Chương 6 KẺ TRỜI ĐÁNH THÁNH ĐÂM
Ngày tháng nhanh chóng vào nếp ổn định thường nhật.
Buổi sáng, công việc hàng ngày của tôi là nhóm các lò sưởi dưới lầu và xách nước sạch từ suối vào. Cứ cách hai ngày một lần tôi phải nhóm hết các lò sưởi trong nhà để giữ cho ngôi nhà khỏi bị ẩm ướt quá độ. Khi nhóm lò sưởi trong mấy phòng ngủ, tôi được dặn là phải mở cửa sổ từng phòng ra trong khoảng mười phút để không khí lưu thông trong phòng. Trước đó tôi phải moi sạch các vỉ lò sưởi và đi lên đi xuống mấy cầu thang nhiều đến mức tôi mừng húm mỗi khi làm xong việc. Căn phòng ngủ trên rầm thượng là mệt nhất, tất nhiên là thế rồi, nên tôi luôn làm phòng ấy trước, trước khi hai chân tôi mỏi rã mỏi rời.
Rầm thượng là một căn phòng rất rộng, là căn rộng nhất nhà, diện tích sàn bao la. Nơi đây chỉ có một cửa sổ là giếng trời to vật ngay trên mái. Cả căn phòng trống vốc, chỉ có mỗi một chiếc bàn giấy thật to bằng gỗ gụ, hộc bàn được khóa chặt. Miếng vỉ đồng chung quanh lỗ khóa mang biểu tượng vòng pháp thuật chạm nổi, hình một ngôi sao năm cánh nằm trong ba vòng tròn đồng tâm. Tôi biết biểu tượng vòng pháp thuật được sử dụng để bảo vệ các pháp sư khi họ triệu gọi ma quỷ, và tôi thắc mắc không biết tại sao vỉ đồng kia lại mang biểu tượng ấy.
Chiếc bàn giấy trông rất đắt tiền, tôi cũng thắc mắc trong hộc bàn chứa gì và tại sao Thầy Trừ Tà lại không đem bàn này xuống phòng làm việc của thầy, nơi ấy hẳn là thích hợp và hữu dụng hơn nhiều. Tôi chưa khi nào tiện hỏi han thầy về chiếc bàn đó cả. Và rốt cuộc khi thầy trò tôi nhắc đến chiếc bàn ấy thì đã muộn mất rồi.
Sau khi cho không khí lưu thông trên rầm thượng, tôi sẽ tiến hành công việc từ tầng trên xuống tầng dưới, từng tầng một. Ba phòng ngủ ngay dưới tầng áp mái không kê bàn ghế. Hai phòng ngủ nằm ở mặt trước căn nhà và một phòng ở mặt sau. Căn phòng mặt sau là nơi xấu xí và tối tăm nhất trong cả ngôi nhà vì nó chỉ có một cửa sổ nhìn ra vách đá. Khi tôi nâng khung cửa lên và thò đầu nhìn ra ngoài, bức vách núi ẩm ướt ấy ở gần đến nỗi tôi gần như có thể với tay ra chạm vào. Từ vách đá chìa ra một mép gờ có lối mòn đi thẳng lên trên. Tôi thấy dường như mình có thể leo ra khỏi cửa sổ mà trèo lên mép gờ ấy. Nhưng tôi nào có ngu đến mức muốn thử làm thế đâu! Chỉ trượt chân một cái, nhất định tôi sẽ ngã nát óc xuống nền sân lát đá cuội bên dưới.
Sau khi nhóm xong mọi lò sưởi, tôi sẽ pha trà cho Meg rồi ngồi ôn bài về các động từ tiếng La Tinh cho đến giờ điểm tâm, thường là muộn hơn giờ điểm tâm ở Chipenden nhiều. Xong xuôi đâu đấy, hầu hết thời gian còn lại trong ngày là dành cho việc học, nhưng đến xế chiều, tôi thường cùng Thầy Trừ Tà đi dạo một quãng ngắn không quá hai mươi phút xuống đồi đến chân hẻm núi, từ đây hẻm núi trải rộng ra những sườn dốc thấp hơn của vùng đồng hoang. Mặc dù việc nhóm lò sưởi mệt nhọc thật đấy, nhưng lúc còn ở Chipenden tôi phải vận động thân thể cực hơn nhiều, do đó tôi bắt đầu thấy chồn tay chồn chân. Mỗi buổi sáng trời dường như mỗi lạnh hơn, Thầy Trừ Tà bảo đợt tuyết rơi đầu tiên sẽ chóng đến thôi.
