← Quay lại trang sách

Chương 14 KẺ TIÊU ĐỜI!-

Chúng tôi chưa rời hang động của vị ẩn sĩ bao xa thì ông Arkwright đã dừng bước, ngồi xuống bờ cỏ mà mở túi. Ông lôi ra chai vang đỏ, dùng răng rút nút chai và bắt đầu tu.

Tôi đứng đấy, chẳng vui vẻ gì trong một đỗi, thắc mắc không biết liệu đây có phải là cách chuẩn bị tốt nhất để đối phó với đám côn đồ nguy hiểm kia không, nhưng vị ẩn sĩ có đưa ra một luận điểm đúng đắn – ông Arkwright khi nào cũng hung hăng hơn sau khi uống. Hẳn ông ấy đã nhìn thấy vẻ mặt tôi vì ông liền cau có giận dữ và khoát tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống.

“Ngồi xuống thư thả chút đi cậu Ward. Làm thế đi, bỏ luôn cái vẻ khổ sở trên mặt cậu cho tôi nhờ!” Ông la làng.

Cảm nhận được rằng tâm trạng Arkwright đang trở xấu, tôi lập tức nghe theo lời ông. Mặt trời đang lặn dần về phía chân trời và tôi băn khoăn không biết có phải ông định chờ trời tối mới bắt đầu đối phó với lũ bắt lính. Có vẻ kế hoạch ấy là hợp lý nhất. Hoặc thế, hoặc là tấn công ngay sau khi trời rạng, thời điểm bọn chúng còn ngái ngủ. Nhưng ông Arkwright là một người thiếu kiên nhẫn, nếu được lựa chọn, nhất định ông sẽ ra tay theo cách khó khăn thôi.

Tôi đã đoán đúng. Chẳng mấy chốc Arkwright đã uống cạn chai rượu và chúng tôi lại lên đường. Sau chừng mươi phút, tôi bước lên ngang hàng với ông. Tôi tò mò muốn biết liệu ông có kế hoạch nào đó không.

“Thưa ông Arkwright...” Tôi ấp úng ướm lời.

“Câm mồm!” Arkwright quát. “Chỉ mở miệng khi tôi nói với cậu chứ không được lên tiếng trước!”

Thế là tôi lại thụt lùi. Tôi nổi cáu và cũng hơi buồn trong lòng. Tôi từng cảm thấy mình đang bắt đầu hòa hợp hơn với ông Arkwright nhưng dường như mọi chuyện không thay đổi mấy. Thỉnh thoảng Thầy Trừ Tà cũng bắt tôi im tiếng, thầy bảo để sau hẵng hỏi cũng được, nhưng chả bao giờ thầy làm thế một cách hung hăng thô bạo. Chắc chắn thái độ hành xử của người thầy mới này là lỗi do rượu mà ra.

Chúng tôi nhanh chóng đến được dãy gò đất. Ông Arkwright dừng bước, đưa tay che mắt nhìn mặt trời lặn. Tôi thấy bên dưới là một căn nhà, khói nâu đang bốc lên gần như là thẳng đứng từ ống khói. Rõ ràng đây từng là một nông trại trên đồi chuyên chăn nuôi cừu, nhưng giờ đây không thấy bóng dáng con thú nào.

“Vậy đấy, kia rồi!” Ông nói. “Nông trại Saltcombe. Ta hãy đi xuống dưới giải quyết cho xong nào...”

Arkwright sải bước xuống sườn đồi, chẳng buồn tránh né ẩn mình gì sất. Đến thung lũng, ông đi thẳng tới cửa trước, tôi cứ ngỡ cửa sẽ bật mở vào bất cứ lúc nào và lũ kia sẽ xông ra tấn công chúng tôi. Khi chỉ còn cách chừng hai mươi bước, Arkwright dừng lại và quay sang đối mặt tôi, hất đầu về phía hai con chó.

“Cậu giữ chặt vòng cổ của bọn nó và đừng thả tay ra đấy,” ông ra lệnh. “Khi tôi la ‘Ngay!’ thì cậu hãy thả. Nhưng không được làm trước khi có lệnh. Hiểu chưa?”

Tôi dè dặt gật đầu rồi tóm lấy dây tròng cổ của hai con chó khi chúng rướn về trước. Nếu chúng muốn đi, tôi chẳng có cách nào ngăn chúng lại.

