← Quay lại trang sách

Chương 12 THUẬT GỌI HỒN-

Càng xuôi về nam, không khí càng thêm lạnh, cơn mưa dần dà trở ngược lại thành tuyết. Tôi mệt mỏi chỉ muốn đi thẳng về nhà của Thầy Trừ Tà, nhưng tôi đã hứa sẽ ghé thăm Alice trước tiên và tôi muốn giữ lời.

Khi nông trại Cảnh Bờ Hoang thấp thoáng hiện ra, trời đã sập tối. Gió đã ngừng thổi và bầu trời đêm trong vắt. Trăng lên cao còn tuyết trắng khiến cho vạn vật sáng sủa hơn bình thường; xa xa phía sau nông trang, mặt hồ là một tấm gương đen ngòm phản chiếu những vì sao.

Toàn nông trại đang chìm trong bóng tối. Đa phần các gia đình nhà nông trong Hạt thường đi ngủ sớm vào mùa đông, nên cảnh nông trại tối om cũng là điều tôi đã tiên liệu. Nhưng tôi đang hy vọng là Alice sẽ cảm nhận thấy tôi đang tiến đến gần, rồi lẻn ra ngoài mà gặp tôi. Tôi leo qua hàng rào ven nông trại rồi băng qua cánh đồng bước về phía cụm nông trang đổ nát lổn nhổn. Một chuồng gia súc lùm lùm phía trước tôi, và khi nghe thấy một âm thanh bất thường, tôi dừng phắt lại ngay ngoài lối vào chuồng. Có ai đó đang khóc.

Tôi bước vào lối vào chuồng, đám gia súc trong này bồn chồn nép dạt ra xa. Ngay lập tức một mùi hôi thốc xộc đến. Không phải là thứ mùi gia súc nồng nồng thường thấy, cộng thêm mùi vài tá đống phân bò khỏe mạnh. Mà đây là mùi xú uế tiêu chảy, một thứ bệnh về tiêu hóa các loại gia súc và heo lợn thường mắc phải. Bệnh này chữa trị được, nhưng các loài gia súc trong này đang bệnh mà lại không được coi sóc đến. Mọi việc đã còn trở nên xấu hơn kể từ lần trước tôi ở đây.

Chỉ đến khi ấy tôi mới nhận ra có người đang quan sát mình. Phía bên trái tôi, được một tia sáng trăng chiếu vào, là ông Hurst đang ngồi lòm khòm trên chiếc ghế vắt sữa. Hai má ông lão giàn dụa nước mắt và ông đang ngước nhìn tôi trừng trừng, vẻ khốn khổ hằn lên trên mặt. Tôi giật lùi một bước khi ông đứng dậy.

“Xéo đi! Để tao yên!” ông Hurst gào lên, run rẩy huơ nắm đấm về phía tôi, toàn thân ông run lập cập.

Tôi vừa bất ngờ vừa cáu tiết. Trước nay ông ấy vẫn ôn tồn dịu dàng cơ mà, chưa từng khi nào thốt lên với tôi hay Alice một từ báng bổ. Giờ đây ông trông thật tuyệt vọng và sức cùng lực kiệt. Tôi bỏ đi, đầu cúi gằm. Tôi thấy tội nghiệp cho ông ấy quá. Hẳn Morgan đã đối xử rất tệ với ông: chắc chắn đấy là lý do vì sao ông ấy cáu bẳn và tủi hổ. Tôi không biết phải làm gì nhưng tôi nghĩ tốt hơn nên trao đổi với Alice về chuyện này.

Tôi bước tiếp cho đến khi vào tới trong sân. Cả ngôi nhà vẫn tối om khiến tôi không rõ mình nên làm gì. Hẳn là Alice đang ngủ say lắm mới không phát hiện ra là tôi đang ở gần kề như thế này. Tôi đứng chờ một chốc, hơi thở phả ra thành hơi trong không khí giá lạnh.

Tôi tiến đến cửa sau gõ lên hai hồi. Không cần phải gõ thêm lần nào nữa. Một chập sau cánh cửa chậm chạp mở ra, tiếng bản lề kẽo kẹt, rồi bà Hurst hé ra nhìn tôi, chớp chớp mắt dưới ánh trăng.

“Cháu cần nói chuyện với Alice ạ,” tôi thưa với bà.

“Vào đi, vào đi nào,” bà mời mọc tôi, giọng bà vừa yếu ớt vừa khản khản.

Ngay bên trong cánh cửa là một tấm thảm chùi chân nên tôi bước vào trong lối sảnh nhỏ bé, và sau khi đã mỉm cười lễ phép cám ơn bà Hurst, tôi giẫm giẫm cố rũ sạch hết tuyết ra khỏi ủng. Phía trước kia là hai cánh cửa dẫn vào phòng bên trong. Cánh cửa bên tay phải đang đóng kín; nhưng cánh cửa dẫn vào phòng của Morgan thì đang khép hờ khiến tôi có thể nhìn thấy ánh nến chập chờn lóe ra từ trong.

