← Quay lại trang sách

Chương 10 TIN CHẲNG LÀNH-

Ngày hôm sau ông bà Hurst quay trở lại nhưng trông thật hoang mang bối rối, như thể họ không biết phải bắt tay vào dọn dẹp đống hỗn độn bằng cách nào. Thầy Trừ Tà đa phần là ngủ vùi nhưng chúng tôi không thể để thầy ở lại căn phòng có gió thông thốc qua cửa sổ kính vỡ, nên tôi lấy ít tiền trong túi của thầy đưa cho ông Hurst để trả chút tiền sửa chữa.

Nhân công được mướn từ dưới làng lên: thợ lắp kính gắn lại kính cửa sổ phòng ngủ và nhà bếp trong khi anh Shanks tạm thời đóng ván che các cửa sổ còn lại để giữ ấm. Bản thân tôi cũng có một ngày bận rộn, nhóm lò sưởi trong mấy phòng ngủ và một cái dưới bếp, rồi lại phụ giúp công việc nông trại nữa, nhất là việc vắt sữa. Ông lão Hurst có làm vài việc này nọ nhưng lại không để tâm mấy vào việc. Trông như thể ông không còn hứng thú với cuộc đời và đã đánh mất lòng vui sống.

“Ôi trời! Ôi trời!” ông luôn mồm lầm bầm một mình. Và có lần tôi nghe ông thốt lên khá rõ, khi ông nhìn lên mái kho chứa cỏ, gương mặt đầy thống khổ, “Tôi đã làm gì? Tôi đã làm gì để phải hứng chịu cảnh này cơ chứ?”

Đêm ấy, ngay sau khi chúng tôi ăn tối xong, ngoài cửa trước vang lên ba tiếng gõ lớn khiến ông lão Hurst tội nghiệp đột nhiên nhảy dựng lên, chút nữa là ngã khỏi ghế.

“Để tôi ra xem,” bà Hurst nói, nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay chồng mình. “Ông cứ ở lại đây, mình ạ, và cố giữ bình tĩnh nhé. Đừng bồn chồn lo lắng gì nữa đấy.”

Căn cứ vào phản ứng của họ tôi đoán ngoài cửa kia là Morgan. Và trong âm thanh gõ cửa lớn tiếng kia có thứ gì đó khiến tôi ớn lạnh đến tận xương. Lòng nghi ngờ của tôi đã được khẳng định khi Alice nhìn sang tôi, khóe môi trễ xuống khi cô khẽ mấp máy cái tên “Morgan”.

Morgan nghênh ngang đi trước bà mẹ vào phòng. Hắn mang theo túi và trượng. Trong trang phục áo choàng có mũ trùm, hắn trông giống một kẻ trừ tà như đúc.

“A, trong này đầm ấm đây. Và chẳng phải là anh chàng học việc trẻ tuổi đây sao,” hắn quay sang tôi. “Chào cậu Ward, chúng ta lại gặp nhau.”

Tôi gật đầu đáp lễ.

“Thế ở đây vừa xảy ra chuyện gì thế hử Lão Già?” Morgan buông lời miệt thị ông Hurst. “Ngoài sân kia trông đến tởm. Ông chẳng còn chút tự trọng nào sao? Ông để cho nơi này tan hoang hết cả rồi.”

“Không phải lỗi của ông ấy. Ngươi là đồ đầu đất hay sao thế?” Alice nạt lại, giọng cô chất chứa sự căm ghét. “Người ngờ nghệch nhất cũng có thể thấy đây là trò của ông kẹ cơ mà!”

Morgan giận dữ cau mày trừng mắt nhìn cô bé, tay khẽ giương trượng lên, nhưng Alice đáp lại cái nhìn của hắn bằng nụ cười khinh khỉnh.

“Vậy ra Thầy Trừ Tà phái tên học việc của lão đến để xử lý chuyện này đấy à?” Morgan quay sang hỏi bà mẹ. “À há, thế là biết ơn bà lắm đấy, Mụ Khọm nhỉ? Bà nhận chứa chấp con oắt phù thủy cho lão còn lão thì không buồn đến giúp chèn ông kẹ cho bà. Lão vẫn luôn là một tên độc ác nhẫn tâm thế mà.”

Trong tích tắc tôi bật phắt dậy. “Thầy Gregory đã đến ngay ấy chứ. Thầy đang nằm trên lầu vì đã bị thương rất nặng khi đối đầu với ông kẹ...”

Ngay lập tức tôi biết mình đã nói quá nhiều. Đột nhiên tôi thấy lo sợ cho thầy mình. Dạo trước Morgan đã từng đe dọa thầy tôi và lúc này đây Thầy Trừ Tà đang rất yếu ớt, không có khả năng tự vệ.

“Ô, vậy là mi nói được ư?” Morgan chế giễu tôi. “Nếu mi muốn biết, thì thầy mi rõ ràng đã hết thời rồi. Bị thương khi đang chèn một ông kẹ ư!? Trời đất, ấy là trò xoàng nhất trong sách! Nhưng là do tuổi tác cả đấy. Rõ ràng lão già ngu ngốc kia đã qua thời đỉnh cao. Ta nên lên trên lầu và trao đổi vài lời với lão ta.”