Một sáng nọ thầy tôi phải xuống Adlington thăm anh trai Andrew, bác thợ khóa. Khi tôi xin phép được theo cùng, thầy từ chối.
“Không được, cần có người trông chừng Meg chứ. Với lại, ta còn có việc phải trao đổi với Andrew. Những việc liên quan đến gia đình đều là vấn đề riêng tư hết. Và ta còn phải cập nhật cho ông ấy biết những gì đã xảy ra...”
Nói thế tôi đoán có nghĩa là Thầy Trừ Tà sẽ kể cho anh trai mình đầu đuôi câu chuyện đã xảy đến với thầy trò chúng tôi tại Priestown, nơi thầy tôi từng suýt chút nữa là bị tay Phán Quan hỏa thiêu đến chết. Khi chúng tôi về lại Chipenden, Thầy Trừ Tà đã gửi thư cho ông Andrew, báo tin rằng thầy vẫn bình an, nhưng chắc là giờ đây thầy muốn kể chi tiết.
Bị bỏ lại nhà làm tôi thất vọng lắm – tôi một mực muốn tìm hiểu xem Alice đang sống ra sao mà – nhưng tôi không còn lựa chọn nào cả, và mặc dù có món trà thảo dược đấy nhưng đúng là Meg cần được trông chừng cẩn thận. Thầy Trừ Tà đặc biệt lo rằng biết đâu bà ấy lại rời khỏi nhà đi lang thang đây đó, nên tôi phải đảm bảo sao cho cả cửa sau lẫn cửa trước đều khóa kín. Ấy vậy mà, những gì Meg làm hoàn toàn không thể ngờ tới...
Khi ấy là lúc xế chiều, tôi đang ở trong phòng làm việc của Thầy Trừ Tà ghi ghi chép chép bài học vào sổ. Cứ độ chừng mười lăm phút tôi đi ra xem Meg thế nào. Thường thì tôi hay thấy bà ấy ngủ gà ngủ gật trước lò sưởi; hoặc là thế hoặc là bà đang rửa rau củ chuẩn bị cho bữa tối. Nhưng lần này, khi tôi đi ra kiểm tra, Meg không có ở đấy.
Đầu tiên tôi chạy bổ ra cửa, để phòng hờ thôi, nhưng cả cửa sau lẫn cửa trước đều đang khóa. Tìm qua trong phòng khách rồi, tôi liền đi lên lầu. Tôi tưởng sẽ tìm ra Meg trong phòng bà, nhưng sau khi gõ cửa mà không thấy trả lời, tôi đẩy cửa mở ra. Căn phòng trống không.
Càng đi lên tầng trên, lòng tôi càng thêm lo. Khi đến căn phòng trên rầm thượng cũng chẳng có ai, tôi bắt đầu phát hoảng. Nhưng tôi hít vào một hơi thật sâu. “Nghĩ đi nào!” tôi tự nhủ. Meg còn có thể ở nơi nào nữa đây?
Chỉ còn duy nhất một nơi và đấy là dưới mấy bậc thang dẫn xuống tầng hầm. Chuyện này ít có khả năng xảy ra vì Thầy Trừ Tà từng bảo tôi là chỉ cần nghĩ đến mấy bậc thang đó thôi cũng đã khiến bà ấy nôn nao cơ mà. Trước hết tôi vào phòng làm việc của thầy, đứng trên ghế đẩu soát tay trên đầu kệ sách. Chẳng có cách nào Meg lấy được chìa khóa mà tôi không chú ý đến, nhưng dẫu sao tôi cũng phải đoan chắc cái đã. Chiếc chìa vẫn còn đấy. Thở phào nhẹ nhõm, tôi thắp nến lên và đi xuống các bậc thang.
Trước khi đến nơi, tôi đã nghe thấy tiếng cánh cổng liên tục va loảng xoảng, tạo nên âm thanh ầm ĩ hỗn loạn vang vọng khắp nhà một lúc lâu. Nếu không phải đang mong sẽ tìm ra bà Meg ở đó, hẳn tôi sẽ nghĩ là có thứ gì đấy từ dưới tầng hầm vừa trèo lên và đang cố thoát ra ngoài.