“Vào trong ấy đi,” bà Hurst vừa bảo vừa chỉ tay về phía cánh cửa này.

Tôi do dự trong giây lát, bụng không biết là Alice lại đang làm gì trong phòng của Morgan nữa, nhưng rồi tôi cũng đi vào. Không khí trong này đặc quánh mùi mỡ động vật hôi thối, và chẳng hiểu vì sao nhưng điều đầu tiên tôi chú ý đến là cây nến tướng làm từ sáp đen, cắm trên chân nến bằng đồng to ụ. Chân nến được đặt ngay chính giữa chiếc bàn bằng gỗ dài xọc có hai chiếc ghế đối diện nhau, mỗi ghế ở một bên cạnh bàn.

Tôi những tưởng vào đây sẽ gặp Alice nhưng tôi đã lầm. Đang ngồi gần nơi đầu này của bàn, quay lưng về tôi và đối mặt với cây nến, là một dáng hình trong chiếc mũ trùm. Hắn quay về phía tôi và tôi nhìn thấy chòm râu lẫn nụ cười khinh miệt. Là Morgan.

Một lần nữa bản năng trong người thúc đẩy tôi co giò bỏ chạy, nhưng tôi lại nghe thấy hai tiếng động sau lưng mình. Đầu tiên là tiếng cánh cửa được đóng chặt lại. Thứ đến là tiếng then cài nặng nề được sập vào then. Phía trước tôi là cánh cửa sổ được che phủ bằng một tấm rèm đen dày cui và không còn cánh cửa nào khác. Tôi đã bị nhốt lại trong phòng này cùng Morgan.

Tôi đưa mắt nhìn quanh, liếc xuống sàn nhà trơ đá lát, rồi nhìn sang chiếc ghế còn trống đang chờ đợi. Căn phòng lạnh ngắt khiến tôi phải rùng mình. Cũng có lò sưởi đấy nhưng lại chỉ chứa đầy tro xám.

“Ngồi xuống đi nào, Tom,” Morgan lên tiếng. “Chúng ta có nhiều chuyện phải bàn đấy.”

Tôi chẳng nhúc nhích gì nên Morgan phải khoát tay về phía chiếc ghế đối diện hắn.

“Tôi đến đây để nói chuyện với Alice,” tôi bảo hắn.

“Alice đi rồi,” Morgan bảo. “Con bé đó đã bỏ đi ba ngày trước.”

“Đi rồi ư? Đi đâu thế?” tôi hỏi.

“Nó không nói. Con bé Alice đấy, nó chẳng lắm mồm gì. Thậm chí chẳng buồn nói là nó sẽ đi đâu nữa. Mà này, Tom, lần gần đây nhất mi bước vào căn phòng này thì mi đã không được mời mà vẫn vào như một thằng ăn trộm trong đêm cùng với con oắt ấy bên cạnh. Nhưng chúng ta sẽ bỏ qua chuyện này vì giờ đây mi đang rất được chào đón. Nên để ta nói lại này. Ngồi xuống đi.”

Lòng thất vọng tràn trề, tôi ngồi xuống nhưng vẫn giữ cho thanh trượng thẳng thớm ngay bên trái, tay nắm chặt trượng. Làm sao Morgan biết là chúng tôi đã từng vào trong phòng hắn nhỉ? Và tôi đang rất lo cho Alice. Cô đã đi đâu mới được? Chắc chắn không phải là quay trở lại Pendle chứ? Tôi nhìn thẳng qua bên kia bàn và bắt gặp ánh mắt của Morgan. Thốt nhiên, miệng nở nụ cười, hắn lôi mũ trùm ngược ra sau mặt, để lộ ra mớ tóc bù xù lỉa chỉa. Dường như so với lần trước thì lần này tóc hắn có thêm nhiều sợi bạc hơn. Dưới ánh nến gương mặt hắn xù xì lởm chởm và những nếp nhăn hằn sâu thêm hẳn.

“Ta có thể mời mi uống chút vang,” hắn bảo, “nhưng ta thì không uống khi đang làm việc.”

“Tôi thường không uống rượu,” tôi đáp.

“Nhưng chắc là mi ăn phó mát chứ gì,” hắn nói, mặt cười tươi chế giễu.

Tôi không trả lời nên vẻ mặt hắn trở nên nghiêm trọng. Thình lình hắn rướn người tới trước, chụm môi lại thổi thật mạnh. Ngọn nến chấp chới rồi tắt phụt, nhấn chìm căn phòng vào không gian tối như bưng trong khi mùi mỡ động vật càng thêm nồng.