Dứt lời, Morgan băng qua phòng bếp và dợm bước lên cầu thang bằng gỗ dẫn đến phòng ngủ.Tôi rướn người qua thì thầm bảo Alice phải ở yên đấy. Đoạn tôi ra khỏi bếp bước lên theo hắn. Thoạt đầu tôi tưởng bà Hurst sẽ bảo tôi ở lại, nhưng bà ấy chỉ ngồi xuống vùi mặt vào hai lòng bàn tay.

Tôi bắt đầu rón rén đi lên mấy bậc thang, nhưng cầu thang phát ra tiếng cọt kẹt nên tôi chỉ leo được ba bậc rồi dừng lại lắng nghe tiếng cười khả ố của Morgan từ trên vọng xuống, theo sau đấy là tiếng Thầy Trừ Tà ho khan. Rồi cầu thang sau lưng tôi két lên, tôi quay nhìn xuống và trông thấy Alice đang giơ ngón tay đặt lên môi ra hiệu im lặng.

Tiếp đến giọng Thầy Trừ Tà từ trên phòng ngủ vọng ra. “Vẫn còn đào khoét cái gò cũ rích ấy à?” tôi nghe thấy thầy hỏi. “Một ngày nào đó việc này sẽ làm anh mất mạng đấy. Hãy biết suy nghĩ một chút. Tránh xa nơi ấy trong khi anh vẫn còn chút hơi thở đi.”

“Ngươi có thể giúp mọi chuyện dễ dàng hơn cho ta mà,” Morgan đáp. “Chỉ cần trả lại cho ta đồ của ta. Ta yêu cầu có bấy nhiêu thôi.”

“Nếu ta đưa cho anh, anh sẽ gây ra những tổn thất không kể xiết. Đấy là nếu như anh sống sót. Tại sao mọi chuyện phải như thế này cơ chứ? Hãy ngừng dính dáng đến thế lực bóng tối và đừng có ngu xuẩn nữa anh bạn! Hãy nhớ đến những lời anh từng hứa với mẹ anh. Vẫn chưa quá muộn để sống cuộc đời cho ra hồn.”

“Đừng vờ vịt như ngươi có quan tâm đến mẹ ta,” Morgan trả lời. “Mà đừng cả gan nhắc đến bà ấy nhé. Ngươi chẳng thèm đếm xỉa đến bất cứ ai trong gia đình chúng ta và đấy là sự thực. Ngươi nào có quan tâm đến ai ngoài mụ phù thủy kia. Khi Meg Skeleton xuất hiện thì người mẹ đáng thương của ta chẳng còn có lấy một cơ hội. Và làm thế ngươi được gì nào? Làm thế thì mẹ ta được gì ngoài việc cả đời sống trong lao khổ?”

“Không đúng đâu, anh bạn. Ta quan tâm đến anh và ta quan tâm đến mẹ của anh. Ta từng có thời yêu bà ấy, như anh cũng biết quá rõ rồi còn gì, và cả đời mình ta đã làm hết sức để giúp bà ấy. Và vì bà ấy ta đã cố để giúp anh, bất chấp những việc anh làm!”

Thầy Trừ Tà lại bắt đầu ho và tôi nghe thấy tiếng Morgan chửi thề rồi dợm bước ra cửa. “Giờ thời thế đã thay đổi rồi, Lão Già ạ, rồi ta sẽ có được thứ thuộc về ta thôi,” hắn bảo. “Và nếu như ngươi không đưa nó cho ta, ta sẽ dùng cách khác vậy.”

Alice và tôi cùng quay bước trở xuống cầu thang. Chúng tôi chỉ mới vào đến bếp thì đã nghe thấy tiếng ủng của Morgan giẫm trên đầu cầu thang.

Rồi cứ thế, Morgan chẳng hề nhìn qua chúng tôi. Với bản mặt hầm hầm, phớt lờ cả cha mẹ mình, hắn bước thẳng qua bếp đi ra sảnh ngoài. Tất cả chúng tôi lặng lẽ lắng nghe khi hắn rút chốt cửa ra, mở cửa ngoài sảnh và bắt đầu nện bước vào căn phòng đằng sau đấy. Một chốc sau chúng tôi lại nghe thấy hắn bước ra, khóa và chặn then cửa lại. Sau đấy hắn rời khỏi nhà; cánh cửa trước sập đánh sầm sau lưng hắn.

Tại bàn ăn không ai nói lời nào, nhưng tôi không thể không liếc sang bà Hurst. Vậy là Thầy Trừ Tà đã từng yêu cả người này nữa. Nghĩa là thầy có quan hệ với những ba người phụ nữ! Và đấy là một trong những lý do vì sao Morgan có vẻ có ác cảm với thầy đến vậy.

“Mình này, ta đi nằm thôi,” bà Hurst bảo chồng mình, giọng bà dịu dàng đầy yêu thương. “Mình cần ngủ một giấc thật ngon. Sáng ra mình sẽ thấy khỏe hơn nhiều.”

