Chương 15 NGÓN TAY NHẢY MÚA
Không có điểm tâm. Ngay sau khi trời rạng, ông Judd Atkins mở tấm bản đồ ao hồ ra trải trên nền đất gần đống than hồng.
“Được rồi!” Cuối cùng ông cũng thốt lên, mắt nhìn chăm chăm xuống bản đồ. “Tôi đã có một đêm ngon giấc và giờ tôi thấy khỏe hơn nhiều. Lúc này thì có thể tìm ra mụ ta rồi đây...”
Nói xong, ông ấy lấy từ trong túi quần ra hai vật. