầy quay lại Chipenden để thầy phục hồi và mạnh khỏe trở lại thôi. Rồi thầy sẽ quyết định nên làm gì tiếp. Cách dễ nhất là chèn hắn lại, nhưng dù có thành công hắn vẫn có khả năng tác oai tác quái, mà những năm gần đây hắn đã làm thế mỗi lúc một nhiều hơn. Nếu như lấy lại được hình hài trước đây ở dưới khu hầm mộ ấy, nhất định hắn sẽ tung hoành trở lại. Rồi chẳng bao lâu sau, khi sức mạnh đã tăng lên, hắn sẽ trở về được nguyên thể, sẽ tiếp tục phá hoại Priestown và cả Hạt bao quanh nữa. Vậy nên dù là khi hắn bị chèn thì chúng ta có được an toàn hơn chút đấy, nhưng thế vẫn không phải là giải pháp rốt ráo. Thầy của con phải nghiên cứu cách kết liễu cho được hắn, vì lợi ích của tất cả mọi người.”
“Nhưng lỡ thầy không hồi phục thì sao ạ?”
“Thôi ta cứ hy vọng là thầy con sẽ hồi phục đi nào, vì còn rất nhiều việc cần được hoàn tất mà có lẽ con chưa sẵn sàng để đảm đương nổi đâu. Biết không con trai, bất cứ nơi nào Alice đi qua, Quỷ Độc sẽ lợi dụng con bé để làm tổn thương những người khác, nên thầy con chắc là sẽ chẳng có lựa chọn nào hơn là phải nhốt con bé xuống hố.”
Mẹ tôi trông lo lắng bất an, rồi đột nhiên bà ngừng lời, đặt tay lên trán, nhắm nghiền mắt lại, như thể bà bất chợt bị đau đầu khủng khiếp.
“Mẹ, mẹ có sao không?” tôi lo lắng hỏi.
Bà gật đầu mỉm cười yếu ớt. “Này con, con ngồi ở đây một chốc nhé. Mẹ cần phải viết một bức thư cho con mang đi.”
“Một bức thư à? Cho ai thế ạ?”
“Ta sẽ nói nhiều hơn khi mẹ viết xong.”
Tôi ngồi trên ghế bên lò sưởi, nhìn chăm chăm vào đống than hồng trong khi mẹ tôi ngồi viết tại bàn. Tôi thắc mắc không biết mẹ đang viết gì nhỉ. Khi viết xong, bà ngồi xuống ghế đu của mình và đưa chiếc phong bì cho tôi. Phong bì đã được niêm kín và trên đấy có viết:
Gửi con trai út của ta, Thomas J. Ward
Tôi ngạc nhiên quá. Tôi cứ tưởng đấy phải là lá thư gửi cho Thầy Trừ Tà để thầy đọc khi thầy khỏe hơn chứ.
“Sao mẹ lại viết cho con vậy mẹ? Sao mẹ không nói ngay cho con biết những gì mẹ cần phải nói chứ?”
“Vì mỗi một điều nhỏ bé ta làm đều khiến mọi việc thay đổi, con à,” mẹ dịu dàng đặt tay lên cánh tay trái của tôi. “Nhìn thấy trước tương lai là rất nguy hiểm, và trao đổi thông tin về những gì ta nhìn thấy lại còn nguy hiểm hơn gấp bội. Thầy con phải đi theo con đường của chính thầy. Ông ấy phải tìm ra lối đi riêng cho mình. Mỗi người chúng ta ai cũng có tự do ý chí. Nhưng trước mặt chúng ta đây rồi sẽ có bóng đen bao phủ, nên mẹ phải làm mọi cách trong quyền hạn của mình để ngăn ngừa những chuyện tồi tệ nhất có khả năng xảy đến. Con hãy chỉ mở lá thư này ra trong thời khắc cần kíp nhất, khi tương lai dường như không còn trông mong gì được nữa. Hãy tin vào trực giác của mình. Con sẽ biết ngay khi nào thời khắc ấy đến – dù mẹ cầu mong cho con rằng thời khắc ấy sẽ chẳng bao giờ xảy ra cả. Từ giờ đến lúc đó, con nhớ cất giữ bức thư này cho cẩn thận.”