“Chỉ còn lại mi, ta và bóng tối,” Morgan nói. “Mi có thể chịu được không? Mi có thích hợp làm chân học việc cho ta không?”

Đây là đúng từng lời mà Thầy Trừ Tà đã nói với tôi trong căn hầm rượu của ngôi nhà bị ma ám ở Horshaw, nơi thầy đã đem tôi đến vào ngay ngày học việc đầu tiên của tôi. Thầy làm thế để đánh giá xem liệu tôi có các tố chất thích hợp để làm một kẻ trừ tà. Đấy là những lời thầy đã nói vào ngay lúc ánh nến phụt tắt.

“Ta dám cá rằng khi mi lần đầu bước xuống những bậc thang dẫn đến hầm rượu ấy, thì lão ta đang ngồi trong góc hầm và rồi đứng thẳng dậy ngay lúc mi đến gần,” Morgan tiếp tục nói. “Chẳng có gì thay đổi sất. Cả mi, cả ta và thêm chừng hai tá học việc khác. Toàn những trò có thể dự đoán. Lão già gàn! Chả trách sao không kẻ nào chịu ở lại lâu với lão.”

“Ông ở lại đến ba năm đấy thôi,” tôi nhẹ giọng đáp trả vào bóng tối.

“Thốt lại nên lời rồi đấy hả Tom? Giỏi đấy,” Morgan bảo. “Ta thấy lão ấy đã có nhắc đến ta rồi ấy nhỉ. Lão có điều gì hay ho để kể ra không vậy?”

“Không hẳn.”

“Chẳng làm ta ngạc nhiên đâu. Thế lão có nói cho mi biết vì sao ta từ bỏ chân học việc trừ tà không thế?”

Đến lúc này thì mắt tôi đã điều chỉnh thích ứng với bóng tối, tôi có thể nhìn ra hình dáng đầu Morgan đang đối diện mình phía bên kia bàn. Lẽ ra tôi đã có thể trả lời hắn rằng Thầy Trừ Tà từng bảo hắn không có tính kỷ cương và không phù hợp với công việc, nhưng thay vào đấy tôi quyết định mình nên nêu ra vài câu hỏi.

“Ông muốn gì ở tôi? Sao cửa lại bị chốt lại thế?” tôi hỏi.

“Để mi không thể bỏ chạy thêm lần nữa,” Morgan đáp. “Để mi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ở lại đây đối mặt với điều ta muốn cho mi xem. Ta có nghe nói, mi là tay học việc rất cừ. Cả mi và ta đều biết là lão thầy của mi không biết quý trọng điều đấy. Nên đây là bài học đầu tiên dành cho kỳ học việc mới của mi. Trong tương lai chắc hẳn rồi mi cũng sẽ có việc dính dáng đến thế giới người chết, nhưng còn bây giờ ta sẽ bổ sung thêm kiến thức cho mi. Và bổ sung thật thích đáng.”

“Sao ông lại muốn làm chuyện này?” tôi gặng hỏi. “Thầy Greogory vẫn đang chỉ dạy cho tôi mọi điều mà tôi cần biết.”

“Từ từ đã nào, Tom,” Morgan trả lời. “Ta hãy nói về các hồn ma trước nào. Mi biết gì về những hồn ma nhỉ?”

Tôi quyết định chiều theo ý hắn. Có lẽ nếu tôi để hắn xổ ra những gì hắn muốn, thì tôi có thể trở về nhà Thầy Trừ Tà.

“Đa phần các hồn ma bị trói buộc với xương cốt của chúng; những hồn ma khác lại bị trói buộc tại những nơi mà hoặc là chúng từng phải chịu khổ đau hay từng gây ra những tội ác tày trời khi chúng còn là người sinh sống trên dương gian. Chúng không được tự do lang thang theo ý thích.”

“Giỏi lắm Tom,” Morgan bảo, ẩn sâu trong giọng hắn là chút hơi hớm chế giễu. “Mà ta cá là mi cũng đã chép mọi điều này vào sổ ghi chép của mi chứ gì, như một thằng nhóc học việc dễ bảo ấy. Này, đây sẽ là điều mà lão già gàn kia đã không dạy cho mi này. Lão ta sẽ không nhắc đến điều này vì lão không thích nghĩ đến nó. Và đây là câu hỏi lớn đây. Những người chết sẽ đi đâu sau khi chết? Mà ý ta không phải là đang nói đến những hồn ma hay vãn hồn bị trói buộc đâu nhé. Ý ta là những người đã chết khác kia. Những kẻ đa số ấy. Những người như bố của mi ấy.”