Nói đoạn, hai người họ rời khỏi bàn ăn, ông lão Hurst đáng thương lảo đảo bước về phía cửa, đầu cúi gằm. Tôi thật lòng thấy thương cho cả hai người bọn họ. Không ai đáng phải có một đứa con như Morgan. Vợ ông Hurst dừng ngay lối cửa và ngoái lại nhìn chúng tôi. “Hai đứa đừng đi ngủ muộn quá đấy,” bà ấy bảo, và hai chúng tôi cùng lễ phép gật đầu rồi lắng nghe họ cùng nhau leo lên cầu thang.

“Thôi,” Alice lên tiếng, “vậy là chỉ còn lại bọn mình. Vậy sao chúng ta không đi nhòm qua phòng của Morgan nhỉ? Ai mà biết chúng ta có thể tìm ra những gì...”

“Căn phòng hắn vừa mới đi vào ấy à?”

Alice gật đầu. “Đôi khi trong ấy vọng ra mấy âm thanh kỳ quặc. Tớ rất muốn xem trong ấy có gì.”

Thế là Alice lấy cây nến trên giá nến xuống rồi dẫn đường đi ra sảnh ngoài. Nếu quay lưng về cửa trước thì bạn có thể đi thẳng vào phòng khách; còn bên trái là một cánh cửa khác được sơn đen. Cánh cửa cài then từ bên ngoài.

“Là đây này,” Alice thì thào, chạm mũi giày nhọn bên chân trái vào cánh cửa và rút chốt ra. “Nếu cửa không khóa thì tớ đã tò mò làm một vòng trong ấy rồi. Nhưng giờ không còn vấn đề gì nữa. Chìa khóa của cậu sẽ chóng mở được cửa thôi mà Tom.” Cô chỉ vào ổ khóa.

Đúng là chiếc chìa của tôi đã mở được khóa và tôi đẩy nhẹ cửa vào. Căn phòng này rộng thật, chiều dài dài hơn chiều rộng, đầu kia phòng là một cửa sổ bị đóng ván có phủ tấm màn đen dày. Sàn nhà lát đá như phần còn lại ở tầng dưới, nhưng lại không có thảm trải nào cả. Và trong phòng chỉ có ba món đồ gỗ: một chiếc bàn gỗ dài, mỗi đầu bàn là một chiếc ghế lưng thẳng.

Alice dẫn đường bước vào phòng.

“Chẳng có gì nhiều để xem, phải không nào?” tôi bảo. “Cậu nghĩ là sẽ tìm thấy gì chứ?”

“Chẳng rõ, nhưng tớ nghĩ phải có thứ gì đó khác,” Alice lên tiếng. “Đôi khi tớ nghe có tiếng chuông rung trong này. Hầu hết là chuông bé, loại cậu cầm trong tay được ấy. Nhưng có một lần tớ nghe thấy tiếng chuông đám ma, âm thanh nghe lớn như thể đang gióng lên từ tháp chuông nhà thờ vậy. Vả lại còn thường xuyên có tiếng nước nhỏ tí tách và tiếng một cô gái khóc than nữa. Tớ cho rằng đấy là cô em gái đã chết của hắn.”

“Cậu nghe thấy các âm thanh ấy khi hắn đang ở trong căn phòng này à?”

“Đa phần là vậy, nhưng ngay cả khi hắn không có nhà, thỉnh thoảng tớ cũng nghe tiếng một con chó sủa, gầm gừ hay thậm chí là khụt khịt ngay sát cánh cửa này như thể đang cố thoát ra ngoài. Đấy là lý do vì sao ông bà Hurst luôn luôn then chặt cánh cửa. Tớ nghĩ họ sợ có thứ gì đó kinh khiếp lắm sẽ lọt ra ngoài.”

“Nhưng lúc này tớ lại không cảm thấy có gì cả,” tôi bảo Alice. Không có chút cảm giác lạnh lẽo nào báo trước cho tôi biết khi có thứ gì đấy từ thế lực bóng tối đang ở gần. “Thầy Trừ Tà bảo Morgan là một ông đồng lợi dụng người đã khuất. Hắn nói chuyện với họ và bắt họ làm theo ý mình.”

“Hắn thu được quyền năng ấy từ đâu vậy? Hắn đâu có sử dụng cốt thuật hay huyết thuật như phù thủy,” Alice chun mũi bảo, “mà hắn cũng chẳng dùng thuật hiệp thần. Tớ sẽ phát hiện ra ngay nếu là một trong những thứ ấy. Vậy đấy là gì Tom nhỉ?”

Tôi nhún vai. “Có thể là Golgoth, một trong những vị Cổ Thần. Cậu vừa nghe Thầy Trừ Tà bảo là Morgan đào bới cái gò mả mà có thể sẽ là cửa tử cho hắn rồi chứ gì? Hừ, đấy là một gò đất có tên gọi là Gò Ụ Tròn, nó ở mãi trên khu đồng hoang. Có lẽ hắn đang cố triệu gọi Golgoth như những người thời xưa. Có lẽ Golgoth muốn được triệu về nên đang cố giúp hắn bằng cách nào đấy. Nhưng Morgan chưa ra tay được vì Thầy Trừ Tà đang giữ thứ hắn cần. Thứ sẽ làm cho mọi chuyện dễ dàng hơn ấy.”

Alice trầm ngâm gật gù. “Có thể là vậy thật, Tom nhỉ, nhưng có vài điều hai người họ nói ra cũng còn rối lắm. Tớ không nghĩ Lão Gregory và bà Hurst lại quen nhau đâu. Thật khó tin hai người đấy từng là một đôi.”

Tôi cũng thấy chuyện này khó tin lắm chứ. Rất khó. Mà thôi, chẳng còn gì để dòm ngó nữa, nên chúng tôi rời khỏi phòng rồi cài then và khóa cửa lại. Có nhiều điều bí ẩn cần được giải mã – những bí mật trong quá khứ của Thầy Trừ Tà – và tôi đang mỗi lúc một thêm tò mò.

Morgan không thò mặt trở lại nông trại Cảnh Bờ Hoang nữa, nhưng phải mất thêm một tuần sau chúng tôi mới có thể về lại ngôi nhà của Thầy Trừ Tà. Anh Shanks được gọi đến, và chúng tôi lên đường trở về với Thầy Trừ Tà cỡi trên chú ngựa con còn tôi và Alice lẽo đẽo theo sau.

Shanks từ chối không muốn bước vào nhà và quay về Adlington ngay, để lại Thầy Trừ Tà cho chúng tôi. Tôi nói cho thầy mình nghe bằng cách nào mà các liều thuốc của Alice chắc đã cứu mạng thầy. Thầy chẳng nói chẳng rằng nhưng giờ đây thì không phản đối khi hai chúng tôi dìu thầy lên phòng. Thầy vẫn chưa tỉnh táo và cũng phải mất một thời gian dài để có thể hồi phục hoàn toàn. Chuyến đi quay về nhà cũng làm thầy hao tổn sức lực nữa. Hai chân thầy không đứng vững nên thầy ở lì trong phòng mình đến hai ba ngày.

Một điều làm tôi ngạc nhiên là thoạt đầu thầy chẳng hề nhắc gì đến Meg. Nhưng tôi cũng không nhắc đến bà ấy với thầy: tôi chẳng mong mình phải đi xuống mấy bậc thang dẫn xuống hầm ấy đâu. Vì Meg thường trải qua nguyên mùa hè ngủ yên dưới ấy, nên có ngủ thêm vài ngày cũng chẳng hề hấn gì. Thế là tôi phải làm hầu hết mọi việc trong nhà. Alice có phụ giúp chút ít, nhưng chẳng nhiều nhặn như tôi mong muốn.

“Chỉ vì tớ là con gái không có nghĩa là tớ phải làm hết việc bếp núc!” Alice gắt khi tôi gợi ý cô ấy sẽ nấu nướng giỏi hơn tôi.

“Nhưng Alice này, tớ không biết nấu ăn,” tôi bảo. “Ở nhà thì mẹ tớ nấu, ở Chipenden thì là ông kẹ của Thầy Trừ Tà, còn ở đây là do Meg làm.”

“À, giờ là dịp để cậu học hỏi,” Alice cười cười nói. “Còn về Meg, tớ cá nếu không vì cái món trà thảo dược bà ấy sẽ chẳng yêu thích gì mấy chuyện nấu nướng đâu!”

Sau đó, vào buổi sáng ngày thứ ba, cuối cùng Thầy Trừ Tà cũng mệt mỏi đi xuống dưới lầu ngồi vào bàn ăn trong khi tôi nỗ lực hết mình chuẩn bị bữa sáng. Việc nấu nướng gian nan hơn thoạt trông nhiều, nhưng mà cũng không khó khăn như kết cục của món thịt muối xông khói.

Chúng tôi im lặng dùng bữa, cho đến vài phút sau, Thầy Trừ Tà đẩy đĩa ra xa. “May là ta không thấy ngon miệng cho lắm đấy anh bạn,” thầy vừa nói vừa lắc đầu. “Do đói nên ta mới buộc phải ăn hết mấy thứ ấy nhưng ta không chắc là mình có sống sót qua nổi trải nghiệm này không nữa.”

Alice cười rú lên còn tôi chỉ nhún vai cười mỉm, lòng mừng vui khi thấy thầy mình rõ là đang trên đà hồi phục. Còn về món thịt muối xông khói ấy à, tôi có khẩu vị tốt hơn chứ, nhưng tôi quá đói nên có thể ăn hết bất cứ thứ gì và Alice cũng vậy. Tôi bắt đầu thấy vui hơn vì trông có vẻ như Thầy Trừ Tà sẽ cho phép Alice ở lại.