Thuận theo lời mẹ, tôi nhét lá thư vào bên trong áo khoác.
“Giờ thì đi theo mẹ nào. Mẹ có thứ này cho con đây.”
Từ giọng nói lẫn cung cách khác lạ của mẹ, tôi có thể đoán được là chúng tôi sẽ đi đến đâu. Và tôi đã đúng. Tay cầm theo nến trong chân nến bằng đồng, mẹ dẫn tôi lên lầu đến phòng kho riêng của mẹ, là căn phòng được khóa kín ngay bên dưới rầm thượng. Ngày nay, ngoài mẹ ra thì không có ai đi vào căn phòng đó. Cả bố cũng không. Khi còn bé tôi từng theo mẹ vào trong đấy vài lần, mặc dù bây giờ tôi chẳng còn nhớ gì nhiều lắm.
Lôi từ trong túi ra một chiếc chìa, mẹ tôi mở khóa cửa và tôi theo bà vào bên trong. Căn phòng chất đầy những rương và hộp. Tôi biết mẹ thường vào trong này mỗi tháng một lần. Nhưng bà làm gì thì tôi không thể đoán ra.
Mẹ tôi bước vào phòng và dừng lại trước một chiếc hòm lớn gần với cửa sổ nhất. Rồi bà nhìn tôi chăm chăm cho đến khi tôi thấy hơi khó chịu một chút. Bà là mẹ của tôi và tôi rất yêu bà, nhưng chắc chắn là tôi sẽ chẳng thích phải làm kẻ thù của bà chút nào cả.
“Con đã theo thầy Gregory học việc được gần sáu tháng, vậy nên con cũng có nhiều thời gian tự mình chứng kiến nhiều việc rồi,” bà nói. “Và đến giờ phút này thế lực bóng tối đã để ý đến con, sau đó sẽ cố truy diệt con. Vậy nên con đang ở trong vòng nguy hiểm, và trong một quãng thời gian mối nguy hiểm đó sẽ mỗi lúc một tăng dần. Nhưng hãy nhớ lấy điều này. Con cũng ngày càng tiến bộ nữa. Con đang tiến bộ rất nhanh. Mỗi một hơi thở, mỗi một nhịp đập của trái tim con đều làm cho con mạnh hơn, can đảm hơn, giỏi giang hơn. Bao nhiêu năm nay John Gregory đã chống chọi với thế giới bóng đêm để dọn đường cho con. Vì lẽ, con trai à, khi con trưởng thành làm một người đàn ông, sẽ phải đến phiên thế lực bóng tối phải khiếp sợ con. Bởi khi ấy con sẽ là người đi săn, chứ không phải là kẻ bị săn đuổi. Đấy là lý do vì sao ta đã ban cho con sự sống.”
Kể từ khi bước chân vào phòng thì đây là lần đầu tiên mẹ mỉm cười với tôi, nhưng đấy là một nụ cười buồn. Đoạn, tay nâng nắp hộp lên, bà giơ cao ngọn nến cho tôi thấy thứ đang nằm trong hộp.
Một sợi xích bạc với những mắt xích tinh xảo lấp lánh sáng ngời dưới ánh nến. “Cầm nó lên đi,” mẹ tôi bảo. “Mẹ không thể chạm vào nó được.”
Lời mẹ nói làm tôi rùng mình bởi có điều gì đấy mách bảo với tôi rằng đây cũng chính là sợi xích đã trói mẹ tôi vào tảng đá. Bố không có nói đấy là xích bạc, một sự bỏ sót chi tiết trọng yếu bởi lẽ xích bạc luôn được dùng để trói phù thủy. Đấy là một công cụ quan trọng trong nghề trừ tà. Liệu có thể nào mẹ tôi là phù thủy? Có lẽ là một phù thủy nữ yêu như là Meg chăng? Sợi xích bạc, cái cách mẹ tôi hôn lấy bố tôi – tất cả đều nghe quen lắm.
