Chương 7 KẸ NÉM ĐÁ
Ngay sau bữa điểm tâm, một anh nông dân to lớn, vạm vỡ đến nện ầm ầm vào cửa sau bằng cả hai nắm tay, như thể mạng sống chính anh ta phụ thuộc vào cánh cửa này vậy.
“Này anh đang làm gì thế hả, cái đồ vụng về to xác kia?” Thầy Trừ Tà vừa ra mở rộng cửa vừa quát lên. “Tính đập gãy cánh cửa khỉ gió này à?”
Anh chàng thôi không đập cửa nữa và mặt hơi ửng đỏ. “Tôi hỏi thăm tin tức về ông ở dưới làng kia,” anh ta nói, đồng thời chỉ tay về phía Adlington. “Một người thợ mộc ra khỏi sân và chỉ đường lên trên này. Anh ấy bảo tôi phải gõ mạnh vào cửa sau.”
“Phải đấy, nhưng anh ta bảo là gõ, chứ có phải tống gãy bản lề đâu,” Thầy Trừ Tà giận dữ bảo. “Mà thôi, anh có việc gì liên quan đến ta thế?”
“Bố tôi cử tôi đến đây. Ông ấy bảo là phải đến ngay. Chuyện xấu lắm ạ. Một người đã mất mạng rồi.”
“Bố anh là ai thế?” Thầy Trừ Tà hỏi.
“Henry Luddock. Chúng tôi ngụ tại Trang trại Stone gần hẻm núi Owshaw.”
“Ta đã từng gặp bố anh và trước đây có làm việc cho ông ấy. Anh là William chăng?”
“Đúng ạ...”
“Chà, William này, lần cuối cùng ta đến thăm Trang trại Stone thì anh còn là thằng bé con còn ẵm ngửa. Thôi, ta có thể thấy anh đang bồn chồn lo lắng, vào trong này mà nghỉ chân nào. Rồi hít thở sâu vào, trấn tĩnh lại mà thuật hết cho ta nghe ngay từ đầu. Ta muốn biết thật chi tiết, thế nên đừng bỏ sót phần nào nhé,” Thầy Trừ Tà ra lệnh.
Khi chúng tôi đi qua bếp để vào phòng khách, tôi không thấy bóng dáng Meg đâu cả. Khi không làm lụng thường thì bà ấy ngồi bên ghế đu, hơ tay sưởi ấm bên bếp lửa. Tôi thắc mắc không biết có phải bà ấy lánh đi khi chúng tôi có khách hay chăng – là việc lẽ ra lần trước bà ấy phải làm khi Shanks đến giao lương thực ấy.
Vào đến phòng khách, William bắt đầu thuật lại câu chuyện về một loạt các sự kiện đã bắt đầu thật tồi tệ và rồi càng trở nên xấu đi. Hình như có một ông kẹ, chắc là tên mà tôi và thầy từng nghe chạy ngang qua mạch hóc xoáy cách đây mấy đêm, đến làm ổ tại Trang trại Stone. Ông kẹ này đã khua khoắng hết nồi niêu xoong chảo trong bếp, đập cửa trước rầm rầm rồi lại đấm thùm thụp vào tường nhà vài lần. Từng ấy thôi đã đủ để tôi xác định ngay tên ấy là loại ông kẹ nào, căn cứ vào những ghi chép của tôi về các loại ông kẹ.
Đấy là một kẹ phá nhà, nên tôi liền đoán ra chuyện gì sẽ xảy đến tiếp theo trong câu chuyện của William. Sáng ngày hôm sau, ông kẹ bắt đầu ném đá. Thoạt đầu chỉ là mấy viên sỏi be bé va lách cách vào cửa sổ, lăn xuống vách tường đá hay lọt xuống ống khói. Và rồi mấy viên đá trở nên to hơn. To hơn nhiều.
Thầy Trừ Tà từng dạy tôi rằng kẹ phá nhà nhiều khi phát triển thành kẹ ném đá. Đấy là những ông kẹ ác tính và xử lý bọn này rất nguy hiểm. Người đã bỏ mạng là một người chăn cừu do ông Henry Luddock mướn về. Xác người này được tìm thấy bên mạn sườn xuôi của đồng hoang.
“Đầu ông ấy nát bấy,” William kể. “Tảng đá đó còn lớn hơn đầu ông ấy nữa.”
“Anh có chắc đấy không phải là tai nạn không?” Thầy Trừ Tà hỏi. “Biết đâu ông ta chỉ trượt chân, té ngã rồi đập đầu xuống đất thì sao.”
“Bọn tôi tin chắc mà: ông ấy nằm ngửa và bị tảng đá đè lên người. Và rồi, trong khi chúng tôi đang khiêng xác xuống, lại có thêm những tảng đá khác rơi rào rào xuống xung quanh. Thật kinh khủng. Tôi cứ tưởng là mình chết tới nơi. Vậy ông sẽ đến giúp chứ ạ? Xin ông đấy. Bố tôi sắp phát rồ vì lo lắng rồi. Có bao nhiêu việc cần làm nhưng lại không an toàn chút nào khi ra khỏi nhà.”
“Được, anh quay về bảo với bố anh là ta đang trên đường xuống đấy. Còn về công việc, cứ vắt sữa bò đi rồi chỉ làm những việc cần thiết. Đám cừu có thể tự lo cho chúng, ít nhất là cho đến khi trời đổ tuyết, cho nên các anh hãy tránh xa khu vực sườn đồi đi nhé.”
Khi William đi rồi, Thầy Trừ Tà quay sang tôi lắc đầu với vẻ mặt nghiêm trọng. “Chuyện không hay đấy, anh bạn,” thầy bảo. “Kẹ ném đá có quấy phá thật nhưng hiếm khi giết hại người, nên ông kẹ lần này là thứ lật lọng và rất có thể sẽ làm như thế nữa. Trước đây ta từng xử lý một hai tên như thế và thường kết thúc với ít nhất là một cái đầu đau nhức. Việc này khác với việc xử lý một kẹ xé xác, nhưng đôi khi cũng rất nguy hiểm. Đã từng có các thầy trừ tà bị kẹ ném đá giết chết.”
Mùa thu rồi tôi từng đối phó với một kẹ xé xác. Khi ấy Thầy Trừ Tà bị ốm nên tôi phải ra tay mà không có thầy, với sự giúp sức của một anh thợ chằng cùng thợ phụ. Việc ấy khá đáng sợ vì kẹ xé xác thường lấy mạng con mồi. Đối phó với kẹ ném đá lần này cũng phải e dè lắm, nhưng mà theo kiểu khác. Bạn chẳng thể làm gì nhiều để bảo vệ chính mình khỏi những tảng đá từ trên trời rơi xuống!
“Chà, ai đó phải làm việc này thôi!” tôi vừa nói vừa mỉm cười, cố trưng ra gương mặt can đảm.
Thầy Trừ Tà nghiêm nghị gật đầu. “Chắc chắn là thế, anh bạn, nên chúng ta hãy bắt tay vào việc nào.”
Vẫn còn việc cần phải hoàn tất trước khi chúng tôi lên đường. Thầy Trừ Tà dẫn tôi trở vào phòng khách và bảo tôi lấy chiếc bình thủy tinh màu nâu dán nhãn “TRÀ THẢO DƯỢC” xuống.
“Này con, pha thêm cho Meg tách trà nữa,” Thầy Trừ Tà bảo. “Chỉ có điều lần này phải pha đậm hơn. Con rót đẫy vài lóng tay đi. Chừng đó sẽ đủ tác dụng vì chúng ta sẽ quay về trong tuần thôi.”
Tôi làm theo, rót ra ít nhất hai lóng tay thứ chất đen ngòm kia. Rồi tôi đun nước và đổ nước sôi gần đến miệng tách.
“Uống đi Meg,” Thầy Trừ Tà bảo bà ấy khi tôi đưa thầy cái tách nghi ngút hơi nước. “Bà cần thứ này vì thời tiết đang trở lạnh có thể khiến xương cốt bà đau nhức.”
Meg mỉm cười với Thầy Trừ Tà và trong vòng mười phút bà đã uống cạn, rồi đầu bà bắt đầu gà gật. Thầy Trừ Tà đưa cho tôi chiếc chìa khóa cổng sắt dưới cầu thang, bảo tôi đi trước dẫn đường. Đoạn thầy bế bổng Meg lên như thể bà ấy chỉ là một đứa bé rồi theo sát gót tôi.
Tôi mở khóa cổng ra, đi xuống mấy bậc thang và đợi bên ngoài cánh cửa chính giữa trong khi thầy tôi bế bà Meg vào trong căn phòng tối om. Thầy để cửa mở nên tôi có thể nghe rõ từng lời thầy nói với bà ấy.
“Chúc ngủ ngon, tình yêu của ta,” thầy nói. “Hãy mơ đến khu vườn của chúng ta nhé.”
Tôi biết lẽ ra mình không nên nghe lỏm, nhưng chuyện đã lỡ rồi, và tôi có chút xấu hổ khi nghe thấy không phải ai khác mà là chính thầy mình nói năng như thế.
Với lại Thầy Trừ Tà đang nói đến khu vườn nào nhỉ? Có phải thầy muốn ám chỉ mấy khu vườn ở Chipenden chăng? Nếu thế, tôi hy vọng ý thầy là khu vườn phía tây trông ra rặng đồi đá. Còn hai khu vườn kia, nơi toàn là hố nhốt ông kẹ và mồ chôn phù thủy ấy, thì không đáng để nghĩ đến làm gì.
Meg không đáp lại lời nào, nhưng hẳn Thầy Trừ Tà đã đánh thức bà ấy khi thầy bước ra ngoài khóa cửa lại, bởi vì đột nhiên bà bắt đầu khóc rên như một đứa bé hãi sợ bóng tối. Nghe thấy thế, Thầy Trừ Tà dừng lại và chúng tôi đứng chờ ngoài cửa thật lâu cho đến khi cuối cùng tiếng khóc cũng lịm dần và được thay thế bằng những âm thanh khẽ khàng hơn. Tôi nghe rõ tiếng hơi thở rít lên qua hàm răng của Meg khi bà thở hắt ra.
“Giờ bà ấy ổn rồi ạ,” tôi lặng lẽ thưa với thầy mình. “Bà ấy đang ngủ. Con có thể nghe thấy bà ấy ngáy kìa.”
“Nào phải đâu anh bạn!” Thầy Trừ Tà nói, mắt liếc tôi theo một trong những cách nhìn coi thường của thầy. “Nghe giống thở dài hơn là ngáy chứ!”
À thì, chắc hẳn với tôi lại nghe như tiếng ngáy, và tôi chỉ có thể nghĩ rằng Thầy Trừ Tà không thích những lời chê bai cho dù là nhẹ nhàng nhất về Meg. Mà thôi, dứt lời, thầy trò tôi đi lên mấy bậc thang, khóa cổng sắt lại và gói ghém đồ đạc chuẩn bị cho chuyến hành trình.
Chúng tôi đi về hướng đông, leo sâu hơn vào trong hẻm núi, cho đến khi khe núi trở nên hẹp đến mức hai thầy trò gần như phải bước đi ngay giữa lòng suối, còn trên đầu chỉ còn một khe trời tí xíu xám xịt. Và rồi, thật ngạc nhiên làm sao, chúng tôi bắt gặp vài bậc thang được đẽo vào trong vách đá.
Các bậc thang nhỏ hẹp, dốc đứng, trơn trượt, đôi chỗ còn vương vài mảng băng. Tôi đang vác chiếc túi nặng trịch của Thầy Trừ Tà, nghĩa là, nếu trượt chân, tôi chỉ có một tay còn rảnh để tự cứu mình.
Theo chân thầy mình, tôi cố gắng leo lên mà không xây xát gì, và chắc chắn là cũng bõ công leo lên lắm vì tôi lại được tận hưởng bầu không khí trong lành với khoảng không bốn bề mở rộng. Cơn gió đang quật phần phật không khéo là thổi bật chúng tôi bay khỏi đồng hoang, các đám mây thì âm u đầy đe dọa, lại còn đua nhau trôi sát qua đầu chúng tôi đến nỗi có cảm giác như ta có thể với tay lên và chạm vào chúng.
Như tôi đã nói, là vùng đồng hoang, Anglezarke tuy nằm trên cao nhưng lại bằng phẳng hơn các rặng đồi đá chúng tôi bỏ lại ở Chipenden nhiều. Tuy nhiên cũng có vài ngọn đồi cùng thung lũng, một số mang hình dáng khá kỳ quặc. Một ngọn đồi nổi bật hẳn lên vì đấy là mô đất bé nhất, tròn và nhẵn đến mức chẳng thể nào là tự nhiên được. Khi chúng tôi đi qua mô đất này, tôi bỗng nhận ra đây chính là gò mả mình từng trông thấy tên con trai nhà Hurst.
“Đây là nơi con đã thấy Morgan đấy ạ,” tôi bảo với Thầy Trừ Tà. “Khi ấy hắn đang đứng ngay trên đỉnh mô đất này.”
“Chắc chắn là thế rồi. Hắn luôn bị cái gò mả ấy mê hoặc và không cách nào tránh xa nó. Người ta gọi đây là Gò Ụ Tròn, con biết đấy, là do hình dáng của nó,” Thầy Trừ Tà tì người lên thanh trượng mà nói. “Nó được những người đầu tiên phương tây đặt chân đến Hạt dựng lên từ thời xa xưa. Họ cập bến vào Heysham, như con đã biết rồi đấy.”
“Gò này để làm gì vậy ạ?” tôi hỏi.
“Chắc là ít người biết lắm, nhưng nhiều kẻ ngu ngơ đến mức đoán mò đoán đại. Phần lớn người ta nghĩ đây chỉ là một gò mả, nơi một vị vua cổ đại nào đấy an nghỉ cùng với bộ giáp sắt và vàng bạc của mình. Những kẻ tham lam đã đào bao chiếc hố sâu hoắm, nhưng dù là nhọc công đến thế, bọn họ vẫn chẳng tìm thấy gì cả. Con có biết từ Anglezarke nghĩa là gì không, anh bạn?”
Tôi lắc đầu rồi rùng mình vì lạnh.
“À, nó có nghĩa là ‘ngôi đền của những kẻ ngoại đạo’. Toàn bộ vùng đồng hoang này là một nhà thờ bao la mở rộng lên trời, nơi những người thời xưa thờ cúng các vị Cổ Thần. Và, như mẹ con đã bảo, kẻ quyền năng nhất trong các vị thần ấy tên là Golgoth, Chúa Tể Mùa Đông. Mô đất này, có người nói, là bệ thờ chuyên biệt cho vị thần nọ. Khởi thủy thì vị thần này là một thế lực thiên nhiên hùng mạnh, là một vị thần của tự nhiên rất yêu thích cái lạnh. Nhưng vì được thờ tế quá lâu và quá nhiệt thành, hắn ta ý thức được điều này và bắt đầu trở nên ngạo ngược, đôi khi còn nấn ná lại rất lâu sau mùa mình được phân công và đe dọa sẽ gây ra một năm ròng chỉ toàn băng tuyết. Có người thậm chí còn nghĩ chính quyền năng của Golgoth đã gây ra Kỷ băng hà cuối cùng. Ai mà biết sự thật thế nào cơ chứ? Dù sao đi nữa, giữa mùa đông, vào ngày đông chí, sợ rằng cái lạnh sẽ chẳng đời nào chấm dứt và mùa xuân sẽ vĩnh viễn không quay trở lại, người ta đã dâng tế vật để làm Golgoth nguôi ngoai. Tế vật bằng máu đấy, vì con người chẳng bao giờ rút ra được bài học cả.”
“Máu súc vật ạ?” tôi hỏi.
“Máu người đấy anh bạn – họ làm thế để sau khi Golgoth uống máu các nạn nhân no nê, hắn sẽ thỏa mãn mà chìm sâu vào giấc ngủ, để mùa xuân được quay trở lại. Xương cốt của những nạn nhân bị tế vẫn còn tồn tại. Con mà đào bất kỳ nơi nào trong vòng một dặm quanh đây liền sẽ tìm thấy một đống xương cho xem.
“Mô đất này là một thứ khác khiến ta cứ mãi băn khoăn về Morgan. Hắn không thể nào rời xa nơi này và luôn có hứng thú với Golgoth – hứng thú đến độ làm ta chẳng thích nổi – và chắc là hắn vẫn còn như thế. Con biết đấy, có vài kẻ cho rằng Golgoth có thể là chìa khóa để đạt được pháp thuật thượng thừa, và nếu một pháp sư như Morgan chạm đến quyền năng của Golgoth, khi ấy sức mạnh của thế lực bóng tối sẽ bao trùm toàn Hạt này.”
“Và thầy nghĩ là Golgoth vẫn còn ở đây, đâu đó trên đồng hoang này...”
“Đúng vậy. Người ta đồn vị thần này đang say giấc sâu bên dưới lòng đồng hoang kia. Và đấy là lý do vì sao lòng hứng thú với Golgoth của Morgan thật nguy hiểm. Vấn đề là, anh bạn à, các vị Cổ Thần có uy lực khi họ được những kẻ điên rồ thờ phụng. Khi việc thờ phụng kết thúc, quyền năng của Golgoth suy yếu, thế là hắn ta rơi vào trạng thái mê ngủ. Một giấc ngủ mà chúng ta không muốn hắn thức giấc đâu.”
“Nhưng tại sao người ta lại ngừng thờ phụng hắn ta vậy? Con tưởng người ta sợ là mùa đông sẽ không bao giờ chấm dứt cơ mà?”
“Phải, điều ấy đúng đấy anh bạn, nhưng đôi khi có những tình huống khác còn quan trọng hơn nhiều. Có lẽ là một bộ tộc hùng mạnh hơn chuyển đến vùng đồng hoang này mang theo một vị thần khác. Hoặc có lẽ mùa màng thất bát và người ta phải chuyển sang khu vực màu mỡ phì nhiêu hơn. Lý do qua bao đời nay đã bị thất lạc đi mất, nhưng giờ đây Golgoth vẫn đang yên ngủ. Và ta muốn mọi chuyện ở yên như cũ. Vậy nên con hãy tránh xa nơi này nhé anh bạn, lời khuyên của ta đấy. Và hãy cách li Morgan khỏi nơi đây nữa. Giờ thì đi thôi, trời không còn sớm sủa gì đâu, ta nhanh chân bước tiếp nào.”
Nói đoạn Thầy Trừ Tà dẫn đường đi tiếp, một giờ đồng hồ sau chúng tôi đã đi xuống hết vùng đồng hoang và di chuyển về hướng bắc, đến được Trang trại Stone trước khi trời tối. William, anh con trai của bác nông dân, đang đứng chờ hai thầy trò ở cuối con đường đất, và chúng tôi cùng nhau đi lên đồi về phía nông trại ngay khi ánh sáng bắt đầu nhá nhem. Nhưng trước khi ghé qua nông trang, Thầy Trừ Tà khăng khăng muốn được dẫn đến nơi tìm thấy xác chết.
Lối mòn từ cổng sau sân nông trại dẫn thẳng lên đồng hoang, lúc này đã tối đen và thật đáng sợ nổi bật trên nền trời xám. Giờ đây khi gió đã lặng, các đám mây đang lờ đờ trôi và trông nặng nề những tuyết.
Đi khoảng hai trăm bước, chúng tôi đến được hẻm núi còn nhỏ hơn hẻm núi nơi ngôi nhà của Thầy Trừ Tà tọa lạc rất nhiều, nhưng lại trông u ám gớm ghiếc chẳng kém. Nơi này chỉ là một khe núi chật hẹp đầy bùn đất và đá tảng, bị ngăn đôi bởi một con suối cạn nước xiết.
Hình như chẳng có gì nhiều để xem xét nhưng tôi lại thấy bất an và cả William cũng vậy. Anh chàng cứ đảo mắt nhìn lên trời mãi và liên tục bất chợt quay ngoắt đi như thể đang nghĩ có thứ gì đó rình rập sau lưng anh ấy. Trông thì buồn cười lắm nhưng vì đang quá lo sợ nên tôi cười không nổi.
“Đến nơi rồi chứ gì?” Thầy Trừ Tà hỏi khi William đột nhiên dừng sững lại.
William gật đầu và chỉ tay về phía một vạt đất, nơi mấy túm cỏ bẹp dí.
“Còn kia là tảng đá chúng tôi đã nhấc khỏi đầu ông ấy,” anh vừa nói vừa chỉ sang một tảng đá xám to cộ. “Phải hai người chúng tôi mới nhấc nổi đấy!”
Tảng đá này to thật, tôi rầu rĩ đưa mắt nhìn sang, lòng hãi sợ khi nghĩ rằng một vật gì đó tương tự có khả năng từ trên trời rơi xuống. Điều này khiến tôi ngộ ra kẹ ném đá có thể nguy hiểm đến dường nào.
Và rồi, bất thình lình, đá bắt đầu rơi xuống thật. Viên đầu tiên nhỏ thôi, tiếng đá chạm xuống bãi cỏ khẽ đến nỗi tôi chỉ nghe thấy trên nền tiếng nước chảy ồng ộc. Tôi ngước nhìn lên trời mây vừa kịp lúc trông thấy một viên đá to hơn hẳn rơi xuống, chỉ cách đầu tôi trong gang tấc. Chẳng mấy chốc đá sỏi đủ cỡ đủ loại bắt đầu rơi xung quanh chúng tôi, vài viên đá đủ to để gây ra chấn thương nghiêm trọng.
Thầy Trừ Tà chỉ thanh trượng về hướng nông trang và, ngạc nhiên làm sao, thầy bắt đầu dẫn đường quay trở xuống hẻm núi. Chúng tôi lẹ làng di chuyển, tôi chật vật lắm mới theo kịp, chiếc túi trở nặng theo mỗi bước đi, bùn đất dưới chân tôi trơn tuột. Mãi tới khi đến được nông trang, chúng tôi mới ná thở mà dừng lại.
Đá đã ngừng rơi nhưng một trong số chúng đã kịp gây ra tổn thất. Trên trán Thầy Trừ Tà có một vết cắt và máu đang nhỏ xuống. Cũng không nghiêm trọng và đe dọa đến sức khỏe của thầy, nhưng trông thầy bị thương như thế khiến tôi lo lắng.
Tên kẹ ném đá đã giết chết một người đàn ông, ấy vậy mà bằng cách nào đó, thầy tôi – người đã qua thời sung sức – lại sắp phải đối mặt với nó. Tôi biết ngày mai thầy thật sự cần đến sự trợ giúp của mình. Nhất định ngày mai sẽ là một ngày kinh hoàng.