Sáng hôm sau, Thầy Trừ Tà rốt cuộc cũng quyết định đã đến lúc đánh thức Meg dậy. Thầy đứng vẫn còn chưa vững lắm nên tôi phải đi xuống mấy bậc thang cùng thầy để giúp thầy đem Meg trở lên bếp trong khi Alice đun sôi ít nước. Việc mang vác này thì ra là quá sức của thầy, và hai tay thầy bắt đầu run lập cập đến mức thầy phải trở vào giường nằm nghỉ.

Tôi phụ Alice chuẩn bị nước tắm cho Meg. “Cảm ơn Billy nhé,” Meg cất lời, trong khi chúng tôi rót nước nóng vào bồn. “Cậu là một cậu bé tử tế. Và cô bạn xinh xắn của cậu cũng rất được việc. Tên cô bé là gì thế, bé con?”

“Người ta gọi cháu là Alice ạ...” Alice mỉm cười đáp lời.

“À, Alice này, gia đình cháu sống gần đây không? Ở gần gia đình hạnh phúc lắm đấy. Ta ước mình cũng có gia đình. Nhưng giờ thì họ sống ở nơi xa xôi quá.”

“Hiện tại cháu không có gia đình ạ. Họ là người xấu nên tốt hơn là cháu phải tránh xa họ,” Alice đáp.

“Chắc chắn là không nên thế rồi!” Meg kêu lên. “Sao thế, chuyện gì không hay thế hả cháu?”

“Họ là phù thủy ạ,” Alice đáp lời kèm theo nụ cười toe tinh quái liếc xéo sang tôi.

Tôi bực bội lắm. Kiểu nói chuyện thế này có thể khơi lại trí nhớ của Meg. Alice đang làm chuyện này có chủ ý.

“Ta từng có biết một phù thuỷ,” Meg nói, mắt nhuốm vẻ mơ màng. “Nhưng đấy là thời xa xưa lắm rồi...”

“Cháu nghĩ nước tắm của bà đã sẵn sàng,” tôi bảo Meg, đoạn chộp lấy tay Alice dẫn cô đi chỗ khác. “Chúng cháu sẽ sang phòng làm việc để bà có chút riêng tư ạ.”

Vào trong phòng làm việc của Thầy Trừ Tà rồi, tôi tức tối đối mặt Alice. “Tại sao cậu lại nói thế làm gì? Rồi bà ấy sẽ bắt đầu nhớ chuyện mình cũng là phù thủy mất.”

“Thế thì có tệ lắm không?” Alice hỏi lại. “Không công bằng đâu, cái cách đối xử với bà ấy như thế ấy. Thà bà ấy chết đi còn hay hơn. Tớ từng giới thiệu tên mình cho bà ấy, vậy mà bà ấy đã quên.”

“Thà chết còn tốt hơn à? Khả năng lớn nhất là bà ấy sẽ có kết cục bị nhốt xuống hố đấy,” tôi bực bõ đốp lại.

“À, sao cậu không pha ít lại một tí trà thảo dược đi nào – để bà ấy có cuộc sống tốt hơn mà không phải luôn quên hết mọi chuyện ấy? Cứ dùng liều lượng thích hợp và bà ấy sẽ không nhớ hết mọi chuyện nhưng cũng sẽ tốt hơn nhiều cho bà ấy. Để tớ làm cho Tom. Không khó lắm đâu. Mỗi ngày tớ sẽ chỉ việc cho bà ấy uống ít đi một tẹo cho đến khi chúng ta tìm ra đúng liều...”

“Không, Alice! Cấm cậu đấy!” tôi cảnh cáo. “Nếu Thầy Trừ Tà mà biết thì sẽ đuổi cậu về nhà ông bà Hurst ngay tắp lự. Vả lại, không đáng phải mạo hiểm như thế. Chuyện có thể trở nên vô cùng nguy hại đấy.”

Alice lắc đầu. “Nhưng thế là không đúng đâu, Tom à. Sớm muộn thì cũng phải thực thi điều đó thôi.”

“Thôi, thà muộn còn hơn sớm. Cậu không được giở trò gì với món trò thảo dược đấy nhé? Cậu hứa đi.”

Alice mỉm cười. “Tớ hứa, nhưng tớ nghĩ cậu nên bàn với Lão Gregory về chuyện này. Cậu sẽ làm thế chứ?”

“Giờ không phải lúc bàn đến chuyện này, khi thầy vẫn còn yếu. Nhưng tớ sẽ nói khi tớ nghĩ đã đến lúc. Nhưng thầy sẽ không nghe đâu. Việc này đã diễn ra bao nhiêu năm nay rồi. Tại sao giờ thầy phải thay đổi chứ?”

“Thì cứ bàn với lão ấy đi, tớ chỉ yêu cầu thế thôi.”

Vậy nên tôi đồng ý, mặc dù tôi biết mình rồi sẽ phí thời gian thôi, lại còn khiến Thầy Trừ Tà nổi giận mà chẳng được tích sự gì. Nhưng Alice bắt đầu làm tôi thấy lo lắng. Tôi muốn tin tưởng cô nhưng chắc chắn là cô ấy đang bứt rứt không yên về Meg rồi.

