← Quay lại trang sách

Chương 5 NHỮNG GÌ BÊN DƯỚI-

Động đất đúng là có xảy ra, nhưng ở trong Hạt này lại rất hiếm. Trong ký ức của bao người còn sống ở đây, trước giờ chẳng có lấy một vụ động đất nghiêm trọng nào. Ấy vậy mà ngôi nhà cứ rung lắc mãi, tôi thực sự thấy lo ngại. Thế là tôi nhanh nhảu mặc lại quần áo, xỏ ủng vào rồi đi xuống lầu.

Điều đầu tiên tôi chú ý đến cửa xuống hầm đang để mở. Những tiếng động văng vẳng đang từ bên dưới vọng lên, cho nên, vì trong dạ thấy tò mò, tôi bước xuống vài bậc cấp. Dưới đấy, tiếng ùng ục nghe càng lớn hơn và tôi còn nghe rõ mồn một một tiếng thét chói tai, giống tiếng thú hơn là tiếng người.

Nhưng ngay sau đấy, tôi nghe thấy các cánh cổng va nhau loảng xoảng rồi tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Một ngọn nến chập chờn trong bóng tối bên dưới và tiếng bước chân tiến tới mỗi lúc một gần. Trong giây lát tôi thấy hãi sợ, phập phồng không biết đấy là ai, nhưng thoắt sau tôi đã nhìn ra đó chính là Thầy Trừ Tà.

“Cái gì vậy ạ?” tôi hỏi, bụng thầm nghĩ rằng thầy vừa mới xử lý thứ gì đấy dưới kia.

Thầy Trừ Tà nhìn tôi, gương mặt lộ vẻ hốt hoảng giật mình. “Con làm gì vào đêm hôm khuya khoắt thế này?” thầy gặng hỏi. “Có biến ngay đi không, quay trở về giường ngay nào!”

“Con nghĩ con nghe thấy có ai đó khóc đấy ạ,” tôi bảo thầy. “Với lại thứ gì đang gây nên bao tiếng động ấy thế? Là động đất phải không thầy?”

“Không đâu anh bạn, không phải động đất. Cũng chẳng có chuyện gì mà con phải quắn lên đâu! Lúc này đầu óc ta còn bao nhiêu chuyện quan trọng hơn là giải đáp câu hỏi cho con đấy. Mọi thứ sẽ kết thúc trong chốc lát thôi nên con cứ đi về phòng đi, sáng mai ta sẽ nói hết cho con biết,” thầy tôi vừa đáp vừa xua tôi bước ra khỏi mấy bậc thang rồi khóa cửa lại.

Âm giọng thầy mách cho tôi biết có cãi cọ cũng chẳng ích gì, thế nên tôi trở lên lầu, lòng vẫn lo lắng về cái cách ngôi nhà đang tiếp tục rùng rùng rung lắc.

Ừ thì, ngôi nhà đã không sụm xuống, và đúng như lời Thầy Trừ Tà đã hứa, mọi thứ yên tĩnh trở lại. Tôi cố gắng chợp mắt ngủ tiếp nhưng rồi lại thức dậy một giờ trước lúc bình minh và đi xuống bếp. Meg đang ngủ gật trên chiếc ghế đu, tôi không rõ liệu có phải bà ngủ trên ghế ấy suốt đêm hay là đã chui ra khỏi phòng mình khi tiếng ồn kia bắt đầu. Meg không hẳn là đang ngáy, nhưng mỗi khi bà ta thở thì lại phát ra một âm thanh líu ríu khe khẽ.

Cẩn thận để không gây ra lắm tiếng ồn đánh thức Meg dậy, tôi cho thêm ít than vào lò sưởi và chẳng bao lâu sau than bùng cháy thành ngọn. Xong xuôi, tôi ngồi xuống chiếc ghế con cạnh lò sưởi và bắt đầu ôn lại bài về mấy động từ La Tinh. Tôi mang theo mình hai cuốn sổ ghi chép: một cuốn ghi lại tất cả những điều mà Thầy Trừ Tà dạy cho tôi về ông kẹ và những công việc trừ tà khác; cuốn thứ hai dành cho các bài học tiếng La Tinh.

Mẹ tôi đã dạy tôi tiếng Hy Lạp, điều này giúp tôi khỏi cần học ngôn ngữ ấy, nhưng tôi vẫn gặp vô vàn khó khăn để học cho thông tiếng La Tinh, đặc biệt là mấy động từ gây cho tôi biết bao phiền toái kia. Rất nhiều sách của Thầy Trừ Tà được viết bằng tiếng La Tinh, nên tôi phải nỗ lực thật chăm để học thứ tiếng này.

Tôi bắt đầu với động từ đầu tiên Thầy Trừ Tà nhồi vào đầu tôi. Thầy đã dạy tôi học động từ tiếng La Tinh theo một loạt hình thái nhất định. Điều này rất quan trọng, bởi phần kết của mỗi từ biến đổi khác nhau tùy theo ý nghĩa điều ta muốn nói. Việc đọc thuộc lòng các động từ thật lớn tiếng cũng rất hữu ích, vì theo như Thầy Trừ Tà giải thích, làm thế sẽ giúp ta ghi nhớ lâu hơn. Không muốn đánh thức bà Meg dậy nên tôi cố giữ giọng mình chỉ là tiếng lầm rầm.