Henry Luddock chào đón chúng tôi khi chúng tôi quay lại nông trang. Chẳng bao lâu sau chúng tôi được mời vào ngồi trong gian bếp nhà ông, trước lò sưởi củi cháy phừng phừng. Henry là một người đàn ông to con, vui tính, mặt đỏ lựng, người không để mối đe dọa từ ông kẹ làm mình chùn lòng. Ông rất buồn về cái chết của người chăn cừu mà mình thuê về, nhưng ông lại rất tử tế và chu đáo với chúng tôi, lại còn muốn tiếp đón chúng tôi bằng một bữa tối thịnh soạn.
“Cảm ơn vì đã mời nhé Henry,” Thầy Trừ Tà lịch sự từ chối. “Anh thật tốt bụng, nhưng chúng tôi không bao giờ làm việc với cái dạ dày no căng cả. Làm thế chỉ tổ rước thêm rắc rối thôi. Nhưng mọi người cứ việc ăn uống và ăn bao nhiêu tùy thích.”
Thật đáng buồn cho tôi vì đấy chính xác là điều mà gia đình Luddock đã làm. Họ an tọa và chén đẫy những suất bánh nướng nhân thịt bê to tướng, trong khi đấy một miếng phó mát vàng vọt hèn mọn và một ly nước lã là tất cả những gì Thầy Trừ Tà cho phép chúng tôi ăn.
Vậy là tôi ngồi đấy gặm nhấm mẩu phó mát của mình, ngẫm nghĩ về Alice trong căn nhà mà cô gái thấy không vui vẻ gì. Nếu không có vụ ông kẹ này, hẳn Thầy Trừ Tà đã ra tay xử lý Morgan để làm mọi chuyện sáng sủa hơn. Nhưng với việc phải đối mặt với một kẹ ném đá, ai mà biết khi nào thầy mới có thời gian lo đến chuyện kia.
Trong nhà gia đình Luddock không còn phòng ngủ nào trống, thế là tôi và Thầy Trừ Tà phải trải qua một đêm bất tiện, mỗi người cuộn mình trong một tấm chăn nằm dưới sàn bếp, cạnh đám tro lò sưởi. Vừa lạnh vừa mỏi cứng cả người, sáng hôm sau chúng tôi thức dậy trước lúc bình minh ló dạng một đỗi lâu và khởi hành đi đến ngôi làng gần nhất, tên là Belmont. Ngôi làng nằm mãi cuối chân đồi, khiến cho việc đi xuống đấy thật dễ dàng, nhưng tôi biết sớm thôi, chúng tôi sẽ phải bước lại theo lối cũ, khó nhọc vất vả leo ngược lên đồi trở về nông trang.
Belmont không rộng lớn mấy – chỉ là một ngã tư đường với nửa tá nhà cửa cùng lò rèn mà chúng tôi ghé đến. Bác thợ rèn trông chả có vẻ gì là vui vẻ khi thấy chúng tôi, nhưng chắc đấy là do chúng tôi gõ cửa buộc bác ra khỏi giường. Bác to cao vạm vỡ như đa số các thợ rèn, chắc chắn là kiểu người ta không nên giỡn mặt, nhưng bác ta lại nhìn Thầy Trừ Tà với vẻ thận trọng dè chừng và dường như không được tự nhiên thoải mái cho lắm. Rõ là bác ta biết tỏng thầy tôi làm nghề gì.
“Ta cần một chiếc rìu mới,” Thầy Trừ Tà bảo.
Bác thợ rèn chỉ ra đằng sau lò rèn, nơi có bày một số lưỡi rèn đúc thô sẵn để được rèn nhẵn thành thành phẩm.
Thầy Trừ Tà chọn rất nhanh, chỉ vào lưỡi rìu lớn nhất. Đấy là loại rìu hai lưỡi to tướng và bác thợ rèn loáng đưa mắt nhìn ngang dọc người thầy tôi, như thể ước lượng đánh giá liệu thầy có đủ to đủ khỏe để sử dụng nó không.
Thế rồi, không chút do dự, bác thợ rèn gật đầu, cảu nhảu càu nhảu rồi bắt tay vào việc. Tôi đứng bên cạnh bể rèn quan sát, trong khi bác thợ đun nóng, đập chan chát để tạo hình lưỡi rìu trên đe, thảng hoặc nhúng lưỡi rìu vào chậu nước tạo nên tiếng xì xèo rõ to cùng một đám mây hơi nước.
Bác thợ đóng lưỡi rìu vào một cái cán dài bằng gỗ trước khi mài sắc lưỡi trên đá mài, những tàn lửa bay lên tung tóe. Tổng cộng cũng phải mất gần một giờ đồng hồ thì bác thợ rèn mới chịu hài lòng và đưa chiếc rìu cho Thầy Trừ Tà.
“Tiếp đến ta cần một tấm khiên thật lớn,” Thầy Trừ Tà bảo. “Khiên phải đủ lớn để che chắn cho cả hai người chúng ta nhưng cũng phải thật nhẹ sao cho anh bạn kia có thể dùng tay giơ nó cao khỏi đầu.”
Bác thợ rèn trông có vẻ ngạc nhiên nhưng vẫn đi vào trong kho hàng ở phía sau rồi trở ra với một tấm khiên đại hình tròn. Chiếc khiên bằng gỗ, có viền kim loại bao quanh. Khiên còn có tâm khiên bằng kim loại kèm theo mũi giáo nhọn, thế là bác thợ bắt đầu tháo phần tâm khiên ra thay thêm gỗ vào đấy để làm chiếc khiên nhẹ đi. Rồi bác dùng thiếc phủ lấy mặt ngoài khiên.