Vừa nghe thấy bố được nhắc đến là tôi ngồi thẳng dậy nhìn chằm chằm vào Morgan. “Ông biết gì về bố tôi thế?” tôi tức tối hỏi. “Làm sao ông biết là bố tôi đã mất?”

“Việc đâu còn có đó, Tom. Việc đâu còn có đó. Ta sở hữu những quyền năng mà lão thầy của mi chỉ có thể nằm mơ mới có. Nhưng mi chưa trả lời câu hỏi của ta. Những người chết sẽ đi đâu sau khi chết?”

“Giáo hội bảo rằng sẽ đi lên Thiên đàng, xuống Địa ngục, giam mình trong tầng Luyện Ngục, hoặc là vất vưởng nơi chốn Lập Lờ,” tôi đáp. “Tôi không rõ lắm về những điều này và thầy Gregory thì không bao giờ bàn đến chuyện ấy. Nhưng tôi tin rằng linh hồn thì không chết được.”

Tầng Luyện Ngục là nơi các linh hồn đến để được tẩy trần, các linh hồn phải đau đớn khổ luyện tại đấy cho đến khi họ được tinh khiết thích hợp để bước vào Thiên Đàng. Chốn Lập Lờ là nơi bí hiểm hơn nhiều. Các cha cố nghĩ rằng những ai không được ban thánh tích rửa tội thì sẽ phải đi đến đấy. Người ta bảo đấy là nơi dành cho những linh hồn không hẳn là độc ác, nhưng với những sai lầm không thực sự tội lỗi lắm của họ, thì họ không xứng đáng bước chân vào Thiên Đàng.

“Giáo hội thì biết gì chứ?” Morgan bảo, giọng đã chuyển sang nhạo báng. “Đấy dường như là điều duy nhất mà ta cùng Lão Gregory ấy đồng ý với nhau. Nhưng Tom này, mi thấy đấy, trong bốn nơi mà mi vừa đề cập đến, tính đến nay thì chốn Lập Lờ là nơi hữu ích nhất cho những kẻ như ta. Chốn này được gọi tên dựa theo từ limbus tiếng La Tinh, có nghĩa là ‘ven rìa’ hay ‘ven mép’. Này nhé, dù là có đang đi về đâu, đa số những người chết trước tiên phải đi qua chốn Lập Lờ, nơi ven rìa với dương gian này, mà nhiều kẻ đã chết lại thấy việc đi qua vùng ấy mới thật khó khăn làm sao. Một số kẻ yếu đuối, khiếp nhược hoặc tội lỗi sẽ thối lui, lọt ngược lại vào thế giới này để trở thành hồn ma, gia nhập vào đám hồn ma lưu vấn đã bị mắc kẹt trên dương gian. Bọn này là bọn dễ kiểm soát nhất. Nhưng ngay cả những kẻ kiên cường tốt đẹp cũng phải chật vật tranh đấu mới vượt qua được chốn Lập Lờ. Việc này đòi hỏi nhiều thời gian, và trong lúc bọn họ đang bị trì hoãn ấy, ta có được quyền năng với tới bất cứ linh hồn nào đang trong nơi ấy mà ta muốn chọn lấy. Ta có thể ngăn không cho linh hồn ấy vượt qua. Ta có thể buộc linh hồn ấy làm mọi điều ta muốn. Nếu cần, ta có thể làm cho linh hồn ấy phải đau khổ.

“Những người quá cố từng có cuộc sống của riêng họ. Giờ thì với họ cuộc đời ấy đã chấm dứt. Nhưng chúng ta vẫn đang còn sống và có thể lợi dụng các linh hồn ấy. Chúng ta có thể trục lợi từ họ. Ta muốn có thứ lão Gregory đang nợ ta. Ta muốn có ngôi nhà của lão ở Chipenden cùng căn thư viện đầy những sách chứa đựng biết bao là kiến thức ấy. Và rồi còn thêm một thứ khác nữa. Một thứ còn quan trọng hơn cả. Thứ mà lão đã đánh cắp khỏi tay ta. Lão đang có một quyển thần chú, một cuốn sách chứa những lời chú và các nghi thức, và mi sẽ phải giúp ta lấy lại nó. Để đổi lại, mi có thể tiếp tục kỳ học việc của mi, và người huấn luyện là ta. Ta sẽ dạy cho mi những điều mà lão thầy mi thậm chí chẳng hề mơ tới được. Ta sẽ đặt những quyền năng thực thụ vào những đầu ngón tay mi!”

“Tôi chả muốn ông huấn luyện cho tôi đâu,” tôi giận dữ quặc lại. “Tôi hài lòng với mọi việc như hiện tại rồi!”