“Amo, amas, amat,” tôi đọc lên mà không cần liếc xuống sổ ghi, học thuộc lòng ba từ mang nghĩa “tôi yêu, anh yêu, anh ấy, cô ấy hay nó yêu.”

“Ta đã từng yêu một người nào đó,” giọng nói từ chiếc ghế đu cất lên, “nhưng giờ ta không còn nhớ người ấy là ai nữa.”

Tôi giật mình thất kinh đến nỗi suýt chút nữa đánh rơi cuốn sổ mà ngã lăn ra khỏi ghế. Bà Meg đang nhìn chăm chăm vào ngọn lửa chứ chẳng phải nhìn gì vào tôi, gương mặt lộ vẻ hoang mang đan xen buồn bã.

“Chào buổi sáng, bà Meg,” tôi nói, cố nặn ra nụ cười. “Cháu hy vọng bà đã có một đêm ngon giấc.”

“Cậu thật dễ thương khi hỏi đến ta đấy Billy,” Meg trả lời, “nhưng ta chẳng ngủ được giấc nào ngon cả. Có bao nhiêu thứ âm thanh ồn ào, còn ta suốt đêm cứ cố nhớ ra gì đấy nhưng điều ấy cứ xoay mòng mòng trong đầu ta. Là thứ gì đó rất nhanh và trơn nhẫy mà ta chẳng thể nào tóm lấy. Nhưng ta không dễ dàng đầu hàng đâu, và ta sẽ chỉ ngồi tại đây, cạnh lò sưởi, cho đến khi ta nhớ ra.”

Nghe thế tôi bỗng giật mình cảnh giác. Lỡ Meg nhớ ra bà ta là ai thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bà ta nhận thức mình là một phù thủy nữ yêu! Tôi phải nhanh tay hành động trước khi mọi chuyện quá muộn.

“Đừng lo đến chuyện ấy làm gì bà Meg ạ,” tôi vừa nói vừa đặt cuốn tập xuống và nhảy dựng lên. “Cháu sẽ pha cho bà một ly trà thơm nóng hổi ngay.”

Tôi nhanh nhảu đổ đầy nước vào ấm đồng và treo ấm lên móc trong lò sưởi, để theo như lời bố tôi bảo, cho ngọn lửa làm nóng đáy ấm. Đoạn tôi cầm một chiếc tách sạch mang vào phòng khách. Tại đây, tôi lấy chiếc lọ thủy tinh nâu từ trong tủ chén ra và rót nửa lóng tay chất thuốc vào trong tách. Xong xuôi, tôi quay trở vào bếp chờ cho ấm nước sôi lên rồi rót gần đầy đến miệng tách và khuấy thật tan như lời Thầy Trừ Tà hướng dẫn.

“Đây này Meg, trà thảo dược của bà đây ạ. Trà này sẽ giúp giữ các đốt khớp dẻo dai và xương cốt cứng cáp.”

“Cảm ơn Billy nhé,” Meg mỉm cười đáp. Bà ta đưa tay đón lấy tách trà, bắt đầu thổi cho nguội, đoạn chậm rãi nhấp từng ngụm, trong khi mắt vẫn nhìn chăm chăm vào ngọn lửa.

“Trà ngon thật đấy,” một lúc sau Meg nói. “Cậu thật là một cậu bé đáng yêu. Đây đúng là thứ ta cần để mớ xương cốt già nua của ta được khởi động vào mỗi buổi sáng...”

Tôi thấy buồn làm sao khi nghe Meg nói vậy. Một phần trong tôi không lấy gì làm vui vẻ về việc mình vừa mới làm. Meg đã gần như thức suốt đêm để cố nhớ cho ra điều gì đó và giờ đây bà ta lại uống thứ sẽ làm trí nhớ của mình kém thêm. Trong khi Meg đang bận rướn mình tới trước nhấm nháp tách trà, tôi đi đến đằng sau bà ta để nhìn cho kỹ thứ đã khiến tôi suy nghĩ mãi từ đêm hôm trước.

Tôi nhìn chằm chằm vào mười ba chiếc cúc gài chặt váy áo của Meg từ cổ xuống chân váy. Tất nhiên, tuy không thể tuyệt đối chắc chắn nhưng tôi cũng khá đoán chắc rồi.

Mỗi một chiếc cúc được làm từ xương. Meg không phải loại phù thủy sử dụng cốt thuật; bà ta là phù thủy nữ yêu, loại phù thủy không xuất thân từ Hạt này. Nhưng tôi thắc mắc về những chiếc cúc bằng xương ấy. Phải chăng chúng là của những nạn nhân đã bị Meg sát hại trong quá khứ? Rồi dưới hàng cúc ấy, bên trong chiếc váy kia, tôi biết nếu là một phù thủy nữ yêu thuần hóa thì Meg sẽ có một dãy vảy vàng và xanh lục chạy dọc theo sống lưng.

Chẳng mấy chốc sau đấy có tiếng gõ cửa ngoài cửa sau. Tôi đi ra mở cửa vì thầy tôi còn đang say ngủ sau một đêm không yên bình.

Một người đàn ông đang đứng ngoài cửa, đầu đội một chiếc mũ da kỳ dị có vành mũ phủ xuống tận hai tai. Tay phải anh ta cầm đèn lồng; tay trái ghìm một chú ngựa con bé xíu bị chất lên mình nhiều túi màu nâu đến nỗi bốn chân chú ngựa không bị khuỵu xuống đã là một điều kỳ diệu rồi.