Đến chiều muộn, Thầy Trừ Tà cũng xuống lầu gắng gượng ăn chút súp, rồi hết cả tối thầy quấn mình trong chăn ngồi trước lò sưởi. Khi tôi lên phòng đi ngủ, thầy vẫn còn ngồi đấy, Alice thì đang giúp Meg rửa nồi niêu chuẩn bị bữa sáng.

Sáng hôm sau, hôm đấy là thứ Ba, Thầy Trừ Tà dạy tôi một bài học tiếng La Tinh ngắn. Trông thầy không khỏe lắm: thầy nhanh chóng trở mệt và quay về giường, nên tôi bị bỏ lại phòng làm việc một mình suốt thời gian còn lại trong ngày.

Và rồi, chiều muộn hôm ấy, có tiếng gõ cửa nơi cửa sau. Tôi ra mở cửa thì thấy Shanks, người giao hàng của Thầy Trừ Tà, đang đứng chờ ngoài đấy. Trên mặt anh ta mang vẻ lo lắng vô cùng và anh ta mãi liếc ra sau vai tôi, như thể đang sợ là có ai đó sẽ xuất hiện ngay sau tôi bất cứ lúc nào.

“Tôi mang đơn đặt hàng của ông Gregory đến đây,” anh ta vừa nói vừa hất đầu về phía chú ngựa đang chất đầy những túi hàng màu nâu. “Và tôi còn có thư cho cậu nữa. Thư được chuyển đến sai địa chỉ khi họ đang đi làm ăn vắng nhà. Họ chỉ vừa mới quay lại thôi nên thư này chắc là cũng trễ hơn cả tuần rồi.”

Tôi kinh ngạc nhìn anh ta. Có thể là ai gửi thư đến đây cho tôi được chứ? Shanks đưa tay vào túi áo khoác, lôi ra một phong bì nhàu nhĩ đưa cho tôi. Tôi thấy lo vì tôi nhận ra nét chữ viết tay của anh Jack ngoài phong bì, và tôi cũng biết việc gửi thư theo chuyến bưu điện chuyển hàng hẳn phải mắc tiền lắm lắm: nhất định là chuyện nghiêm trọng đây. Chắc chắn là tin chẳng lành.

Tôi xé toạc phong bì và mở thư ra, thư ngắn gọn đề cập thẳng vào trọng tâm.

Tom này,

Bố của anh em mình lại khó ở nữa rồi. Ông đang suy kiệt nhanh chóng. Mọi người đều đã ở đây hết, trừ em, nên tốt nhất em phải về ngay nhà nhé.

Jack

Anh Jack khi nào cũng nói năng cộc lốc nên những lời lẽ vừa rồi khiến tim tôi rơi thỏm xuống đất. Tôi không thể tin là bố tôi sẽ qua đời. Tôi thậm chí còn không mường tượng nổi điều ấy. Thế gian này rồi sẽ không còn như xưa nữa khi không có bố. Và nếu như thư của anh Jack đã kẹt lại trong làng cả tuần nay, chờ đợi được đọc lấy, thì hẳn là tôi đã quá muộn rồi. Trong lúc Shanks dỡ hàng xuống, tôi chạy ù vào trong nhà, đi thẳng lên phòng ngủ của Thầy Trừ Tà, và với hai tay run rẩy, tôi đưa cho thầy xem bức thư. Thầy đọc xong, đoạn thở dài sườn sượt.

“Ta rất lấy làm tiếc khi nghe tin chẳng lành của con,” thầy bảo. “Con nên về nhà ngay đi. Vào những lúc như thế này mẹ con sẽ rất cần có con bên cạnh.”

“Còn thầy thì sao ạ?” tôi hỏi. “Thầy sẽ ổn cả chứ?”

“Đừng lo cho ta, ta rồi sẽ khỏe lại như vâm thôi. Không, con nên lên đường ngay khi trời chưa tắt nắng. Con phải rời khỏi đồng hoang thật sớm trước khi màn đêm buông xuống.”

Khi tôi xuống đến bếp, Alice và Meg đang thì thầm to nhỏ với nhau. Meg mỉm cười khi trông thấy tôi. “Tối nay ta sẽ nấu một bữa tối đặc biệt cho hai cô cậu,” bà bảo.

“Cháu sẽ không ở đây ăn tối đâu Meg à,” tôi nói với bà. “Bố cháu đang ốm nên cháu phải về nhà vài hôm.”

“Rất tiếc khi nghe thế đấy Billy. Chắc chắn là tuyết đang kéo đến đây nên cậu phải ăn mặc ấm áp để không bị lạnh nhé. Sương giá có thể làm cậu rụng hết mấy ngón tay đấy.”

“Tình hình xấu đến mức nào vậy Tom?” Alice hỏi, trông rất quan tâm, nên tôi đưa cho cô lá thư để cô đọc nhanh qua.

“Ôi Tom! Tớ thật tiếc,” Alice vừa nói vừa bước tới ôm choàng lấy tôi. “Có thể sẽ không đến nỗi tệ như ta tưởng đâu...”