Nhưng đúng là do Meg thật. Bà ấy đang tóm chặt lấy những thanh sắt và nước mắt giàn giụa thành dòng trên mặt bà. Qua ánh sáng từ ngọn nến, tôi thấy Meg đang rung lắc cánh cổng. Căn cứ vào sức lực bà ta đang vận dụng, có thể khẳng định Meg vẫn còn khỏe lắm.
“Thôi nào bà Meg,” tôi nhẹ nhàng nói, “ta quay trở lên lầu nào. Dưới này vừa lạnh vừa gió máy quá. Nếu không cẩn thận bà sẽ bị cảm lạnh đấy.”
“Nhưng Billy ơi, dưới kia có người. Có ai đấy đang cần giúp đỡ.”
“Dưới đấy không có ai đâu,” tôi bảo Meg, lòng biết rõ mình đang nói dối. Chị bà Meg, mụ Marcia, một phù thủy nữ yêu hoang dã, đang ở dưới kia, mắc kẹt trong chiếc hố của mụ. Liệu có phải Meg đang bắt đầu phục hồi trí nhớ chăng?
“Nhưng ta biết chắc là có mà Billy. Ta không nhớ nổi tên người đó nhưng bà ta đang ở bên dưới và đang cần đến ta. Làm ơn mở cổng ra giúp ta nào. Hãy để ta xuống dưới xem sao. Sao cậu không đi theo ta và mang theo cả nến nhỉ?”
“Cháu không thể, Meg ạ. Bà thấy đấy, cháu không có chìa khóa mở cổng này. Thôi, cháu xin bà đấy. Quay trở lên bếp đi nào...”
“Thế John có biết chìa khóa ở đâu không?” Meg hỏi.
“Chắc là có. Sao chúng ta không hỏi thầy khi thầy quay về nhỉ?”
“Phải rồi Billy, ý hay đấy. Chúng ta sẽ làm thế nhé!”
Meg mỉm cười với tôi qua hai hàng nước mắt và bước trở lên mấy bậc thang. Tôi dẫn bà vào bếp, dìu bà ngồi xuống chiếc ghế đu cạnh lò sưởi.
“Bà ngồi xuống đây và trấn tĩnh lại nhé Meg. Cháu sẽ đi pha cho bà thêm tách trà nữa. Bà cần uống ít trà sau khi đi xuống mấy bậc thang ẩm lạnh kia...”
Meg đã dùng liều lượng thường ngày nên tôi không dám làm bà phát ốm, thế là tôi chỉ bỏ vào một lượng rất nhỏ rồi thêm nước nóng vào. Meg cảm ơn tôi và chẳng mấy chốc là uống sạch. Khi Thầy Trừ Tà trở về nhà, bà ấy đã ngủ mất rồi.
Lúc tôi kể cho thầy nghe chuyện đã xảy ra, Thầy Trừ Tà lắc đầu. “Ta không thích cái kiểu này tí nào, anh bạn ạ! Từ rày trở đi liều lượng ban sáng của bà ấy phải là ba phần tư lóng tay từ đáy tách trở lên. Ta không muốn làm thế này nhưng chúng ta hết cách rồi.”
Thầy trông thật buồn rầu chán nản. Ít khi nào tôi thấy mất hết nhuệ khí đến vậy. Nhưng không lâu sau đấy tôi được biết không phải chỉ là vì chuyện của Meg.
“Ta có chút tin không tốt đây anh bạn,” thầy vừa bảo tôi vừa mệt mỏi buông mình xuống chiếc ghế cạnh lò sưởi. “Emily Burns đã qua đời. Bà ấy nằm trong đất lạnh hơn một tháng nay rồi.”
Tôi chẳng biết nói gì. Đã hằng ấy năm trôi qua kể từ khi thầy tôi từng ở bên Emily. Từ bấy đến nay Meg mới là người phụ nữ trong cuộc đời thầy. Vậy tại sao thầy phải u sầu đến vậy?
“Con rất lấy làm tiếc ạ,” tôi nói ra đến là vô duyên.
“Nhưng cũng không tiếc bằng nửa ta đâu, anh bạn,” Thầy Trừ Tà khàn giọng đáp. “Emily là một phụ nữ hiền lành. Dù cuộc đời khốn khó nhưng bà ấy luôn cố gắng hết mình. Giờ đây khi bà đã khuất bóng, thế giới này sẽ trở thành một nơi đáng thương hơn! Khi những điều thiện tàn lụi, đôi khi việc ấy lại tháo tung xiềng xích cho những điều ác mà đáng lý ra sẽ được kìm hãm nếu điều thiện còn tồn tại!”
Tôi định hỏi xem ý thầy là sao khi nói ra những lời lẽ bí ẩn đến thế, nhưng ngay lúc đó Meg bắt đầu cựa mình mở mắt, do vậy thầy trò chúng tôi ngừng bặt và thầy không đề cập đến tên Emily nữa.
Vào bữa điểm tâm trong buổi sáng thứ tám kể từ khi chúng tôi đến nơi này, Thầy Trừ Tà đẩy đĩa ra xa, khen ngợi tài nấu nướng của Meg, đoạn quay sang tôi.
“Này anh bạn, ta nghĩ cũng đã đến lúc con đi xem con bé kia sống ra sao rồi. Con nghĩ mình tìm được đường đi không thế?”
Tôi gật đầu, cố không cười rách cả mang tai, và trong vòng mười phút tôi đã xăm xăm bước xuống hẻm núi để dấn mình sang bên mạn đồi có trời xanh bao la trên đầu. Tôi xuôi theo hướng bắc xuống Adlington, đi về phía nông trại Cảnh Bờ Hoang Alice đang trú ngụ.
Trước đây, khi Thầy Trừ Tà quyết định đến căn nhà mùa đông, tôi từng phỏng đoán là sau đấy thời tiết sẽ nhanh chóng xấu đi, và quả thật trời đang dần mỗi lúc một lạnh hơn. Nhưng hôm nay vạn vật dường như thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Mặc dù đấy là một buổi sáng lạnh lẽo, sương giá, nhưng mặt trời lại đang chiếu sáng, không khí trong lành và tầm nhìn của tôi xa đến hàng dặm. Kiểu buổi sáng khiến con người ta cảm thấy thật hạnh phúc khi được sống.
Hẳn Alice đã nhìn thấy tôi men theo sườn đồi, vì cô gái đã ra khỏi sân nông trại và bước đến gặp tôi. Ngay ngoài phạm vi nông trại là một khu rừng nho nhỏ, Alice đang đứng đấy, trong bóng râm của mấy hàng cây. Cô trông thật thiểu não, nên tôi biết ngay, thậm chí trước cả khi chúng tôi mở miệng, rằng Alice không vui vẻ gì trong ngôi nhà mới.
“Không công bằng đâu, Tom à. Lão Gregory chẳng thể tìm ra nơi nào cho tớ trú ngụ mà tệ hơn nơi này đâu! Ở lại gia đình nhà Hurst chán chết được.”
“Thật là tệ đến thế sao, Alice?” tôi hỏi.
“Thà ở Pendle còn đỡ hơn, thế là đủ nói lên vài điều.”
Pendle là nơi hầu hết gia đình phù thủy của Alice sinh sống. Cô gái ghét nơi đấy vì ở đó bọn họ đối xử rất tệ với cô.
“Bọn họ cư xử với cậu có hà khắc không, Alice?” tôi hỏi, bỗng chợt trở nên nghi ngại.
Alice lắc đầu. “Cho tới giờ thì chưa có ai động tay động chân gì. Nhưng họ cũng không nói chuyện nhiều với tớ. Và tớ chẳng cần tốn mấy thời gian để hiểu ra tại sao hai người họ lại quá lặng lẽ và khổ sở đến vậy. Là do gã con của hai người – kẻ tên Morgan, người mà Lão Gregory có hỏi đến ấy. Hắn xấu xa ác nghiệt ghê lắm. Đúng là tên trời đánh thánh đâm. Con cái kiểu gì mà lại đánh bố ruột rồi quát tháo mẹ đến phát khóc cơ chứ? Hắn thậm chí còn không gọi họ là Mẹ với Bố nữa kia. Họ chỉ được hắn gọi là “Lão Khọm” với “Mụ Già” thôi. Hai người ấy sợ hắn phát khiếp, và họ đã nói dối Lão Gregory vì Morgan thường ghé qua nhà lắm. Hai ông bà rất sợ những lần hắn tạt về. Đúng là tớ vô can, nhưng tớ chẳng chịu nổi mấy chuyện này. Nếu cần, kiểu gì cũng được, tớ sẽ xử đẹp hắn cho xem.”