Nếu nắm lấy mép ngoài khiên, giờ đây tôi đã giơ được chiếc khiên lên khỏi đầu bằng hai cánh tay vươn ra hết cỡ. Thầy Trừ Tà bảo như thế lại không ổn vì các ngón tay tôi sẽ bị đau khiến tôi đánh rơi khiên. Thế là sợi dây đai bằng da thường thấy được thay thế bằng hai tay cầm bằng gỗ ngay bên trong mép khiên.
“Được rồi, để xem con làm được gì nào,” Thầy Trừ Tà nói.
Thầy bắt tôi giơ cao khiên theo nhiều tư thế với nhiều góc độ khác nhau, và rồi khi đã vừa ý, thầy trả tiền cho bác thợ rèn và thầy trò chúng tôi khởi bước quay lại Trang trại Stone.
Chúng tôi leo thẳng đến đồi đá. Thầy Trừ Tà phải bỏ thanh trượng lại đằng sau vì hai tay thầy đã bận mang theo rìu và túi. Tôi thì chật vật với chiếc khiên nặng trịch, bụng thấy mừng vì thầy không còn muốn tôi vác thêm túi của thầy nữa. Chúng tôi cứ leo lên mãi cho đến khi đến được nơi người chăn cừu mất mạng. Đoạn Thầy Trừ Tà dừng lại và nhìn chòng chọc vào mắt tôi.
“Anh bạn này, bây giờ con can đảm lên nhé. Phải thật can đảm vào. Và chúng ta phải ra tay nhanh gọn,” thầy bảo tôi. “Ông kẹ đang sống dưới đám rễ của cây gai già đằng trên kia kìa. Chúng ta phải đốn cây xuống rồi đốt nó đi để ép ông kẹ lò mặt ra ngoài.”
“Làm sao thầy biết vậy ạ?” tôi hỏi. “Kẹ ném đá thường hay sống dưới rễ cây lắm hả thầy?”
“Bọn chúng sống ở bất cứ đâu chúng thích. Nhưng nói chung ông kẹ thường thích sống trong hẻm núi, nhất là dưới rễ của mấy loại cây gai. Người chăn cừu đã bị giết ngay dưới chân hẻm núi này. Và ta biết xa xa trên kia có một cây gai bởi vì đấy đích thị là nơi ta từng đối phó với ông kẹ mới đây nhất, khoảng mười chín năm trước, khi nhóc John mới chỉ là thằng bé ẵm ngửa và Morgan là chân học việc của ta. Nhưng chuyện này có chút rắc rối cho chúng ta đây, vì trong khi lần trước ông kẹ kia chịu nghe lấy đôi lời thương thuyết hữu nghị mà bỏ đi khi ta yêu cầu, thì lần này lại là một kẹ ném đá lật lọng đã từng giết người, nên chỉ nói năng thuyết phục thôi e không đủ đâu.”
Thế rồi, tiến thẳng lên hướng bắc, thầy trò chúng tôi bước vào vùng ven phía tây hẻm núi, Thầy Trừ Tà đi nhanh như gió trước mặt tôi: chẳng mấy chốc cả hai chúng tôi đều thở hồng hộc. Đám bùn đất dưới chân dần dà nhường chỗ cho đá sỏi rời rạc, khiến cho bước đi càng thêm khó khăn.
Thoạt tiên chúng tôi giữ khoảng cách gần với đỉnh hẻm húi, nhưng rồi Thầy Trừ Tà dẫn đường đi xuống sườn núi đầy đá nhỏ cho đến lúc chúng tôi đến được ven bờ suối. Dòng suối cạn nhách và hẹp lòng nhưng nước vẫn chảy ồng ộc qua các tảng đá, ồ ạt đổ về xuôi với sức nước mạnh đến mức việc băng qua con suối này hẳn là không dễ. Chúng tôi tiếp tục đi ngược lên dòng chảy, hai bên bờ suối dốc đứng dẫn lên cho đến khi trên đầu chỉ còn trông thấy một kẽ hở trời mây nhỏ hẹp. Và rồi, mặc cho dòng suối chảy ồn ã là thế, tôi vẫn nghe thấy tiếng viên sỏi đầu tiên rơi tõm xuống vùng nước ngay phía trước.
Đây là điều nãy giờ tôi chờ đợi, không lâu sau đấy còn có thêm nhiều viên sỏi nữa, buộc tôi phải lôi khiên từ sau lưng ra mà cố giơ nó lên trên đầu hai thầy trò. Thầy Trừ Tà cao hơn tôi nên tôi phải giương khiên thẳng lên hết cỡ, và chẳng mấy chốc hai vai và tay tôi đã bắt đầu nhức nhối. Mặc dù tôi đang giơ khiên cao hết cỡ, Thầy Trừ Tà vẫn phải cúi lom khom và việc đi tiếp tới trước thật chẳng dễ dàng gì cho cả hai chúng tôi.
Chúng tôi nhanh chóng trông thấy cây gai nọ. Cây không to lớn lắm nhưng là một cây rất lâu đời, đen đúa với thân cây vặn vẹo, rễ cây xù xì trông như bao móng vuốt. Cây gai hiên ngang đứng đấy, sống sót qua bao lần thời tiết khắc nghiệt nhất trong hàng trăm năm trời có lẻ. Đây quả là nơi thích hợp cho ông kẹ làm ổ, nhất là với một kẹ ném đá như tên này, loại kẹ luôn tránh xa con người và thích cô độc một mình.
Mỗi phút trôi qua, đám đá sỏi rơi xuống càng lớn dần, khi chúng tôi vừa đến được chỗ cây gai, một viên đá to hơn nắm tay đã rơi choảng xuống khiên, sém chút làm tôi buông tay.
“Này, giữ cho chắc vào chứ!” Thầy Trừ Tà quát lên.
Thế rồi đá bỗng ngừng rơi.