Nhưng khi chúng tôi nhìn vào mắt nhau, tôi có thể nhận thấy Alice nói thế chỉ để làm tôi thấy khá hơn. Cả hai chúng tôi đều lo nghĩ đến tình huống xấu nhất.

Tôi chuẩn bị hành lý để quay về nhà. Tôi chẳng màng mang theo chiếc túi – tôi bỏ túi lại trong phòng làm việc – nhưng tôi mang theo thanh trượng của mình; trong túi quần tôi, ngoài một miếng tướng phó mát vàng ệch để đi đường, tôi còn có thêm chiếc hộp đánh lửa và một mẩu nến. Ta chẳng khi nào biết được lúc nào đấy mấy thứ này lại hữu ích đâu.

Sau khi chào từ biệt Thầy Trừ Tà, tôi đi ra cửa sau cùng Alice. Tôi ngạc nhiên lắm khi Alice, thay vì nói lời tạm biệt tôi, cô lại lấy áo choàng ra khỏi móc và khoác vào.

“Tớ sẽ đi cùng cậu xuống cuối hẻm núi,” Alice bảo, buồn rầu mỉm cười với tôi.

Vậy là chúng tôi sánh bước bên nhau. Không ai nói năng gì. Tôi đang tê cứng và lo sợ, trong khi Alice hình như vô cùng thờ ơ. Khi đến cuối hẻm núi và tôi quay sang chào từ biệt Alice, thật ngạc nhiên làm sao, tôi trông thấy hai mắt cô bé rơm rớm.

“Chuyện gì vậy Alice?”

“Khi cậu quay lại thì tớ sẽ không còn ở đây nữa đâu. Lão Gregory sẽ đuổi tớ đi. Tớ phải về lại nông trại Cảnh Bờ Hoang.”

“Ôi, tớ thật lấy làm tiếc Alice ạ. Thầy không nói gì với tớ về chuyện này. Tớ cứ tưởng mọi chuyện sẽ êm thấm rồi chứ.”

“Lão ấy mới bảo tớ tối qua thôi. Bảo rằng tớ đang ngày càng quá gần gũi với Meg.”

“Quá gần gũi ư?”

“Tớ nghĩ có thể là vì lão ấy trông thấy tớ và Meg trò chuyện với nhau, có thế thôi. Ai mà biết trong cái đầu già nua của Lão Gregory nghĩ gì cơ chứ? Tớ chỉ nghĩ là cần phải nói cho cậu biết. Để cậu còn biết tìm tớ ở nơi nào khi cậu quay trở lại đây.”

“Quay lại đây thì tớ sẽ ghé thăm cậu ngay,” tôi bảo với Alice. “Ngay cả trước khi tớ trở lại nhà của Thầy Trừ Tà nữa cơ.”

“Cảm ơn cậu nhé Tom,” Alice nói, đoạn thoắt nắm lấy bàn tay trái của tôi âu yếm siết nhẹ.

Sau đấy, tôi bỏ lại Alice và tiếp tục đi xuống, cũng dừng lại một lần để ngoái nhìn ra sau. Alice vẫn còn đứng đấy dõi theo tôi, nên tôi vẫy tay chào cô gái. Alice đã không nói lời an ủi chia buồn nào với tôi hết. Cô cũng không hề nhắc đến bố tôi. Cả hai chúng tôi đều biết chẳng còn gì để nói đến nữa và tôi rất sợ điều mình sẽ phát hiện ra khi về đến nhà.

Hoàng hôn vội buông xuống, cùng một dải mây đen đặc, nặng nề từ phương bắc. Khi tôi rời khỏi đỉnh đồng hoang trời đang sập tối; chẳng hiểu vì sao mà tôi lại mất phương hướng và lỡ mất lối mòn mà mình đã định men theo.

Phía dưới xa xa kia là một đám bụi cây và một bức tường đá chồng thâm thấp, đằng sau đấy là một căn nhà nho nhỏ – chắc là chòi của tá điền, thế có nghĩa là từ đấy rất có khả năng có một con lộ nhỏ hay lối mòn nào đấy dẫn xuống đồi. Tôi leo qua bức tường đá nhưng hơi ngần ngại trước khi nhảy xuống bên kia tường. Vì một lẽ bức tường này cao quá sáu thước và tôi phát hiện ra giờ đây mình đang nhìn xuống một bãi tha ma rộng lớn. Ở phía xa kia cũng chẳng phải là căn chòi gì. Mà là một nhà nguyện nhỏ.

Tôi rùng mình, đoạn nhảy xuống giữa những bia mộ. Dù sao thì, có thể hơi rùng rợn thật đấy nhưng tôi vẫn là cậu học việc của Thầy Trừ Tà cơ mà, và tôi phải làm quen với những nơi như thế này ngay cả khi trời gần như đã tối sập. Tôi bắt đầu len lỏi qua những ngôi mộ, di chuyển xuống đồi, và chẳng bao lâu sau chân tôi đã giẫm lạo xạo lên lối đi rải sỏi dẫn đến nhà nguyện.