“Khoan hãy ra tay vội,” tôi bảo Alice. “Để tớ nói chuyện với Thầy Trừ Tà đã.”
“Tớ không nghĩ lão ta sẽ cuống cuồng đến đây ra tay giúp đỡ gì đâu. Tớ nghĩ Lão Gregory làm thế là có chủ đích. Gã con của hai người kia cùng loại với lão. Cũng mặc áo choàng có mũ trùm và xách theo cây trượng! Chắc là Lão Gregory đã yêu cầu hắn để mắt trông chừng tớ đấy.”
“À, hắn không phải là kẻ trừ tà đâu Alice.”
“Thế thì hắn còn có thể là gì khác cơ chứ?”
“Hắn là một trong những chân học việc thất bại của Thầy Trừ Tà, và hai người họ không ưa gì nhau. Còn nhớ cái đêm ở Chipenden khi tớ mang lá thư vào nhà làm Thầy Trừ Tà nổi trận lôi đình không? Tớ đã không có dịp kể cho cậu biết, nhưng đấy là thư của Morgan. Lâu nay hắn cứ đe dọa Thầy Trừ Tà mãi. Hắn bảo thầy tớ đang giữ thứ gì đó thuộc về hắn.”
“Ừ thì hắn đúng là một kẻ trời đánh thánh đâm mà,” Alice nói tiếp. “Hắn không chỉ ghé qua nhà thôi đâu. Có những đêm hắn xuôi xuống đồi và đi ra hồ. Tối qua tớ đã theo dõi hắn. Hắn đứng ngay bên mép hồ mà nhìn trừng trừng xuống nước. Đôi lúc miệng hắn mấp máy như thể hắn đang trò chuyện cùng ai đó. Em gái hắn chết đuối dưới hồ ấy phải không nhỉ? Tớ nghĩ là hắn đang nói chuyện với hồn ma của cô ấy. Tớ sẽ chẳng ngạc nhiên lắm đâu nếu người dìm chết cô ta lại là hắn!”
“Và hắn đánh ông bố ư?” tôi hỏi. Đây là chuyện làm tôi choáng váng hơn cả. Chuyện này khiến tôi nghĩ về bố mình, và một cục nghẹn ứ lên trong họng khi tôi nhớ đến đấy. Làm sao người ta có thể giơ nắm đấm lên với bố đẻ mình cơ chứ?
Alice gật đầu. “Từ khi tớ đến đây hai người họ đã cãi cọ hai lần. Cãi kinh lắm. Lần thứ nhất, ông lão Hurst cố đẩy hắn ra khỏi cửa, thế là bọn họ giằng co. Tên Morgan vừa trẻ vừa khỏe hơn nhiều nên cậu có thể đoán ra ai là người lãnh đủ. Lần thứ hai Morgan kéo lê bố hắn lên gác rồi nhốt ông ấy vào phòng. Ông lão bắt đầu gào thét. Tớ không thích thế. Chuyện ấy khiến tớ nhớ đến những chuyện tương tự như lúc tớ còn sống với gia đình tại Pendle. Có lẽ nếu cậu kể cho Lão Gregory nghe tình hình tồi tệ đến thế nào, biết đâu lão ta sẽ cho tớ đến ở cùng cậu.”
“Tớ không nghĩ cậu sẽ thích thú gì cuộc sống trên Anglezarke đâu. Tầng hầm thì đầy những hố và thầy nhốt hai mụ phù thủy còn sống nhăn dưới đấy, một trong hai mụ là chị gái Meg, và mụ ta là phù thủy nữ yêu hoang dã. Quan sát mụ ta lạch bạch bò lê trong hố kinh dị lắm. Nhưng tớ thấy tội cho Meg nhất. Cậu đã nói đúng về Meg. Bà ấy đúng là sống trong nhà Thầy Trừ Tà, nhưng thầy đã thuốc bà ấy để bà không nhớ mình là ai. Meg trải qua hơn nửa năm trong một căn phòng bị khóa kín dưới lầu gần tầng hầm. Nhìn cảnh ấy thật đáng buồn làm sao. Nhưng Thầy Trừ Tà chẳng còn lựa chọn nào hết. Hoặc là như thế, hoặc là phải bỏ Meg xuống hố như chị bà ấy.”