“Lỡ có chuyện gì không ổn thì sao ạ?” Tôi hỏi. Trong nhà có năm tên lính – chắc là vẫn còn trang bị dùi cui và gươm dao. Tôi nhớ đến những gì bà lão từng kể về anh cảnh vệ trong vùng. Bọn chúng đã đánh anh ta thừa sống thiếu chết.

“Này cậu Ward,” ông Arkwright khinh bỉ đáp lại, “nếu có thứ gì tôi không thể chịu được, thì đấy là một kẻ yếm thế. Hãy cứ tin cậu có thể thì cậu đã thắng được nửa trận trước khi ra tay rồi. Tôi sẽ giải quyết lũ này cho xong, sau đó tiếp tục công việc của mình. Đây, trông chừng cái này cho tôi,” ông quẳng túi đồ xuống dưới chân tôi. Đoạn ông quay ngược đầu trượng để lưỡi giáo chết người chĩa xuống đất. Điều này cho thấy ông không muốn gây ra tổn hại vĩnh viễn cho đám lính kia.

Thế rồi ông Arkwright dõng dạc bước thẳng đến cửa trước, và chỉ với một cú đá bằng chân trái, cửa mở tung. Ông tiến thẳng vào, tay vung trượng, và tôi nghe thấy tiếng chửi thề, rồi những tiếng la thét đau đớn lẫn tức tối từ bên trong. Tiếp đến, một gã đàn ông to lớn trong bộ đồng phục tả tơi, trán nhểu máu chạy bổ ra khỏi cửa, xông thẳng về phía tôi, vừa chạy vừa phun phì phì mấy cái răng gãy. Hai con chó đồng thanh gầm gừ, tên kia dừng lại, nhìn thẳng vào tôi trong giây lát. Chính là tên trung sĩ mặt thẹo, và tôi nhìn ra sự nhận biết lẫn nỗi tức giận lóe lên cùng lúc trong mắt hắn. Trong tích tắc, tôi tưởng hắn đã quyết tấn công mình bất chấp hai con chó, nhưng rồi hắn quay sang phải, bỏ chạy lên sườn đồi.

Nghe thấy ông Arkwright quát lên “Ngay!” và trước khi tôi kịp phản ứng, hai con chó giật phăng khỏi tay nắm của tôi mà phóng về phía cửa để ngỏ, sủa váng trời.

Vuốt và Răng chưa xông vào trong bao lâu, bốn tên còn lại đã bỏ chạy ra ngoài. Ba tên thoát thân qua lối cửa chính theo bước tên trung sĩ chạy lên đồi, riêng tên thứ tư thì nhảy qua cửa sổ trước và đâm đầu thẳng đến chỗ tôi, tay huơ dao. Là tên hạ sĩ. Hai con chó không thể giúp gì, nên tôi đành giương trượng ngang người trong thế phòng thủ.

Khi chạy đến gần hơn, một nụ cười buồn nhăn nhúm trên bản mặt tên trung sĩ. Hắn dừng lại, khom người đối mặt với tôi, lưỡi dao dang rộng trên tay phải. “Mày đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi đào ngũ đấy, thằng nhãi. Tao sẽ mổ bụng mày để trừng trị đích đáng!”

Dứt lời, hắn lao vào tôi, lưỡi dao vung lên thành hình vòng cung về phía người tôi. Tôi di chuyển nhanh hơn mình kịp nghĩ, lần thực hành với ông Arkwright đã mang lại kết quả hữu ích. Cú ra đòn đầu tiên tôi nhắm vào cổ tay, đánh rớt con dao khỏi tay hắn. Hắn thốt lên đau đớn khi tôi tấn công hắn lần hai – một cú ngay đầu khiến hắn khuỵu xuống. Giờ thì hắn không cười cợt gì được nữa. Trong mắt hắn là nỗi sợ hãi. Hắn chầm chậm đứng lên. Lẽ ra tôi đã có thể đánh hắn cú nữa nhưng tôi lại tha. Hắn quay đi, buông lời chửi mắng rồi bám sát gót đồng bọn. Tất cả bọn chúng cuống cuồng chạy lên đồi như thể Ác Quỷ đang rượt theo vậy.

Tôi tiến về phía ngôi nhà, nghĩ bụng rằng mọi chuyện đã xong, rồi lại đứng tại lối cửa vào mà há hốc mồm nhìn ông Arkwright rống lên giận dữ, đập phá mọi thứ trong nhà thành nát bét: bàn ghế, bát đĩa và mỗi một cửa sổ còn sót lại. Xong cơn tam bành, ông huýt sáo gọi Vuốt và Răng đến rồi châm lửa đốt nhà. Khi chúng tôi rời khỏi thung lũng, một cuộn khói đen dày đặc che khuất cả mặt trời đang lặn.