“Chào anh bạn trẻ, tôi đem các món ông Gregory đặt đến đây,” người đàn ông vừa nói vừa mím miệng cười miễn cưỡng. “Hẳn cậu là người học việc mới nhỉ. Cậu kia dễ thương lắm, cậu Billy ấy, tôi lấy làm tiếc khi được nghe những gì đã xảy ra.”

“Tên em là Tom,” tôi tự giới thiệu.

“Được thôi, Tom, cậu khỏe chứ? Tên tôi là Shanks. Cậu làm ơn nói cho thầy mình biết là tôi đã đem thêm nhu yếu phẩm lên đây và cứ mỗi tuần tôi sẽ mang lên gấp đôi cho đến khi thời tiết trở nên khắc nghiệt nhé. Trông mùa đông năm nay có vẻ kinh khủng lắm đấy, khi tuyết rơi xuống thì còn lâu tôi mới lên trên này được.”

Tôi gật đầu với Shanks, mỉm cười, đoạn nhìn lên. Trời vẫn còn tối, nhưng cũng đang bắt đầu rạng lên và khe nứt trên trời kia gần như phủ đầy mây xám từ phía tây bạt đến. Ngay khi ấy, Meg ra đứng cùng tôi ngoài lối cửa. Bà ta chỉ loáng thoáng chờn vờn sau lưng tôi thôi, nhưng Shanks đã kịp nhìn rõ bà bởi hai mắt anh ta như muốn lồi ra khỏi hốc mắt, tiếp đó anh ta vội vã thối lui vài bước, suýt nữa đâm vào chú ngựa bé con.

Tôi có thể khẳng định là Shanks đang sợ, nhưng sau khi Meg quay gót vào trong nhà, anh ta cũng bình tĩnh trở lại một chút và tôi giúp anh dỡ mấy túi hàng xuống. Trong khi chúng tôi đang dỡ hàng, Thầy Trừ Tà đi ra trả tiền cho Shanks.

Khi Shanks đi về, Thầy Trừ Tà theo anh ta xuống dưới hẻm núi chừng ba mươi bước. Hai người họ bắt đầu nói gì đấy với nhau nhưng họ ở cách xa quá nên tôi không thể nghe hết từng lời trong cuộc nói chuyện giữa hai người. Họ đang nói về Meg, điều này thì tôi dám chắc, bởi vì có hai lần tôi nghe nhắc đến tên của bà.

Rõ ràng tôi nghe thấy Shanks nói, “Ông bảo với chúng tôi là mụ ta đã bị xử lý rồi!”, Thầy Trừ Tà đáp lại rằng, “Ta giam giữ bà ấy cẩn mật lắm, anh đừng lo. Ta biết rõ công việc của mình nên đấy chẳng phải việc anh cần quan tâm làm gì. Mà anh giữ kín chuyện này đấy, nếu anh biết điều gì là tốt cho mình!”

Thầy tôi trông không vui lắm khi bước trở lại phía tôi. “Con cho Meg uống trà thảo dược chưa thế?” thầy hỏi tôi đầy vẻ nghi ngại.

“Con đã làm theo như thầy dặn,” tôi đáp, “ngay khi bà ấy thức giấc.”

“Bà ấy có đi ra ngoài không?” thầy lại hỏi.

“Không ạ, nhưng có đến bên cửa và đứng sau lưng con. Shanks đã nhìn thấy Meg và hình như điều này làm anh ta hoảng sợ.”

“Đáng tiếc là anh ta thấy bà ấy mất rồi,” Thầy Trừ Tà bảo. “Thường thì Meg không hay lộ mặt như thế. Bao nhiêu năm gần đây bà ấy có làm thế đâu. Có lẽ chúng ta phải tăng liều lượng thuốc thôi. Như ta đã nói cho con biết tối qua, Meg từng gây ra nhiều rắc rối trong Hạt này. Người dân trong Hạt rất sợ bà ấy, cho đến giờ vẫn còn e dè. Và mãi đến nay dân chúng trong vùng vẫn không biết là Meg được tự do đi lại trong nhà. Nếu tin này lọt ra ngoài, ta sẽ phải nghe ca cẩm mãi mất. Người dân quanh đây rất cứng đầu: một khi họ đã bập vào thứ gì thì sẽ không dễ dàng nhả ra đâu. Nhưng Shanks sẽ câm như hến thôi. Ta trả cho anh ta rất hậu.”

“Shanks là người bán tạp hóa ạ?” tôi hỏi.

“Không đâu anh bạn, Shanks là tay thợ mộc trong vùng này và cũng là người lo dịch vụ đám tang. Người duy nhất trong vùng Adlington có gan liều lĩnh lên đến tận trên này. Ta trả tiền để anh ta giao hàng lên và nhận hàng xuống.”

Sau đấy thầy trò tôi đem hết mấy túi đồ vào trong nhà, rồi Thầy Trừ Tà mở túi lớn nhất ra đưa Meg những thứ bà ấy cần để bắt đầu nấu bữa điểm tâm.

Món thịt lợn muối còn ngon hơn món do ông kẹ của Thầy Trừ Tà dọn ra, thậm chí là vào những buổi sáng đẹp trời nhất, bên cạnh đó bà Meg đã chiên bánh khoai tây và khuấy trứng mới cùng pho mát: Thầy Trừ Tà không quá lời khi nói rằng Meg nấu ăn rất ngon. Khi thầy trò tôi đang ngấu nghiến dùng điểm tâm, tôi hỏi thầy về những tiếng động lạ tối hôm qua.

“Trong lúc này thì không có gì phải lo lắng lắm,” thầy vừa nuốt một mồm đầy bánh khoai tây vừa đáp lời tôi. “Ngôi nhà này được xây trên một mạch hóc xoáy nên thỉnh thoảng chúng ta có rắc rối. Đôi khi một trận động đất cách đây hàng dặm vẫn gây xáo động đến một loạt các hóc xoáy. Đám ông kẹ có thể bị buộc phải di dời khỏi nơi mà bọn chúng đã cư ngụ yên lành trong mấy năm trời. Tối hôm qua một ông kẹ đã di chuyển qua dưới nhà chúng ta. Ta xuống hầm chỉ để xem xem mọi thứ có được an toàn chắc chắn không thôi.”

Lúc còn ở Chipenden Thầy Trừ Tà đã kể cho tôi nghe về các hóc xoáy. Đấy là những mạch quyền lực dưới lòng đất, kiểu như những con đường mà vài loại ông kẹ sử dụng để di chuyển nhanh chóng từ nơi này sang nơi khác.

“Mà này, đôi khi điều ấy nghĩa là sẽ có rắc rối trong tương lai đấy,” thầy nói tiếp. “Khi bọn ông kẹ dựng ổ tại chỗ mới, thường bọn chúng sẽ bắt đầu tác oai tác quái – nhiều khi còn là những trò tai quái nguy hiểm – và thế nghĩa là chúng ta có việc phải làm. Nhớ lấy lời ta nhé anh bạn, rất có khả năng ta phải đối phó với một ông kẹ ngay trong vùng này trước cuối tuần đấy.”

Sau bữa điểm tâm, chúng tôi đi vào phòng làm việc của Thầy Trừ Tà để bắt đầu bài học tiếng La Tinh của tôi. Phòng làm việc là một căn phòng nho nhỏ chứa vài ba chiếc ghế gỗ lưng thẳng đứng, một chiếc bàn lớn, một chiếc ghế đẩu ba chân bằng gỗ, mấy tấm bảng nhẵn nhụi và rất nhiều kệ sách cao cao tối màu. Trong này cũng hơi se lạnh nữa: lò sưởi nhóm hôm qua nay chỉ còn là nhúm tro xám trong lò.

“Ngồi xuống đi anh bạn. Mấy chiếc ghế này cứng quèo nhưng khi con đang học thì không nên quá thoải mái êm ái làm gì. Ta không muốn con ngủ gật đâu,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, đưa mắt sắc lạnh nhìn tôi.

Tôi nhìn quanh mấy kệ sách. Căn phòng âm u, chỉ được chiếu sáng bằng ánh sáng xám xịt từ cửa sổ và vài ba ngọn nến, nên mãi đến lúc ấy tôi mới nhận ra là các kệ sách đều trống trơn.

“Sách đâu hết rồi ạ?” tôi hỏi.

“Đem về Chipenden hết rồi – chứ con nghĩ còn ở đâu nữa nào? Giữ sách ở đây trong thời tiết lạnh và ẩm thấp này thì chả ích lợi gì. Sách không chịu được điều kiện khí hậu như thế đâu. Không, chúng ta sẽ chỉ phải xoay xở bằng những gì đã mang theo và có lẽ là tự viết ra những điều mình nghiên cứu khi chúng ta ở đây. Con không thể lúc nào cũng chỉ biết đọc sách và chừa phần viết lại cho người khác.”

Tôi biết Thầy Trừ Tà mang theo kha khá sách, khiến chiếc túi của thầy rất nặng, trong khi tôi chỉ mang theo mấy cuốn sổ ghi chép của mình mà thôi. Trong một giờ đồng hồ kế tiếp tôi vật vã với mấy động từ tiếng La Tinh. Đúng là khó khăn khổ sở thật nên tôi mừng làm sao khi Thầy Trừ Tà bảo chúng tôi sẽ tạm nghỉ, nhưng phải đến sau khi thầy làm xong những gì tiếp sau đấy.

Thầy lôi chiếc ghế đẩu bằng gỗ đến gần kệ sách gần cửa ra vào nhất. Rồi thầy leo lên ghế và rướn mấy ngón tay lên đầu kệ.

“Anh bạn này,” thầy vừa nói vừa giơ chiếc chìa khóa lên, gương mặt thầy nghiêm trang ảm đạm. “Chúng ta không thể trì hoãn việc này lâu hơn nữa. Ta hãy xuống dưới kia thăm hầm nhà. Nhưng trước hết chúng ta phải đi xem Meg thế nào đã. Ta không muốn bà ấy biết là thầy trò ta sẽ xuống dưới đấy. Bà ấy sẽ lo lắng cho mà xem. Meg không thích nghĩ đến mấy bậc thang ấy chút nào!”