“Nhốt phù thủy trong hố là việc không đúng đắn. Tớ chẳng khi nào đồng tình với chuyện ấy. Nhưng tớ thà ở đấy với cậu hơn là sống ở đây rồi cứ phải gặp Morgan luôn. Tớ thấy cô đơn lắm, Tom à. Tớ nhớ cậu!”
“Tớ cũng nhớ cậu lắm chứ Alice, nhưng lúc này đây thì tớ bất lực. Dù vậy, tớ sẽ kể chuyện cậu vừa nói cho Thầy Trừ Tà nghe và xin phép thầy lần nữa. Tớ sẽ cố hết sức, hứa đấy. Mà thôi, bây giờ Morgan đang ở trong nông trại à?” tôi hất đầu về phía nông trại mà hỏi.
Alice lắc đầu. “Từ hôm qua tớ không thấy hắn đâu. Chắc chắn hắn sẽ mau mau quay lại thôi.”
Sau đấy chúng tôi không trò chuyện được gì nhiều vì bà Hurst, bà vợ của lão nông, đã đi ra cửa sau réo gọi Alice, thế nên cô phải về.
Alice ngửa mặt đảo mắt nhìn lên trời.
“Tớ sẽ sớm trở lại thăm cậu!” tôi nói với theo khi Alice quay lưng rời đi.
“Nhớ làm thế đấy Tom. Nhưng cậu làm ơn hỏi xin Lão Gregory luôn nhé!”
Tuy nhiên, tôi không về thẳng nhà Thầy Trừ Tà. Tôi leo ngược lên trên đỉnh đồng hoang, đi đến nơi cơn gió có thể giúp đầu óc tôi quang đãng. Ấn tượng đầu tiên của tôi là phần đỉnh của đồng hoang khá bằng phẳng, còn cảnh vật thì chẳng thể nào sánh bằng phong cảnh của vùng đồi đá ở Chipenden. Cả quang cảnh đồng quê bên dưới cũng không duyên dáng bằng.
Tuy thế, về phía đông và phía nam cũng có nhiều ngọn đồi cao hơn, và xa xa khỏi phạm vi Anglezarke lại là thêm nhiều vùng đồng hoang khác. Về phía trực nam là đồi Mùa Đông và đồi Rivington, sau hai ngọn đồi đấy là dãy Smithhill, còn về phía đông là hai đồng hoang Turton và Darwen. Tôi biết điều đó là do tôi đã nghiên cứu những tấm bản đồ của Thầy Trừ Tà trước khi chúng tôi lên đường, sau khi xem xong tôi cẩn thận gấp gọn các tấm bản đồ ấy lại. Nhờ thế tôi mới có khái niệm khá rõ ràng về bố cục khu vực này trong đầu. Cũng còn phải thăm thú khám phá nhiều nơi nên tôi quyết định sẽ xin phép Thầy Trừ Tà xem mình có được nghỉ một ngày để làm điều này trước khi thời tiết mùa đông thực sự kéo đến không. Tôi nghĩ chắc là thầy sẽ đồng ý thôi, bởi lẽ một phần công việc của kẻ trừ tà là phải biết thông tỏ địa lý trong Hạt để có thể lẹ làng di chuyển từ nơi này sang nơi khác và tìm ra đường đi khi có ai đó cầu viện.
Tôi rảo bước đi xa hơn cho đến khi trông thấy một ngọn đồi khum khum nho nhỏ từ xa, ngay trên đỉnh đồng hoang. Ngọn đồi trông như do con người đắp thành, nên tôi đoán đó là một gò mả, loại mô đất chôn cất vị thủ lĩnh xa xưa nào đấy. Ngay khi tôi định quay đi, một dáng người hiện lên ngay trên đỉnh gò mả. Hắn mang thanh trượng bên tay trái và khoác chiếc áo choàng có mũ trùm phủ xuống trước. Hẳn đấy chính là Morgan!