“Điều gì cho phép mi nghĩ rằng mi có được lựa chọn nào khác trong chuyện này cơ chứ?” Morgan hỏi, giọng hắn bỗng dưng lạnh lùng đe dọa. “Ta nghĩ đã đến lúc phải cho mi thấy ta có thể làm những gì rồi. Này, vì sự an toàn cho chính mi, ta muốn mi ngồi thật yên mà lắng tai nghe cho kỹ. Dù có xảy ra chuyện gì, đừng có mà cả gan rời khỏi chiếc ghế ấy đấy!”

Căn phòng trở nên tĩnh lặng như tờ và tôi ngoan ngoãn làm theo. Tôi còn làm gì khác được đâu? Cửa thì bị khóa còn Morgan lại vừa to vừa khỏe hơn tôi. Tôi có thể dùng trượng đấu lại hắn, nhưng không thực sự bảo đảm là thành công. Tốt nhất là hiện thời cứ làm theo ý hắn, cho đến khi tôi có thể thoát ra quay trở lại với Thầy Trừ Tà.

Từ bóng tối vọng ra một tiếng động mơ hồ. Âm thanh thoang thoảng nửa như sột soạt nửa như lộc cộc. Nghe hơi giống như tiếng chuột chạy loăng quăng dưới ván lát sàn. Nhưng ở đây có miếng lát sàn nào đâu, chỉ là sàn đá nặng nề thôi mà, và tôi có thể cảm thấy căn phòng bắt đầu trở lạnh hơn. Thông thường đây sẽ là dấu hiệu cho thấy có thứ gì đó đang tiến đến gần; thứ gì đó không thuộc về dương gian này. Nhưng một lần nữa, cái lạnh này khác hẳn, lạnh giống như khi tôi và Morgan nói chuyện với nhau trong nhà nguyện.

Bất thình lình có tiếng chuông gióng lên đâu đó trong không trung cao xa trên đầu chúng tôi. Tiếng chuông trầm vang tang tóc, nghe như đang gọi tang quyến đến đám ma, âm thanh lại lớn đến nỗi chiếc bàn rung bần bật. Tôi có thể cảm nhận được tiếng chuông dội xuống những phiến đá lát sàn dưới chân tôi. Chuông gióng chín tiếng cả thảy, thanh âm hồi sau dịu dần hơn hồi trước. Theo ngay sau đấy là ba loạt gõ lớn tiếng lên bàn. Tôi có thể nhìn ra hình dáng của Morgan và dường như hắn không động đậy. Loạt gõ được lập lại, lớn tiếng hết sức, và chân nến nặng nề bằng đồng ngã xuống, lăn lông lốc qua bàn rồi rơi loảng xoảng xuống sàn nhà.

Trong căn phòng tối om, sự im lặng theo sau đấy nhức nhối đến mức tôi có cảm giác như hai tai mình sắp sửa lòi ra ngoài. Tôi đang nín thở và tất cả những gì có thể nghe thấy là tiếng thình thịch trong óc tôi, là nhịp đập hối hả của tim tôi. Cái lạnh kỳ quặc càng gia tăng, và rồi Morgan cất lời trong bóng tối.

“Em gái của ta, hãy ở yên đấy mà nghe cho rõ!” hắn ra lệnh.

Khi đấy tôi nghe thấy tiếng nước nhỏ giọt lộp độp. Nghe như thể trên trần nhà có một lỗ hổng và nước đang nhỏ giọt xuống chính giữa bàn, nơi lúc nãy có đặt chân nến.

Tiếp đến một giọng nói cất lên đáp trả. Hình như là vọng ra từ chính miệng Morgan. Tôi có thể nhìn ra hình dạng cái đầu của hắn và tôi thề rằng quai hàm hắn đang chuyển động, nhưng giọng nói lại là giọng con gái, và không cách nào một người đàn ông trưởng thành lại bắt chước được thanh âm lanh lảnh cao vút như thế.

“Để ta yên! Để ta nghỉ!” giọng nói rít lên.

Tiếng nước nhỏ giọt càng thêm lớn và còn có thêm loáng thoáng nước bắn ra tung tóe, như thể một vũng nước đã hình thành trên mặt bàn.

“Tuân lời ta rồi ta sẽ để mi yên,” Morgan gào lên. “Ta muốn nói chuyện với một linh hồn khác nữa. Hãy mang hắn đến nơi này rồi mi có thể quay về nơi từ đó mi đã đến. Có một thằng bé ở cùng ta trong căn phòng này. Mi nhìn thấy nó không?”

“Có, ta có thấy cậu ta,” giọng nói con gái đáp lại. “Thằng bé vừa mất đi một ai đó. Ta cảm nhận được nỗi đau buồn của nó.”

“Tên nó là Thomas Ward,” Morgan bảo. “Nó đang để tang bố mình. Hãy mang linh hồn bố nó đến chỗ chúng ta ngay!”