Những lời của thầy khiến tôi vừa kích động vừa sợ. Lâu nay tôi cứ cuồng lên vì tò mò muốn biết có thứ gì bên dưới những bậc thang dẫn xuống hầm kia, nhưng đồng thời tôi cũng biết việc đi xuống đó chẳng hề là một trải nghiệm dễ chịu.

Chúng tôi thấy Meg vẫn ở trong bếp. Bà ấy đã lau dọn xong xuôi và giờ đây đang ngồi trước lò sưởi, lại lơ mơ gà gật.

“Bây giờ bà ấy khá ổn,” Thầy Trừ Tà bảo. “Ngoài việc tác động đến trí nhớ của Meg, liều thuốc kia còn khiến bà ấy ngủ thật lắm.”

Thầy trò tôi mỗi người thắp theo một cây nến trước khi bước xuống mấy bậc thang bằng đá, Thầy Trừ Tà đi trước dẫn đường. Lần này tôi chú ý nhiều hơn đến quang cảnh xung quanh, cố gắng ghi nhớ phần bên dưới mặt đất của ngôi nhà. Tôi đã từng đi xuống kha khá tầng hầm rồi, nhưng trực giác mách bảo tôi rằng căn hầm này có thể là nơi đáng sợ và bất thường nhất.

Sau khi Thầy Trừ Tà mở khóa cổng sắt, thầy quay lại vỗ vai tôi. “Meg ít khi vào phòng làm việc của ta lắm,” thầy bảo, “nhưng dù có xảy ra chuyện gì thì cũng đừng bao giờ để bà ấy cầm được chiếc chìa này nhé.”

Tôi gật đầu, quan sát Thầy Trừ Tà khóa cửa lại. Tôi nhìn xuống....

“Sao các bậc thang lại rộng quá vậy thầy?” tôi lại hỏi.

“Cần phải thế. Nhiều thứ được mang vác xuống dưới mấy bậc thang này. Mấy người nhân công cần lối đi thật thuận tiện...”

“Nhân công ạ?”

“Tất nhiên là mấy anh thợ rèn thợ nề chứ còn ai nữa – những nghề mà loại hình công việc của chúng ta phụ thuộc vào đấy!”

Trong khi chúng tôi đi xuống, Thầy Trừ Tà dẫn đường đi trước, cây nến trong tay tôi phả bóng thầy lên vách tường, và mặc cho tiếng ủng của chúng tôi có vang vọng trên các bậc thang bằng đá, tôi vẫn nghe thấy những tiếng động văng vẳng đầu tiên từ dưới xa kia. Một tiếng thở dài rồi tiếng ho nghèn nghẹt thoang thoảng. Nhất định dưới này phải có người nào hay vật gì ấy!

Có bốn tầng ngầm cả thảy. Hai tầng đầu tiên chỉ có một cửa vào được tạc âm vào vách đá, nhưng rốt cuộc khi chúng tôi đến tầng thứ ba, tầng có ba cánh cửa mà hôm trước tôi đã trông thấy.

“Cánh cửa ở giữa, như con đã biết, là nơi Meg thường ngủ khi ta đi khỏi đây,” Thầy Trừ Tà bảo.

Còn bây giờ bà ấy được giao một phòng trên lầu trên, cạnh phòng của Thầy Trừ Tà, chắc là để thầy có thể để mắt đến bà ấy – dù căn cứ vào bằng chứng tối qua, bà ấy thích ngủ trên chiếc ghế đu cạnh lò sưởi hơn.

“Ta không hay dùng mấy căn xà lim kia lắm,” Thầy Trừ Tà nói tiếp, “nhưng mấy căn phòng ấy cũng rất có ích trong việc nhốt một mụ phù thủy thật chắc chắn trong khi mọi công đoạn sửa soạn đang được tiến hành...”

“Ý thầy là trong khi chuẩn bị hố ấy ạ?”

“Phải rồi, ta làm thế đấy anh bạn. Như con đã thấy, ở đây đâu giống như Chipenden. Ta đâu có vườn tược rộng rãi gì nên phải tận dụng tầng hầm thôi...”

Lẽ đương nhiên, tầng thứ tư và là tầng sâu nhất, chính là tầng hầm. Thậm chí trước khi chúng tôi quành qua khúc quanh cuối cùng và tầng hầm hiện ra, tôi đã nghe được những tiếng động đủ khiến cây nến trên tay run lẩy bẩy, làm bóng Thầy Trừ Tà nhảy múa loạn xạ.

Có những tiếng rên rỉ lẫn thều thào, và kinh khủng nhất là còn có âm thanh sồn sột khe khẽ. Là con trai thứ bảy của người con thứ bảy, tôi có thể nghe thấy những thứ mà phần lớn người ta không nghe ra, nhưng tôi chẳng khi nào thật sự quen được với chuyện này. Có những ngày tôi can đảm hơn những ngày khác, tôi chỉ có thể nói thế thôi. Thầy Trừ Tà trông có vẻ khá bình tĩnh, nhưng mà thầy đã làm việc này cả đời rồi còn gì.

Tầng hầm thật lớn, còn lớn hơn là tôi hằng tưởng, lớn đến nỗi thực tế nơi này hẳn còn rộng hơn diện tích thật của tầng trệt nhà trên. Một bên vách đang nhỏ nước thành giọt còn trần hầm thâm thấp ngay trên đầu thì ẩm rì ẩm rịt, làm tôi băn khoăn không biết có phải tầng hầm này nằm ngay mép con suối hay thật ra là nằm dưới con suối.