Hắn xuất hiện trên gò mả kia đột ngột đến nỗi dường như hắn được thành hình từ trong không trung vậy. Tuy nhiên, lý lẽ thường tình mách bảo cho tôi biết, hắn đơn giản chỉ là từ mạn bên kia sườn đồi đi ngược lên đấy mà thôi.
Nhưng hắn đang làm gì thế nhỉ? Tôi không nhận biết được. Trông giống một điệu nhảy nào đó! Hắn đang quăng vật mình tứ tung còn hai tay thì vung vẩy lên không trung. Tiếp đến, bất thình lình hắn rống tướng lên rồi phóng mạnh thanh trượng xuống đất. Hắn đang phẫn nộ. Nhưng phẫn nộ vì cái gì mới được?
Chốc lát sau, một đám sương mù từ phía đông dạt đến che mất hắn nên tôi tiếp tục bước đi. Chắc chắn là tôi không yêu thích gì chuyện phải giáp mặt với hắn rồi. Nhất là khi hắn đang trong tâm trạng thế kia!
Sau đấy tôi cũng không nán lại lâu trên mấy bãi hoang ấy. Dẫu sao thì, nếu tôi về nhà đúng giờ đúng giấc, có khả năng Thầy Trừ Tà sẽ cho phép tôi sớm được đi thăm Alice lần nữa. Với lại tôi cũng muốn quay về kể cho thầy nghe những gì mình vừa biết.
Vậy là sau bữa ăn trưa, tôi kể thầy nghe việc mình bắt gặp Morgan trên đồi hoang và tất tần tật những điều Alice đã kể về hắn.
Thầy Trừ Tà gãi gãi chòm râu rồi thở dài. “Con bé nói đúng đấy. Morgan là thằng trời đánh thánh đâm, chuyện này thì rõ quá rồi. Hắn ăn vận như một kẻ trừ tà, và có mấy người nhẹ dạ giờ đây tin rằng hắn là thầy trừ tà thật. Nhưng hắn còn thiếu kỷ luật để có thể thành thạo ngành nghề của chúng ta. Hắn cũng lười biếng và thích ăn gian làm dối. Cũng đã gần mười tám năm kể từ khi hắn rời bỏ ta, và từ đấy đến nay hắn hầu như chẳng làm điều gì tốt đẹp cả. Hắn tự phong là pháp sư rồi thu tiền của những người thật thà tốt bụng khi họ đang trong lúc mong manh yếu đuối nhất. Ta đã cố không để hắn rơi vào con đường tội lỗi nhưng dường như, có những người cứ muốn từ chối được giúp đỡ mãi thôi.”
“Pháp sư là gì ạ?” tôi hỏi vì không biết đến từ này.
“Là một tên gọi khác của thầy phù thủy hay kẻ có pháp thuật. Những ai sử dụng thứ gọi là pháp thuật ấy mà. Hắn cũng hành nghề chữa bệnh chút đỉnh, nhưng năng lực đặc biệt của hắn là necromancy – thuật gọi hồn.”
“Gọi hồn ư? Là gì vậy ạ?” tôi hỏi. Trước đây tôi cũng chưa từng nghe Thầy Trừ Tà nhắc đến từ này, và tôi nhận ra sau cuộc trò chuyện mình sẽ có lắm ghi chú phải chép lại vào sổ đây.
“Động não đi anh bạn. Từ này xuất phát từ tiếng Hy Lạp, nên lẽ ra con phải nghĩ ra được nghĩa của nó chứ!”
“À vâng, nekros nghĩa là ‘tử thi’, ” tôi nói sau một thoáng suy nghĩ cẩn thận. “Nên con nghĩ thuật này có liên quan gì đấy đến người chết.”
“Giỏi lắm! Hắn là pháp sư sử dụng người chết để giúp việc và cho hắn quyền năng.”
“Bằng cách nào chứ?” tôi hỏi.
“Ừ thì, như con biết đấy, các hồn ma và vãn hồn đều là một phần trong nghề này thôi. Nhưng trong khi chúng ta nói chuyện phải quấy với họ và tiễn họ lên đường siêu thoát thì Morgan lại làm điều đối nghịch. Hắn lợi dụng người đã khuất. Dùng họ làm gián điệp. Hắn khuyến khích họ mãi kẹt lại trên dương gian – để phục vụ cho mục đích của hắn và giúp hắn trút tiền vào đầy túi. Thi thoảng là bằng cách lừa gạt những người dân đau khổ đang lúc dễ bị tổn thương nhất.”