“Đằng kia kìa...” Thầy chỉ tay, và tôi trông thấy ông kẹ đang bắt đầu hiện hình dưới bóng các tán cây. Thầy Trừ Tà đã bảo tôi rằng ông kẹ thực ra là một linh hồn không xác thịt, không xương không máu; nhưng có lúc, khi muốn dọa nạt con người, chúng sẽ khoác lên mình những lốt mắt thường có thể nhìn thấy. Lần này, ông kẹ sử dụng bùn đá dưới gốc cây. Đống bùn đất ấy dâng lên thành một đám mây ướt nhẹp to tướng vần vũ dính sát vào ông kẹ để người ta nhìn ra hình dạng của nó.
Cảnh tượng này không đẹp mắt gì cho lắm. Ông kẹ có sáu cánh tay to vật, mà theo tôi, chúng rất hữu ích trong việc ném đá. Chả trách sao tên này ném vừa nhanh lại vừa nhiều đến vậy. Đầu nó cũng khổng lồ nữa chứ, mặt bị bùn đất che hết, trông như một đống chất nhễu nhão lẫn sỏi nhúc nhích khi nó cau có nhìn chúng tôi, như thể đang có một cơn động đất xảy đến bên dưới lòng đất kia. Còn có một khe hở đen ngòm là miệng ông kẹ và hai cái hốc lớn đen thui ở nơi lẽ ra phải là hai mắt.
Chẳng màng đến ông kẹ và cũng không bỏ phí thời khắc nào, vì đá cuội lại bắt đầu trút xuống, Thầy Trừ Tà xông thẳng đến cây gai, khi thầy đi đến nơi thì tay rìu đã vun vút chặt xuống. Loại cây xù xì già nua này rất dai và phải chặt kha khá phát thì mấy cành cây mới chịu đứt xuống. Tôi chẳng thấy ông kẹ đâu nữa, vì mãi bận bịu cố giữ chiếc khiên che trên cao đỡ lấy mấy tảng đá rơi về phía mình. Dường như chiếc khiên mỗi lúc một trở nặng và hai cánh tay tôi run bần bật khi cố hết sức giơ khiên cao như thế.
Thầy Trừ Tà tấn công sang gốc cây, điên cuồng phang vào đấy. Khi ấy tôi hiểu ra vì sao thầy lại chọn loại rìu hai lưỡi: thầy vung rìu theo chiều xuôi lẫn chiều ngược thành những đường vòng cung thật lớn gặt xuống như lưỡi hái, khiến tôi thấy nguy cho cả tính mạng của mình. Nhìn thầy, bạn sẽ không thể nào đoán được là thầy mạnh đến nhường ấy. Thầy có còn trẻ nữa đâu, nhưng lúc ấy tôi biết, căn cứ vào cái cách lưỡi rìu bập sâu vào thân cây, rằng bất chấp tuổi tác cũng như tình hình sức khỏe gần đây cứ đau yếu luôn, ít ra thầy vẫn còn khỏe như bác thợ rèn và hẳn là mạnh bằng hai lần bố tôi ấy chứ.
Thầy Trừ Tà không đốn ngã cây ngay xuống; thầy chẻ đôi gốc cây, đoạn đặt rìu xuống và thò tay vào chiếc túi da màu đen của mình. Tôi không thể nhìn rõ thầy đang làm gì vì đống đá bắt đầu đổ xuống còn nhanh hơn bao giờ hết. Tôi liếc xéo sang bên, nhìn thấy ông kẹ dần uốn éo lay động và phình to ra: những bắp thịt ú nần to lớn đang trồi lên khắp người nó như những mụt mủ sục sôi nóng giận. Và rồi, khi bùn đất và sỏi đá phóng lên, ông kẹ gần như phình to gấp đôi lúc nãy. Có hai điều nhanh chóng nối đuôi nhau diễn ra.
Điều thứ nhất là có một tảng đá khổng lồ từ trên trời rơi xuống ngay bên phải chúng tôi rồi cắm ngập xuống đất đến ngang nửa. Nếu tảng đá này mà tương ngay lên chúng tôi thì hẳn chiếc khiên cũng vô dụng. Thầy trò tôi chắc đã dẹp lép. Điều thứ hai là đột nhiên cây gai bốc cháy. Như tôi đã nói đấy, tôi không có dịp nhìn xem Thầy Trừ Tà đã làm thế bằng cách nào, nhưng kết quả chắc chắn là ngoạn mục. Cả thân cây bùng lên trong một tiếng phụt và rồi ngọn lửa sáng rực cả bầu trời, tàn lửa lép bép phóng ra tứ phía.
Lúc tôi nhìn sang trái, ông kẹ đã biến mất, vậy nên bằng hai cánh tay run rẩy, tôi hạ khiên chắn xuống và đặt mép dưới khiên tì lên mặt đất. Tôi vừa làm thế xong, Thầy Trừ Tà đã nhặt túi của mình lên, vác rìu lên vai, và chẳng buồn buông lấy một lời hay liếc ra sau một cái, thầy xăm xăm đi xuống đồi đá.
“Đi thôi nào anh bạn!” thầy giục tôi. “Đừng có lần khần!”
Thế là tôi nhặt khiên lên và đi theo, không dám cả gan liếc lại ra sau dù chỉ một lần.
Một lúc sau, Thầy Trừ Tà đi chậm lại và tôi bắt kịp thầy. “Xong rồi hả thầy?” tôi hỏi. “Vậy là chấm dứt chứ ạ?”
“Đừng ngớ ngẩn thế!” thầy vừa nói vừa lắc đầu. “Mọi việc chỉ mới bắt đầu thôi. Đấy chỉ mới là bước đầu tiên. Hiện tại nông trại của Henry Luddock đã được an toàn nhưng ông kẹ sẽ chóng giở chứng tiếp ở một nơi khác. Nhiều chuyện tồi tệ hơn còn chưa xảy đến đâu!”