Phần trần hầm khô ráo lại phủ đầy mạng nhện, vừa ken dày vừa đan xen rối rắm đến nỗi hẳn phải có một quân đoàn nhền nhện lao động mới tạo ra nổi. Chứ nếu chỉ có một hai con nhện nào đó dệt nên mớ mạng nhện kia thì tôi chẳng muốn giáp mặt với thứ nhện ấy đâu.

Tôi bỏ nhiều thời gian quan sát trần và vách hầm vì tôi đang trì hoãn khoảnh khắc phải nhìn xuống sàn. Nhưng sau vài giây, cảm nhận được ánh mắt Thầy Trừ Tà đang dán vào mình nên chẳng còn lựa chọn nào khác, tôi đành ép mình hạ tầm nhìn xuống.

Tôi đã từng trông thấy Thầy Trừ Tà nhốt giữ gì trong hai khu vườn ở Chipenden. Tôi cứ tưởng ở đây cũng chỉ thêm những thứ tương tự, nhưng trong khi ở Chipenden các ngôi mộ và hố được đào rải rác xen giữa rừng cây, nơi ánh mặt trời thi thoảng chiếu sáng làm cây đổ bóng loang lổ xuống đất, nơi đây lại có lắm mộ hơn nhiều và tôi cảm thấy mình như bị mắc kẹt, bị bốn bức vách lẫn trần hầm đầy mạng nhện nhốt kín.

Tổng cộng có chín ngôi mộ phù thủy tất cả, mỗi mộ đánh dấu bằng một tấm bia và được viền bằng những phiến đá nhỏ hơn phía trước huyệt đất sâu ba thước này. Mười ba thanh sắt dày cui vít vào những phiến đá đó, che phủ hết từng mảng đất. Chúng được đặt đấy để ngăn những mụ phù thủy đã chết bên dưới bò lên xới tung lối lên mặt đất.

Và rồi, dọc theo một bức vách của tầng hầm, còn có thêm những tảng đá to hơn, nặng hơn nữa. Có ba tảng đá cả thảy, mỗi tảng được thợ nề khắc lên theo cùng một cách:

Chữ cái beta bằng tiếng Hy Lạp mách cho bất kỳ ai có thể đọc các dấu hiệu rằng ông kẹ đã được chèn an toàn bên dưới đấy, và con số La Mã “I” góc dưới bên phải cho biết đây là những ông kẹ cấp bậc thứ nhất, những sinh vật chết người có khả năng giết hại một người còn nhanh hơn ta chớp mắt. Chẳng có gì mới, tôi thầm nhủ, và vì Thầy Trừ Tà rất thạo việc nên chẳng có gì phải e ngại đám ông kẹ đang bị nhốt dưới kia.

“Dưới này cũng có hai mụ phù thủy còn sống,” Thầy Trừ Tà bảo, “và đây là mụ thứ nhất,” thầy vừa nói tiếp vừa chỉ tay vào một hố hình vuông tối om, xung quanh viền những phiến đá nhỏ có mười ba thanh sắt đóng chéo để ngăn mụ ta trèo ra ngoài. “Nhìn xem tảng đá ngay góc kia,” thầy bảo và chỉ thẳng xuống dưới.

Đến khi ấy tôi mới nhìn thấy thứ mà nào giờ mình chưa từng để ý đến, cả khi ở Chipenden cũng thế. Thầy Trừ Tà giơ nến đến gần hơn để tôi nhìn thêm rõ. Có một dấu hiệu, nhỏ hơn nhiều so với những dấu hiệu trên các tảng đá chèn ông kẹ, theo sau dấu hiệu này là tên mụ phù thủy.

“Ký hiệu này là chữ cái sigma trong tiếng Hy Lạp bởi vì chúng ta phân loại tất cả phù thủy bằng ký tự ‘S’ viết tắt cho sorceress (Nữ phù thủy). Có nhiều chủng loại phù thủy đến nỗi, vì bọn chúng là giống cái và khôn ngoan xảo quyệt, rất khó mà phân loại cho chính xác,” Thầy Trừ Tà giảng giải. “Thậm chí so với ông kẹ, phù thủy có tính cách thay đổi theo thời gian còn nhiều hơn. Vậy nên con phải đối chiếu vào lịch sử của bọn chúng – lịch sử đầy đủ của mỗi mụ phù thủy, có bị chèn hay chưa, đều được ghi chép lại trong thư viện tại Chipenden đấy.”

Tôi biết điều này không đúng trong trường hợp của Meg. Trong thư viện của Thầy Trừ Tà có rất ít tư liệu viết về Meg, nhưng tôi không nói gì. Bất thình lình tôi nghe thấy tiếng cựa quậy khe khẽ từ dưới hố tối om om kia, thế là tôi vội bước giật lùi ra sau.

“Bessy là phù thủy cấp bậc thứ nhất phải không ạ?” tôi bồn chồn hỏi Thầy Trừ Tà, bởi vì loại này là loại nguy hiểm nhất và có khả năng giết chết người. “Trên tảng đá này không thấy có đánh dấu...”

“Tất cả các phù thủy và ông kẹ dưới hầm này đều là cấp bậc thứ nhất hết,” Thầy Trừ Tà nói với tôi, “và ta đã chèn hết bọn chúng cho nên không phải khi nào cũng đáng để bắt thợ nề bỏ công đẽo khắc làm gì, nhưng ở đây không có gì phải sợ đâu anh bạn à. Lão bà Bessy ở dưới kia lâu lắm rồi. Chúng ta vừa mới quấy phá mụ ta nên mụ ta đang chuyển mình trong giấc ngủ, thế thôi. Còn giờ con hãy sang đây nhìn thứ này này...”

Đó là một hố chôn phù thủy khác, giống hệt hố thứ nhất, nhưng thốt nhiên tôi rùng mình ớn lạnh. Điều gì đấy mách bảo với tôi rằng cho dù dưới hố kia có là gì thì thứ này còn nguy hiểm hơn mụ Bessy nhiều, Bessy chỉ đang mê ngủ và đang cố xoay mình cho thoải mái dưới nền đất lạnh và ẩm ướt kia thôi.

“Có lẽ con nên nhìn thật kỹ, anh bạn,” Thầy Trừ Tà bảo, “để con có thể thấy chúng ta đang đối phó với thứ gì. Giơ nến cao lên và nhìn xuống, nhưng nhớ là đặt chân lùi cho rõ xa vào!”

Tôi chẳng muốn làm thế nhưng giọng Thầy Trừ Tà thật cương quyết. Đấy là mệnh lệnh. Nhìn xuống dưới hố là một phần trong quy trình huấn luyện, thế nên tôi chẳng có lựa chọn nào cả.

Tôi rướn người tới trước, giữ cho đầu ngón chân mình cách xa các thanh sắt và giơ cao nến lên để nến tỏa ánh sáng vàng vàng nhảy nhót xuống dưới hố. Ngay lúc ấy, tôi nghe thấy một tiếng động từ bên dưới rồi có thứ gì vội lạch bạch chạy băng qua sàn và biến vào vùng tối trong góc bên này. Vật đấy di chuyển nghe thật sống động nhanh nhẹn, cứ như thể nó có thể phóng vọt lên vách hố còn nhanh hơn là ta kịp chớp mắt nữa!

“Giơ nến lên ngay trên các thanh sắt để nhìn cho rõ đi!” Thầy Trừ Tà ra lệnh.

Tôi vâng theo, duỗi hết cánh tay giơ nến lên. Thoạt đầu tôi chỉ nhìn thấy hai con mắt tàn ác trừng trừng ngó lên mình, như hai đốm lửa phản chiếu ánh nến. Khi nhìn chăm chú hơn, tôi trông thấy một khuôn mặt hốc hác to bè đóng khung trong mớ tóc dày nhớt nhờn rối bù, bên dưới đấy là thân thể béo lùn đầy những vảy. Có tứ chi cả thảy và trông chúng giống bốn tay hơn là chân, thêm vào đấy là những bàn tay to tướng dài ngoằng kết thúc bằng những móng vuốt dài nhọn.

Tôi rùng mình, hai tay run bần bật, đến mức sém chút là đánh rơi cây nến qua mấy thanh sắt. Tôi vội vã thụt lùi và chỉ chút thôi là ngã lăn đùng, nhưng Thầy Trừ Tà đã tóm được vai tôi, giữ cho tôi thăng bằng trở lại.

“Trông chẳng đẹp đẽ gì, anh bạn nhỉ,” thầy lẩm bẩm và lắc lắc đầu. “Thứ chúng ta đang có dưới kia là một mụ phù thủy nữ yêu. Hai mươi năm trước, khi mới bị ta nhốt xuống dưới, mụ ta còn trông giống con người. Giờ đây mụ biến trở lại thành loại hoang dã. Đấy là điều sẽ xảy ra khi ta nhốt phù thủy nữ yêu xuống hố. Bị tước bỏ đi mối thân hữu với con người, mụ ta sẽ từ từ đảo ngược lại thành hình dạng ban đầu. Và cho dù đã sau bao nhiêu năm, mụ ta vẫn còn rất mạnh. Đấy là lý do vì sao ta đặt cổng sắt trên cầu thang. Nếu có khi nào mụ ta thoát ra khỏi đây, cánh cổng ấy sẽ làm chậm bước mụ trong một chốc.

“Chưa hết đâu anh bạn à. Con thấy đấy, loại hố dành cho phù thủy bình thường không đủ sức giam mụ ta. Bốn bên hông và ngay dưới đáy hố cũng có các thanh sắt được chôn lẫn vào lớp đất. Thế nên mụ ta thực sự là đang ở trong một chiếc lồng. Lớp thanh sắt ấy rồi thêm một lớp muối và sắt bên ngoài nữa. Mụ ta cũng có thể đào thật nhanh và thật sâu bằng mấy bàn tay có vuốt, nên đấy là cách duy nhất ta ngăn không cho mụ thoát ra ngoài! Mà thôi, con có biết mụ ta là ai không?”

Thật là một câu hỏi kỳ quặc. Tôi nhìn xuống và đọc tên mụ trên tảng đá.

Hẳn Thầy Trừ Tà đã thấy vẻ mặt cuối cùng cũng ngộ ra của tôi, bởi vì thầy buồn bã mỉm cười. “Phải rồi đấy anh bạn. Đây là chị của Meg...”

“Thế Meg có biết bà ta ở dưới đây không ạ?” tôi hỏi.