Lẽ ra mọi thứ đã phải đơn giản thế này thôi. Lối đi dẫn xuống bên hông nhà nguyện; đằng sau đấy, lối đi uốn mình quanh co qua các bia mộ về phía hai cây thông dò to tướng tạo thành một cổng vòng cung bên trên cổng nghĩa trang. Lẽ ra tôi phải tiếp tục bước tới nhưng có chút ánh sáng le lói đằng sau ô cửa kính ghép màu của nhà nguyện, bằng chứng của một ngọn nến đang chiếu sáng. Và khi đi ngang qua cửa, tôi để ý thấy cánh cửa đang mở he hé và tôi nghe rõ mồn một giọng nói từ bên trong.

Giọng nói ấy chỉ thốt lên đúng một tiếng: “Tom!”

Là một giọng thấp trầm, giọng của đàn ông, giọng của kẻ quen được người khác tuân lời. Tôi không nhận biết giọng này.

Mặc cho có vẻ là bất khả dĩ, nhưng tôi cảm thấy như mình đang bị triệu gọi. Và có thể là kẻ nào bên trong nhà nguyện ấy mà lại biết tên tôi mới được, hoặc ngay lúc ấy tôi chỉ là đang đi ngang qua bóng tối mà thôi? Đáng lý ra vào giờ này trong nhà nguyện phải chẳng còn ai chứ. Nhà nguyện này thi thoảng mới được dùng đến thôi mà, để tiến hành những buổi lễ ngắn gọn trước khi hạ huyệt.

Gần như trước khi tôi kịp nhận ra mình đang làm gì, thì tôi đã bước lên phía cửa nhà nguyện, mở cửa ra rồi đi vào trong. Tôi ngạc nhiên khi thấy trong ấy chẳng có ai, nhưng ngay lập tức tôi nhận ra cách bài trí bên trong có gì đó kỳ quái. Thay vì nhưng dãy băng ghế được sắp hướng mặt lên bệ thờ, với lối đi giữa các dãy ghế, thì những băng ghế trong này sắp thành bốn hàng đâu lưng vào tường và hướng mặt ra một buồng xưng tội duy nhất kê sát tường ngay bên tay phải tôi, hai bên buồng xưng tội đặt là cây nến lớn được đặt như vị trí đang đứng gác.

Buồng xưng tội có hai lối vào như thông lệ, một dành cho cha xứ và lối kia dành cho người đi sám hối. Buồng xưng tội thật ra là hai căn phòng được chia cắt bởi một bức màn sao cho, mặc dù là cha xứ có thể nghe được lời thú tội qua tấm lưới sắt ấy, ông ta vẫn không thể nhìn thấy mặt của người đang xưng tội. Nhưng ở đây có gì đó khang khác. Kẻ nào đó đã lấy đi mấy cánh cửa nên giờ đây tôi đang đối mặt với hai phòng hình chữ nhật tối om om.

Khi tôi dợm bước đi ra cửa, bụng cảm thấy bất an, thì ai đó từ trong bóng tối nơi lối vào của cha xứ bên tay trái bước ra đi về phía tôi. Hắn vận chiếc áo choàng có mũ trùm giống như Thầy Trừ Tà.

Chính là Morgan, mặc cho giọng nói gọi tên tôi lúc nãy không phải là giọng của hắn. Liệu trong nhà nguyện này còn có kẻ nào khác không? Khi Morgan tiến đến, tôi bất chợt cảm nhận một cơn lạnh cực cùng. Không phải là loại khí lạnh thường khi thông báo cho tôi biết là có thứ gì đấy từ thế lực bóng tối đang đến gần đâu. Cái lạnh lần này khang khác thế nào ấy. Nó gợi cho tôi nhớ đến cái lạnh tôi đã kinh qua khi phải đối mặt với một linh hồn quỷ quyệt có tên là Quỷ Độc ở Priestown.

“Tom, chúng ta lại gặp nhau nữa rồi,” Morgan cất lời cùng một cười nhạt khinh khỉnh. “Ta tiếc phải nghe tin về bố của mi nhé. Nhưng ông ta đã có một cuộc đời hạnh phúc mà. Cái chết rồi sẽ đến với tất cả chúng ta thôi.”

Tim tôi thót lại và tôi ngừng cả thở. Làm sao hắn lại biết bệnh tình của bố tôi chứ?

“Nhưng chết không phải là hết đâu, Tom à,” hắn vừa nói vừa bước thêm một bước về phía tôi. “Và trong một thời gian chúng ta vẫn có thể trò chuyện với những người ta yêu dấu. Mi có muốn nói chuyện với bố mi không? Ta có thể triệu hồn của ông ta về cho mi ngay lúc này, nếu mi muốn thế...”

Tôi không trả lời. Những gì hắn đang nói chỉ mới bắt đầu ngấm vào tôi. Tôi tê dại.

“Ồ, ta xin lỗi nhé Tom. Tất nhiên, mi nào có biết nhỉ?” Morgan nói tiếp. “Bố mi chết từ tuần trước rồi.”