Cái lạnh bắt đầu thuyên giảm và nước thôi không nhỏ giọt nữa. Tôi không tin nổi những gì mình vừa nghe thấy. Thật sự là Morgan đang gọi hồn bố tôi về đấy chăng? Tôi cảm thấy chút xúc phạm.

“Không phải là mi đang mong được nói chuyện với bố mi thêm một lần nữa sao?” Morgan hỏi. “Ta đã nói chuyện với ông ta rồi, ông ta bảo mọi anh trai của mi đã đến viếng ông ta trong phút lâm chung để nói lời từ biệt, chỉ trừ mỗi mình mi, rồi mi còn lỡ cả đám ma của ông ta nữa. Ông ta buồn vì chuyện này lắm đấy. Rất buồn. Giờ thì hai người bọn mi có cơ hội thu xếp sửa sai rồi đấy.”

Nghe thế tôi sững sờ. Làm sao Morga lại có thể biết những chuyện đã xảy ra? Trừ phi hắn thật sự là có tiếp xúc với linh hồn của bố...

“Không phải lỗi do tôi!” tôi nói, vừa cáu vừa giận. “Tôi không nhận được tin nhắn kịp thời.”

“A, giờ thì mi sắp có cơ hội tự mình giải thích điều đó cho ông ta đấy...”

Không khí lại trở lạnh hơn. Rồi một giọng nói từ bên kia bàn thốt ra với tôi. Quai hàm Morgan lại dịch chuyển, nhưng lần này, đáng sợ làm sao, lại là giọng bố tôi vọng ra từ miệng hắn. Không lẫn vào đâu được. Không ai lại có thể bắt chước giọng người khác hoàn hảo đến thế. Cứ như thể là bố tôi đang ngồi nhìn thẳng vào mặt tôi bên chiếc ghế đối diện.

“Tối quá,” bố tôi rên lên, “tôi thậm chí còn không thể nhìn thấy bàn tay trước mặt mình. Ai đó làm ơn thắp giùm tôi ngọn nến nào. Thắp nến lên để tôi được cứu rỗi nào.”

Tôi thấy thật kinh khủng làm sao khi nghĩ tới bố mình đang phải lẻ loi hãi sợ trong bóng tối. Tôi cố gọi lớn lên để làm bố an lòng, nhưng Morgan mới là người lên tiếng trước.

“Làm sao mà ngươi được cứu rỗi chứ?” Morgan nói, giọng hắn thâm trầm hùng dũng đầy quyền năng. “Làm sao một kẻ tội đồ như ngươi lại có thể bước đến vùng ánh sáng? Hỡi kẻ tội đồ chuyên làm việc vào ngày của Chúa?”

“Ôi, xin Người tha tội! Xin Chúa tha tội cho con!” Bố tôi khóc lên. “Con là nông dân và luôn có việc phải hoàn thành. Con đã lao động cật lực nhưng một ngày chẳng bao giờ có đủ thời gian. Con còn phải chăm lo cho gia đình. Nhưng con đã luôn đóng đủ sưu thuế, không bao giờ giấu đi những gì phải thuộc về Giáo hội. Con luôn có đức tin, thực lòng là thế. Và con đã giáo dục con cái mình điều hay lẽ phải. Con đã làm mọi việc mà một người cha phải làm.”

“Một trong những đứa con của ngươi đang ở đây này,” Morgan bảo. “Ngươi có muốn nói chuyện với nó lần cuối không?”

“Vâng con xin Người. Con xin Người. Hãy cho phép con nói chuyện với nó. Phải là Jack không? Có những chuyện lẽ ra con phải nói với nó khi con còn sống. Những điều không được nói ra mà giờ đây con phải nói thôi!”

“Không phải,” Morgan đáp. “Jack không có ở đây. Là Tom, thằng con út của ngươi đấy.”

“Tom! Tom! Con đấy ư? Phải thật là con không?”

“Là con đây bố. Là con ạ!” Tôi gào lên, một cục nghẹn ứ lên trong họng. Tôi không thể chịu đựng ý nghĩ rằng bố mình đang khổ sở trong bóng tối như thế. Bố đã làm gì để phải hứng chịu điều này chứ? “Con xin lỗi đã không về đến nhà kịp lúc. Xin lỗi vì con đã không đến được đám ma của bố. Tin nhắn đến tay con quá trễ. Nếu bố có gì muốn nói với Jack, bố cứ bảo con này. Con sẽ chuyển lời cho anh ấy,” tôi nói, nước mắt bắt đầu ứa ra khỏi hai mắt.