“Bà ấy đã từng biết, nhưng giờ đây thì không cách nào nhớ ra; cho nên tốt nhất hãy để mọi chuyện cứ như thế. Giờ con qua đây nào – ta còn có thứ khác chỉ cho con xem đây.”

Thầy dẫn lối đi len giữa các tảng đá đến góc hầm đầu kia, trông có vẻ đây là chỗ khô ráo nhất trong hầm; trần hầm bên trên dường như thưa bóng mạng nhện nhất. Đây là một chiếc hố để trống, sẵn sàng được đưa vào sử dụng, và tấm nắp chắn đang nằm trên nền hầm ngay bên cạnh hố, chờ kéo vào vị trí.

Mãi đến khi đấy tôi mới nhìn thấy nắp chắn trên miệng hố được làm như thế nào. Những phiến đá viền ngoài gắn kết với nhau bằng xi măng thành hình khối vuông rồi những thanh bù loong dài xuyên từ đầu này sang đầu kia từng khối vuông ấy để đảm bảo cho chúng lèn chặt vào nhau. Mười ba thanh sắt thực ra cũng là những thanh bù loong dài vít chặt vào đai ốc đục lõm vào trong các tảng đá. Như vậy khá là thông minh, và khi bác thợ nề với bác thợ rèn làm việc cùng nhau, hẳn họ phải cần lắm kỹ năng để làm nên thứ này.

Đột nhiên mồm miệng tôi há hốc và cứ ngoác ra như thế một hồi thật lâu, đủ khiến Thầy Trừ Tà chú ý đến. Lần này không có ký hiệu gì, nhưng một cái tên đã được khắc lên góc đá gần nhất:

Meg Skelton

“Con nghĩ cách nào là tốt hơn hử, anh bạn?” Thầy Trừ Tà hỏi. “Trà thảo dược hay là làm thế này? Bởi vì nếu không cách này thì phải là cách kia thôi.”

“Trà thảo dược ạ,” tôi đáp, giọng tôi chẳng khác nào tiếng thì thào.

“Quả vậy, nên giờ đây con biết vì sao con không thể quên cho Meg uống trà mỗi sáng rồi đấy. Nếu con mà quên, bà ấy sẽ nhớ lại, mà ta thì không muốn phải đem bà ấy xuống đây.”

Khi ấy tôi có một câu muốn hỏi, nhưng tôi đã không nói gì vì biết Thầy Trừ Tà sẽ không thích nghe. Tôi muốn biết vì sao một phương thức thích hợp cho một phù thủy lại không thích hợp cho tất cả phù thủy còn lại. Dù vậy, tôi hiểu mình không thể than phiền nhiều: tôi sẽ không bao giờ quên Alice từng có lần đã tiến gần đến thế lực bóng tối như thế nào. Gần đến nỗi Thầy Trừ Tà từng nghĩ rằng tốt nhất là phải bỏ cô ấy xuống hố. Thầy chỉ rủ lòng thương vì tôi đã nhắc cho thầy nhớ thầy từng tha cho Meg ra sao.

Đêm ấy tôi thấy thật khó ngủ. Đầu óc tôi quay cuồng với những gì mình chứng kiến cùng nhận thức về nơi mình đang trú ngụ. Tôi đã từng trông thấy vài chuyện đáng sợ, tuy nhiên, việc sống trong một ngôi nhà chứa mồ mả phù thủy, các ông kẹ bị chèn và những phù thủy còn sống dưới tầng hầm khiến tôi không thoải mải nghỉ ngơi được. Cuối cùng, tôi quyết định rón rén nhón gót xuống dưới lầu. Tôi đã để quên mấy cuốn sổ ghi chép trong phòng bếp và tôi muốn tìm cuốn ghi chép tiếng La Tinh: tôi biết chỉ cần nửa giờ đồng hồ nhìn chằm chằm vào những danh từ động từ chán ngấy kia chắc chắn sẽ khiến tôi díp mắt lại.

Trước khi xuống đến chân cầu thang, tôi đã nghe thấy những tiếng động mình không ngờ tới. Ai đó đang khẽ khàng khóc trong phòng bếp và tôi nghe ra tiếng Thầy Trừ Tà nói nho nhỏ. Đến cửa bếp rồi, tôi không đi vào trong; cửa he hé mở và qua khe cửa, tôi đã nhìn thấy cảnh tượng khiến mình phải dừng sững lại.

Meg đang ngồi trên ghế đu gần bên lò sưởi. Bà gục đầu vào hai tay và vai bà nhấp nhô trong cơn nức nở. Thầy Trừ Tà cúi xuống cạnh bà, dịu dàng nói và vuốt ve tóc bà. Gương mặt thầy, dưới ánh nến soi rọi, đang nửa quay về phía tôi và lộ ra biểu cảm mà trước giờ tôi chưa từng trông thấy. Tương tự như cái cách gương mặt to lớn, cục cằn của anh Jack đôi lúc lại dịu dàng hẳn đi khi anh ấy nhìn vào chị Ellie, vợ của mình.

Thế rồi, trong khi tôi quan sát, thật ngạc nhiên làm sao, một giọt nước mắt từ mắt trái thầy tôi rỉ ra, lăn dài trên má và rơi xuống môi thầy.

Biết rằng không nên nhòm lén thêm nữa, tôi bèn quay trở về giường.