“Thế thì hắn là một kẻ lừa đảo phải không ạ?” tôi hỏi.
“Không, đúng là hắn có khả năng nói chuyện với người chết. Vậy nên con phải nhớ lấy điều này và nhớ cho kỹ vào: Morgan là một kẻ nham hiểm, việc hắn dính líu đến thế lực bóng tối đã cho hắn vài quyền năng thực sự và nguy hiểm là điều mà chúng ta phải dè chừng. Hắn cũng tàn độc nữa, và sẽ làm tổn thương nghiêm trọng bất cứ ai ngáng đường. Cho nên con phải tránh xa hắn ra đấy nhé anh bạn.”
“Tại sao lúc trước thầy không ngăn hắn lại?” tôi hỏi. “Chẳng phải thầy nên giải quyết hắn từ bao năm trước rồi sao?”
“Chuyện dài lắm,” thầy tôi đáp. “Mà nếu ta phải làm thế thì khi đấy thời điểm vẫn chưa chín muồi. Chúng ta sẽ sớm giải quyết hắn. Con hãy cố tránh xa hắn cho đến khi thầy trò ta sẵn dàng – với lại con hãy thôi ngay cái trò bảo ban ta phải làm việc của ta như thế nào đi!”
Tôi gục đầu ngượng chín người, thầy tôi vỗ nhẹ lên cánh tay tôi. “Coi nào anh bạn, không sao đâu. Ý của con chí lý đấy chứ. Ta rất mừng khi thấy con đang vận dụng trí óc của mình. Còn con bé kia cũng được việc lắm khi phát hiện ra Morgan nói chuyện với hồn ma em gái hắn. Đấy chính xác là lý do tại sao ta đã bỏ con bé lại đấy, để nó quan sát những chuyện như thế!”
“Nhưng vậy là không công bằng ạ!” tôi phản đối. “Thầy biết rõ là Alice sẽ phải hứng chịu quãng thời gian khó khăn khi phải ở lại đấy.”
“Ta biết sẽ chẳng phải là chuyện dễ dàng êm đẹp gì, anh bạn ạ. Nhưng con bé đó phải trả giá cho lỗi lầm mình gây ra trong quá khứ, và nó thừa khả năng tự chăm sóc cho bản thân. Với lại, một khi chúng ta đã xử lý Morgan xong rồi, gia đình ấy sẽ vui vẻ hạnh phúc hơn hẳn. Nhưng trước hết chúng ta phải tìm cho ra hắn đã.”
“Alice bảo ông bà Hurst nói dối đấy ạ. Morgan ghé về nông trại ấy luôn.”
“Giờ thì hắn lại làm thế à!”
“Alice bảo lúc này đây Morgan không có ở đấy nhưng hắn sẽ quay về bất cứ lúc nào.”
“À, vậy thì có lẽ đấy là nơi ngày mai chúng ta bắt đầu cuộc tìm kiếm,” Thầy Trừ Tà trầm ngâm bảo.
Khi sự im lặng kéo dài thêm, tôi giữ lời mình đã hứa cùng Alice dù biết hỏi xin điều ấy chỉ là tốn công vô ích.
“Alice lại đến ở với chúng ta được không ạ?” tôi hỏi. “Bạn ấy đang phải chịu một quãng thời gian rất tồi tệ. Bỏ rơi bạn ấy khi ở đây chúng ta có đủ phòng ở thì ác quá.”
“Tại sao lại phải hỏi khi con đã biết câu trả lời là gì?” Thầy Trừ Tà trừng mắt giận dữ nhìn tôi. “Đừng có yếu lòng như thế. Nếu con để trái tim chi phối đầu óc thì thế lực bóng tối sẽ đánh bại con bất cứ lúc nào. Anh bạn, hãy nhớ lấy điều ấy – một ngày nào đó điều này sẽ cứu mạng con đấy. Và chúng ta đã có đủ phù thủy sống tại đây rồi.”
Vậy là chấm hết. Nhưng ngày hôm sau chúng tôi đã không ghé qua nông trại của gia đình nhà Hurst. Có chuyện xảy đến đã làm thay đổi mọi việc.