“Con ạ, con cứ bảo Jack là bố rất tiếc về nông trại. Bố xin lỗi không để lại toàn bộ nông trại cho anh ấy. Anh ấy là con trai cả và đấy là quyền lợi từ thuở lọt lòng của Jack. Nhưng bố đã nghe theo lời mẹ con. Bảo với Jack là bố xin lỗi vì đã để lại căn phòng cho con.”

Lúc này nước mắt đang giàn giụa trên mặt tôi. Thật choáng váng khi nghe rằng mẹ và bố đã không đồng thuận với nhau về căn phòng. Tôi những muốn hứa với bố rằng mình sẽ chấn chỉnh mọi việc bằng cách trao lại căn phòng cho Jack, nhưng tôi không thể, vì tôi còn phải nghĩ đến ước nguyện của mẹ nữa. Tôi phải nói chuyện với mẹ đã. Nhưng tôi cố gắng làm bố thấy an tâm hơn. Đấy là điều tối thiểu tôi có thể làm.

“Đừng lo bố ạ! Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Con sẽ bảo với Jack chuyện này. Sẽ không gây ra rắc rối nào trong nhà đâu ạ. Không chút nào đâu. Xin bố đừng lo. Rồi sẽ ổn thỏa cả thôi.”

“Con là thằng bé ngoan, Tom à,” bố nói, giọng ông đầy vẻ hàm ơn.

“Thằng bé ngoan!” Morgan xen vào. “Nó mà ngoan nỗi gì. Đây là thằng con trai mà người đã trao vào tay một kẻ trừ tà! Ngươi có tới bảy thằng con trai mà lại không dâng nguyện được một đứa cho Giáo hội!”

“Ôi! Con xin lỗi! Con xin lỗi!” giọng bố kêu gào trong thống khổ. “Nhưng không đứa con nào của con có thiên khiếu phụng sự cả. Chẳng đứa nào muốn làm cha. Con đã chật vật tìm cho mỗi đứa một nghề, đến phiên thằng con út, mẹ nó lại muốn nó học làm kẻ trừ tà. Con đã cực lực phản đối và vợ chồng con đã cãi vã với nhau về việc này còn gay gắt hơn bất cứ cuộc cãi vã nào. Nhưng rốt cuộc con đầu hàng, bởi vì con yêu vợ mình và không thể từ chối bà ấy thứ mà bà ấy nhất mực phải đạt được. Xin tha thứ cho con! Con yếu đuối đã để cho tình ái tầm thường lấn át bổn phận của con với Chúa!”

“Ngươi đã làm thế đấy!” Morgan lớn tiếng quát lên. “Chẳng có sự thứ tha nào dành cho một kẻ như ngươi, nên giờ đây ngươi phải gánh chịu lấy đau đớn từ Địa ngục. Ngươi có cảm nhận thấy những ngọn lửa đang bắt đầu liếm khắp da thịt không? Có cảm thấy sức nóng đang bắt đầu tích tụ không?”

“Ôi không, thưa Đức Chúa Cha! Xin Người! Xin Người! Cơn đau thật quá sức chịu đựng! Xin tha cho con. Con sẽ làm mọi chuyện! Bất cứ chuyện gì!”

Tôi đứng phắt dậy, lòng ngùn ngụt giận dữ. Morgan đang gây ra chuyện này cho bố tôi. Khiến bố tôi tin rằng ông đang ở dưới Địa ngục. Khiến bố phải kinh qua đau đớn cực cùng. Tôi không thể để cho chuyện này tiếp diễn.

“Bố ơi, đừng nghe lời hắn!” tôi thét lên. “Không có ngọn lửa nào đâu. Không đau đớn gì cả. Hãy ra đi trong thanh thản! Ra đi trong thanh thản! Hãy đến vùng ánh sáng! Đến vùng ánh sáng!”

Tôi thoăn thoắt bước bốn bước sang phía trái bàn, và vận hết sức lực, tôi vung thanh trượng về phía hình dáng người đầu đội mũ trùm mà giáng xuống một đòn kinh hồn. Không thốt ra được tiếng nào, hắn đổ nhào sang bên phải và tôi nghe thấy tiếng chiếc ghế chao đảo rơi xuống nền đá.

Thật nhanh tay tôi lôi hộp đánh lửa và mẩu nến từ trong túi ra. Trong chốc lát tôi đã châm lên ngọn nến. Tôi giơ nến lên nhìn quanh. Chiếc ghế đã đổ sang một bên và một chiếc áo choàng đen đang vắt ngang ghế lòng thòng xuống sàn. Nhưng lại chẳng thấy bóng dáng Morgan đâu! Tôi dùng trượng chọc chọc vào áo choàng nhưng chiếc áo rỗng không như thoạt trông. Morgan đã biến mất tăm!