Tôi nhấc sợi xích lên và cầm nó thăng bằng trên hai tay. Sợi xích mảnh và nhẹ, chất lượng tốt hơi xích của Thầy Trừ Tà, trong hợp kim này có chứa lượng bạc nhiều hơn.
Như thể đã đoán ra được tôi đang nghĩ gì, mẹ tôi lên tiếng, “Mẹ biết bố đã kể cho con nghe bố mẹ gặp nhau thế nào rồi. Nhưng con ạ, hãy luôn nhớ lấy điều này. Tất cả chúng ta không có ai là thật tốt hay thật xấu cả – chúng ta luôn ở lưng chừng chính giữa – nhưng trong cuộc đời của mỗi người luôn có một thời khắc khi chúng ta phải bước một bước quan trọng, hoặc là về phía ánh sáng hoặc về phía bóng tối. Đôi khi đấy là quyết định mà ta thầm đưa ra trong đầu. Hay có thể chỉ vì một người đặc biệt nào đó ta gặp được. Vì những gì bố con từng làm cho mẹ mà mẹ đã bước theo hướng đúng đắn, và đấy là vì sao hôm nay mẹ đang đứng đây. Giờ đây sợi xích này thuộc về con. Con hãy cất nó đi và giữ gìn cẩn thận cho đến khi con phải dùng đến.”
Tôi quấn sợi xích quanh cổ tay mình rồi nhét nó vào túi trong, cạnh bên bức thư. Xong xuôi, mẹ tôi đóng nắp hộp lại và tôi theo bước bà ra khỏi phòng, đứng chờ bà khóa cửa lại.
Xuống dưới nhà, tôi cầm lấy túi bánh mì kẹp và chuẩn bị ra đi.
“Để mẹ coi tay con trước khi con đi đã nào!”
Tôi chìa tay ra và mẹ tôi cẩn thận tháo những sợi chỉ rồi tuốt lớp lá đắp ra. Vết phỏng hình như đã lành hết rồi.
“Con bé ấy hiểu biết việc mình làm,” mẹ tôi bảo. “Khoản này mẹ nể nó đấy. Giờ con để cho vết thương thoáng khí rồi vài ngày nữa sẽ lành ngay thôi.”
Mẹ ôm chầm lấy tôi, rồi sau khi nói lời cảm ơn mẹ lần nữa, tôi mở cửa sau nhà và bước vào đêm tối. Đang băng qua nửa cánh đồng, hướng thẳng về phía hàng rào ven rìa, tôi nghe thấy tiếng chó sủa và một dáng người đang xăm xăm xuyên qua bóng tối đi về phía tôi.
Là Jack, và khi anh đến gần, nhờ ánh sao mà tôi thấy được gương mặt anh cau có giận dữ.
“Mày nghĩ tao ngu hay sao thế hử?” anh quát tháo. “Hử? Đám chó chẳng mất tới năm phút là tìm thấy bọn chúng rồi!”
Tôi nhìn sang mấy con chó đang co rúm sau chân Jack. Chúng là chó săn và không hiền lành gì, nhưng chúng biết tôi còn tôi thì những mong chúng sẽ vẫy đuôi mừng tôi hay sao đó. Có thứ gì đó đã làm cho chúng sợ khiếp lên.
“Mày cũng nên nhìn mà xem,” Jack bảo. “Con nhỏ ấy rít lên rồi nhổ nước bọt vào mấy con chó này, thế là chúng chạy cắp đuôi như thể Quỷ sứ vừa tóm lấy đuôi chúng vậy. Khi tao bảo con bé cút đi, nó còn cả gan bảo tao là nó đang ở trên đất người khác và chẳng việc gì can dự đến tao cả.”
“Thầy Gregory đang ốm, Jack à. Em không còn lựa chọn nào khác là phải ghé qua xin mẹ giúp. Em đã để thầy với Alice bên ngoài phạm vi nông trại rồi mà. Em biết anh cảm thấy thế nào nên em đã cố hết sức rồi.”