“Giờ thì chẳng còn gì để chúng quay lại nữa nhé!” Ông Arkwright cười toe nhận định.

Thế nhưng, từ trên rặng đồi đá cao cao, kẻ nào đó gào vọng xuống chỗ bọn tôi:

“Mi tiêu đời rồi nhé, thằng Thầy Trừ Tà kia! Tiêu đời rồi! Bọn tao sẽ tìm ra nơi mày sống. Mày chết chắc rồi – cả mày và thằng nhãi kia nữa! Giờ thì cả hai chúng mày tự chuốc vạ vào thân. Bọn tao phụng sự cho Đức Vua đấy. Chắc chắn bọn mày sẽ bị treo cổ!”

“Đừng lo lắng thế chứ cậu Ward,” ông Arkwright nhăn nhở cười. “Thằng đấy chỉ giỏi cái mồm. Nếu có gan chúng đã xuống đây đánh đấm chứ không đứng trên đồi co rúm vì sợ đâu.”

“Nhưng chẳng phải bọn chúng sẽ báo cáo lại và phái thêm nhiều lính đến bắt chúng ta sao? Ông đã đánh lính của Đức Vua và chúng ta vừa mới phá hủy hết tài sản của bọn chúng.”

“Chiến tranh đang diễn ra khốc liệt nên tôi không nghĩ người ta còn thừa lính tráng để đi lùng những kẻ như chúng ta. Với lại, tôi khá đoan chắc bọn kia là bọn đào ngũ. Chúng mới là những đứa sợ treo cổ. Rõ ràng chúng không hành xử như những đội bắt lính bình thường. Đánh đập cảnh vệ địa phương không phải là một phần trong công việc khi tôi còn tại ngũ đâu!”

Nói đoạn, ông Arkwright quay gót thẳng tiến về hang động.

“Ông làm lính khi nào vậy ạ?” Tôi hỏi.

“Lâu lắm rồi. Sau khi hoàn tất kỳ học việc với thầy Gregory, tôi quay lại cối xay cố sức giải thoát cho bố mẹ tôi. Khi không thể làm được, tôi chán đời quá nên bỏ nghề một thời gian. Quân đội huấn luyện tôi trở thành pháo thủ, nhưng đất nước lúc ấy đang hòa bình, chẳng có ai để bắn cả, thế là tôi giải ngũ và trở lại làm kẻ trừ tà. Mọi chuyện buồn cười quá nhỉ. Nhưng tôi nói với cậu điều này – tôi chưa bao giờ bỏ chạy khỏi một trận chiến nào – không giống cái lũ hèn hạ nhát gan trên kia.”

“Ông là pháo thủ? Ý là ông bắn pháo từ một trong mấy khẩu thần công to tướng đó ấy ạ?”

“Là một khẩu chín ly, cậu Ward ạ. Loại súng thần công to nhất trong Hạt. Và tôi vừa là tay pháo thủ thiện xạ vừa mang lon trung sĩ. Cơ bản thì, đấy là khẩu súng của tôi!”

“Cháu đã thấy khẩu súng đó,” tôi bảo ông. “Mùa hè rồi, quân lính đã chuyển nó từ Colne đến và dùng để chọc thủng tháp Malkin.”

“Họ mất bao nhiêu lâu vậy?” Ông Arkwright gặng hỏi.

“Họ bắn từ trưa cho đến chiều tà, rồi hoàn tất trong chưa tới một giờ đồng hồ vào sáng hôm sau.”

“Vậy sao? Chả trách sao cuộc chiến dưới miền nam diễn ra tệ thế. Tôi từng trông thấy ngọn tháp ấy, và tôi nghĩ mình có thể chọc thủng những bức tường thành trong chưa tới hai giờ. Chỉ là chuyện kỹ thuật và tập luyện thôi, cậu Ward ạ!” Ông Arkwright mỉm cười.

Thật lạ lùng làm sao khi ông đột nhiên trở nên vui vẻ và nói năng luôn mồm đến vậy. Ông có vẻ phấn chấn. Như thể trận đánh nhau với đám đào ngũ đã giúp vực dậy tinh thần của ông.

Tuy nhiên, lúc quay lại nơi ẩn dật, cơn thịnh nộ của ông Arkwright lại sục sôi khi ông phát hiện ra rằng vị ẩn sĩ không thể tìm thấy nơi ẩn náu của mụ Morwena.