Tôi thấy thất vọng vì cứ ngỡ rằng nguy hiểm đã qua và nhiệm vụ của thầy trò chúng tôi đã hoàn tất. Nãy giờ tôi thật lòng mong ngóng đến một bữa ăn nóng sốt ngon ngọt lắm rồi, nhưng giờ đây Thầy Trừ Tà đã dẹp tan mọi hy vọng của tôi vì chúng tôi phải tiếp tục nhịn đói.
Ngay khi quay trở lại nông trại, thầy tôi nói với ông Henry Luddock rằng thầy đã đuổi được ông kẹ đi. Ông Henry cảm ơn thầy rồi hứa sẽ trả công cho thầy vào mùa thu năm sau, ngay sau khi thu hoạch mùa màng xong; năm phút sau thầy trò chúng tôi lên đường quay về căn nhà mùa đông của Thầy Trừ Tà.
“Thầy có chắc là ông kẹ sẽ quay lại chứ? Con thật sự nghĩ là công việc đã xong rồi cơ đấy,” tôi nói với Thầy Trừ Tà khi chúng tôi băng qua đồng hoang, gió réo ầm ào sau lưng hai thầy trò.
“Thật ra, công việc mới xong có một nửa thôi anh bạn à, nhưng chuyện tồi tệ nhất lại chưa đến. Cũng giống như một con sóc chôn mấy hạt dẻ để ăn dần, ông kẹ cất nguồn năng lượng dự trữ tại nơi nó sống. Cũng may là, giờ thì nơi ấy đã tiêu tùng, đã bị thiêu rụi theo cây gai rồi. Chúng ta đã đánh thắng trận đấu lớn đầu tiên, nhưng trải qua vài ngày khôi phục sức lực, ông kẹ sẽ bắt đầu quấy phá người khác.”
“Vậy chúng ta sẽ phải chèn nó xuống hố ạ?”
“Không đâu con. Khi một kẹ xé xác giết người tỉnh bơ như thế, nó cần được tiêu diệt một lần dứt điểm!”
“Nó sẽ lấy sức mạnh mới từ đâu vậy ạ?” tôi hỏi.
“Từ nỗi sợ hãi, anh bạn ạ. Đấy là cách nó thu sức mạnh. Kẹ ném đá sống nhờ vào lòng sợ hãi của những kẻ bị nó hành hạ. Một vài gia đình đáng thương nào đấy quanh đây rồi sẽ phải chịu một đêm kinh hoàng đây. Ta không biết nó sẽ đi đâu hay sẽ chọn ai, nên ta không thể làm gì mà cũng không thể đưa ra lời cảnh báo. Đấy chỉ là một trong những điều chúng ta phải chấp nhận thôi. Giống như việc đốn gãy cái cây già nua tội nghiệp ấy. Ta không muốn làm thế nhưng chẳng còn lựa chọn nào cả. Tên ông kẹ đó sẽ di chuyển tiếp, phục hồi sức lực, nhưng trong vòng một hai ngày tới nó sẽ tìm cho mình một cái ổ mới dài hạn hơn. Và đấy là khi sẽ có ai đó đến xin chúng ta giúp đỡ.”
“Nhưng tại sao ông kẹ lại lật lọng chứ?” tôi hỏi. “Tại sao nó phải giết người?”
“Tại sao người ta lại giết nhau?” Thầy Trừ Tà hỏi lại. “Có người giết có người không. Và có những người sinh ra là thiện nhưng kết thúc là ác. Ta nghĩ tên kẹ ném đá này chán phải làm kẹ phá nhà rình rập quanh mấy khu nhà dọa người ta sợ bằng cách khua gõ quấy phá về đêm rồi. Nó muốn có nhiều hơn nữa: muốn toàn bộ vùng sườn đồi thuộc về mình nên có ý định ép đuổi Henry Luddock đáng thương cùng gia đình ông ta ra khỏi nông trại. Nhưng giờ đây, vì chúng ta đã phá hủy ổ của nó, nó sẽ cần có ổ mới. Vậy nên nó sẽ di chuyển sâu hơn xuống hóc xoáy.”
Tôi gật gù.
“À, có lẽ cái này sẽ làm con vui vẻ hơn một chút,” thầy vừa nói vừa lấy trong túi quần ra một miếng phó mát màu vàng. Thầy bẻ một mảnh nhỏ đưa cho tôi. “Nhai thứ này đi,” thầy bảo tôi, “nhưng đừng có vội nuốt hết đấy.”
Trở về lại nhà Thầy Trừ Tà, chúng tôi mang Meg ra khỏi hầm, sau đó tôi quay lại với công việc và bài học thường ngày. Nhưng có một khác biệt lớn. Vì chúng tôi đang chờ ông kẹ gây rắc rối nên việc nhịn đói vẫn tiếp diễn. Thật là đau khổ cho tôi khi phải nhìn Meg nấu ăn cho bà ấy trong khi thầy trò tôi lại phải đói meo. Chúng tôi nhịn đói ba ngày ba đêm cho đến khi dạ dày tôi nghĩ là cổ họng mình đã bị cắt lìa rồi hay sao ấy, nhưng rốt cuộc, khoảng giữa trưa ngày thứ tư, từ cửa sau vang lên một tiếng gõ thật lớn.
“À há, ra mở cửa xem nào anh bạn!” Thầy Trừ Tà ra lệnh. “Chẳng nghi ngờ gì nữa, đây là tin tức chúng ta đang chờ đợi bấy lâu.”
Tôi tuân lời, nhưng khi ra mở cửa, thật kinh ngạc làm sao, tôi thấy Alice đang đứng ngay ngoài ấy.
“Ông lão Hurst sai tớ đến,” Alice bảo. “Dưới nông trại Cảnh Bờ Hoang có rắc rối về ông kẹ. Sao hả? Cậu sẽ không mời tớ vào sao?”