“Hẳn rồi. Tao là thằng đàn ông trưởng thành, thế mà mẹ lại ra lệnh cho tao đi ngủ như thằng con nít. Thế mày nghĩ chuyện ấy sẽ làm tao cảm thấy như thế nào hử? Mà lại còn trước mặt vợ tao nữa chứ. Nhiều khi tao không rõ nông trại này thực chất có phải là của tao không nữa.”
Đến lúc ấy cả tôi cũng nổi đóa lên rồi. Tôi rất muốn bảo cho anh biết là chắc chắn nông trại sẽ thuộc về anh và sẽ còn chóng hơn là anh tưởng nữa đấy. Nông trại sẽ về tay anh một khi bố qua đời và mẹ bỏ về quê quán của bà. Nhưng tôi cắn môi không nói một lời nào.
“Xin lỗi nhé Jack, nhưng em phải đi thôi,” tôi vừa bảo vừa quay bước bỏ đi về phía căn lều nơi tôi đã để Alice và Thầy Trừ Tà lại. Bước được khoảng mươi bước, tôi quay lại nhưng Jack đã quay lưng về phía tôi và đi về nhà anh rồi.
Chúng tôi lên đường mà không ai nói một lời. Tôi đang có nhiều chuyện phải nghĩ và tôi cho là Alice biết điều đó. Thầy Trừ Tà chỉ nhìn chăm chăm vào khoảng không nhưng hình như thầy đã bước vững hơn và không cần phải tựa vào chúng tôi nữa.
Khoảng một tiếng trước khi mặt trời mọc, tôi là đứa đầu tiên mở miệng phá tan bầu im lặng.
“Cậu đói không?” tôi hỏi. “Mẹ tớ có soạn cho chúng ta ít đồ điểm tâm này.”
Alice gật đầu và chúng tôi ngồi xuống bên bờ sông rợp cỏ để ăn. Tôi mời Thầy Trừ Tà chút ít nhưng thầy thô bạo gạt tay tôi đi. Chốc lát sau, thầy bỏ đi ra hơi xa một chút và ngồi lên một bục rào như thể thầy chẳng muốn ngồi đâu gần chúng tôi cả. Hay ít nhất là gần với Alice.
“Thầy trông có vẻ khỏe hơn rồi. Mẹ tớ đã làm gì thế?” tôi hỏi.
“Bà ấy đã gột rửa trán lão ta và cứ nhìn tới nhìn lui vào mắt lão ấy. Rồi bà cho lão ta uống thứ chất thuốc lỏng gì đó. Tớ tránh ra đằng xa và bà chẳng hề liếc về hướng của tớ nữa kia.”
“Đấy là vì mẹ tớ biết cậu đã làm gì. Tớ phải kể cho bà biết. Tớ không thể nói dối mẹ tớ.”
“Tớ chỉ làm những gì có lợi nhất thôi. Tớ đã trả ơn cho lão ta và cứu những người khác. Tớ làm thế cũng vì cậu nữa đấy, Tom à. Để cậu có thể cứu được Lão Gregory của cậu và tiếp tục học hành. Đấy là điều cậu muốn, có phải không? Chẳng phải tớ đã làm điều đúng đắn hay sao?”
Tôi không đáp. Alice đã ngăn không cho tên Phán Quan thiêu chết những người vô tội. Cô ấy đã cứu được rất nhiều mạng người, bao gồm cả Thầy Trừ Tà. Cô ấy đã làm tất cả những chuyện đó và chúng đều là những chuyện tốt. Không, đây không phải là về những gì Alice đã làm, mà là về cách cô ấy thực hiện chúng kia. Tôi muốn giúp cô nhưng tôi chẳng biết phải làm thế nào.
Giờ đây Alice đã thuộc về thế giới bóng tối, và một khi Thầy Trừ Tà khỏe trở lại thì thầy sẽ muốn chôn Alice xuống hố ngay. Alice biết thế, và tôi cũng vậy.