“Tôi đã thực hiện phần thỏa thuận của mình – giờ thì ông phải giữ lời của ông đi!” Arkwright nổi đóa.

“Kiên nhẫn nào, William,” Judd bình thản nói. “Mùa màng có đâm chồi nảy lộc được giữa tiết đông không thế? Tất nhiên là không, vì việc gì cũng có thời có lúc. Ta bảo mình chưa tìm ra thôi. Chứ không phải là sẽ không bao giờ. Mà ta cũng đã tiếp cận rất gần chân tướng sự việc để biết là anh nói đúng. Hang ổ của mụ ta nằm tại những hồ nước phía nam. Nhưng để tìm thấy một mụ phù thủy thì khó lắm thay. Chắc chắn mụ ta sử dụng phép thuật để che chắn nơi ở của mụ. Mụ này có quyền năng đặc biệt không thế?”

Ông Arkwright gật đầu. “Không nhiều kẻ mạnh hơn mụ đâu. Tên thật của mụ là Morwena nhưng có người gọi mụ là Huyết Nhãn. Chắc là ông từng nghe qua cái tên ấy rồi chứ?”

“Có,” vị ẩn sĩ đáp. “Cả hai tên. Ai mà chưa nghe đến? Bà mẹ nào trong Hạt cũng run bắn lên khi nghe thấy mấy cái tên ấy. Trong hai mươi năm qua, vô số trẻ con đã mất tích. Ta sẽ làm hết sức để giúp đỡ, nhưng giờ ta mệt rồi. Những việc như thế này không thể gấp gáp. Ngày mai ta sẽ thử lại, khi mọi chuyện thuận lợi hơn. Thời tiết thế nào rồi?”

“Đang dịu đi và bắt đầu có mưa phùn,” ông Arkwright làu bàu, vẫn còn rất không vui.

“Anh chẳng muốn đi loanh quanh trong điều kiện thời tiết như thế đâu nhỉ? Sao anh không nghỉ lại đây qua đêm? Hai người đã ăn gì chưa?”

“Từ sáng đến giờ bọn tôi chưa ăn gì. Tôi chịu được, còn cậu Ward đây lúc nào cũng đói.”

“Thế để tôi hâm lại ít súp vậy.”

Nhưng trước bữa tối, ông Arkwright lại mang tôi ra mạn đồi tối om rồi chúng tôi tập giao đấu bằng trượng. Có vẻ như ông quyết tâm duy trì tập luyện cho tôi ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ khi nào có thể. Một cơn mưa nhỏ quất vào mặt chúng tôi khi chúng tôi cố giữ thăng bằng trên nền cỏ trơn trượt. Lần này ông Arkwright không quật cú nào vào người tôi, dường như ông hài lòng với việc đẩy lùi tôi để thử khả năng phòng vệ của tôi.

“Thôi, cậu Ward này, bây giờ như thế đã đủ rồi,” cuối cùng ông lên tiếng. “Tôi tin là chúng ta đang bắt đầu trông thấy chút tiến bộ rồi đây. Ban nãy tôi đã chứng kiến cậu đối phó với tên hạ sĩ. Làm tốt lắm, cậu nhỏ. Cậu nên lấy đấy làm tự hào. Cứ tiếp tục như thế, trong vòng sáu tháng cậu sẽ có khả năng tự lo cho mình.”

Những lời ông nói làm tôi hởi lòng hởi dạ, và khi chúng tôi quay vào trong hang, tôi bắt đầu trông ngóng đến bữa tối. Nhưng hóa ra lại thất vọng vô cùng. Nước súp đắng nghét, mới nếm miếng đầu tiên là tôi đã nhăn mặt. Tôi thắc mắc không biết trong súp có gì.

Ông Arkwright chỉ mỉm cười khi thấy dáng vẻ ăn không ngon của tôi. “Ăn cho bằng hết đi nhé cậu Ward! Đấy là món súp thảo dược ngon nhất trong toàn vùng bắc Caster này. Ông Judd đây là người ăn chay trường. Tối nay mấy con chó sẽ được ăn ngon miệng hơn chúng ta rồi.”

Vị ẩn sĩ không tỏ vẻ gì là bị lời nhận xét của ông Arkwright xúc phạm, nhưng vì lòng kính trọng nên tôi đã cố ăn sạch bát súp rồi nói lời cảm ơn ông ấy. Dù trong súp bỏ gì đi chăng nữa thì tôi vẫn có một đêm ngon giấc nhất kể từ khi rời khỏi Chipenden.