Tôi để ý thấy thứ gì đó trên mặt bàn. Mặt gỗ khô khốc ráo hoảnh, chẳng có dấu tích gì về nước đã từng nhỏ giọt hay vũng nước nào trên ấy cả, nhưng ở nơi từng đặt chiếc chân nến bằng đồng lại có một chiếc phong bì đen.

Đặt mẩu nến xuống mép bàn, tôi với tay qua nhặt lấy phong bì. Phong bì được niêm kín, nhưng trên đấy là những chữ:

Gửi Tom Ward, Kẻ Học Việc Mới Của Ta

Tôi xé toang phong thư và mở mảnh giấy gấp trong ấy ra.

Sao hả, giờ thì mi đã được chứng kiến ta có thể làm những gì. Và điều ta vừa mới làm kia, ta có thể làm đi làm lại. Ta đã nhốt bố mi mắc kẹt vào chốn Lập Lờ. Vì thế ta có thể tóm lấy ông ta bất cứ khi nào ta chọn và khiến ông ta tin vào bất cứ điều gì ta muốn. Nỗi đau mà ta có thể gây ra cho ông ta là vô cùng.

Nếu mi muốn cứu ông ta thoát khỏi chuyện này, mi phải nghe theo lời ta. Trước hết, ta cần một thứ từ trong nhà lão Gregory. Ở mãi trên rầm thượng, được khóa cất vào trong bàn giấy của lão, là một chiếc hộp gỗ mà trong đấy là cuốn thần chú, cuốn sách chứa những lời bùa chú cùng quỷ thức quyền năng. Cuốn sách bọc bì a da màu xanh lục và bì a trước có khắc nổi biểu tượng vòng ma thuật - ba vòng tròn đồng tâm chứa một ngôi sao năm cánh. Cuốn sách ấy là của ta. Mang nó đến cho ta.

Thứ hai, không được nói cho bất cứ ai nghe về những gì mi vừa chứng kiến. Thứ ba, mi phải chấp nhận rằng hiện giờ mi là tên học việc mới của ta, phải tuân thủ phục dịch cho ta trong năm năm từ hôm nay trở đi - bằng không bố của mi sẽ phải chịu đau đớn. Để ra dấu cho sự chấp thuận của mi, hãy gõ ba lần lên mặt bàn. Cánh cửa đã được mở khóa, và dù có quyết định thế nào, mi vẫn được tự do ra đi. Lựa chọn là do mi đấy.

Morgan G.

Tôi không thể chịu được ý nghĩ rằng linh hồn của bố mình đang bị tra tấn. Nhưng tôi cũng không muốn làm chân học việc cho Morgan. Tôi chần chừ không muốn gõ lên bàn, nhưng như thế lại cho tôi được ít thời gian. Morgan sẽ nghĩ là tôi đã đồng ý với những gì hắn yêu cầu, và như vậy sẽ giúp cho bố hiện thời không phải đau đớn trong khi tôi đi kiếm Thầy Trừ Tà hỏi ý kiến. Thầy sẽ biết tốt nhất nên làm gì.

Tôi hít một hơi sâu rồi gõ ba lần lên bàn. Tôi nín thở lắng nghe nhưng chẳng thấy có dấu hiệu nhận biết nào cả. Căn phòng tuyệt đối yên ắng tĩnh lặng. Tôi thử đẩy cửa và cánh cửa mở ra. Lúc nãy tôi không nghe thấy gì nhưng then cài đã được kéo lui. Tôi quay lại bàn, nhặt hộp đánh lửa, thổi tắt nến và bỏ hai thứ vào túi. Đoạn, tay nắm chặt trượng, tôi rời khỏi phòng và mở cửa trước ra.

Tôi mém chút té ngửa vì kinh ngạc. Trời đang sáng trưng! Ánh sáng mặt trời đang nhảy nhót phản chiếu từ tuyết và cũng phải quá bình minh ít nhất là hai tiếng rồi! Có vẻ như tôi đã ở trong căn phòng ấy cùng Morgan chỉ mới khoảng mười lăm phút đây thôi, ấy vậy mà thật ra là từng ấy giờ đồng hồ đã trôi qua rồi.

Tôi chịu, chẳng thể giải thích nổi chuyện này. Thầy Trừ Tà từng bảo rằng Morgan là tên nguy hiểm từng dây dưa với thế lực bóng tối. Nhưng Thầy Trừ Tà đã không nói hắn có khả năng làm những điều tôi vừa chứng kiến. Morgan là một tên pháp sư quyền năng và nguy hiểm, sở hữu những pháp thuật thực thụ, và tôi rùng mình khi nghĩ đến việc phải đối mặt với hắn lần nữa. Loáng chốc, tôi đã băng băng qua nẻo đường ngập tuyết bằng hết tốc lực, leo ngược đồi tiến về ngôi nhà của Thầy Trừ Tà.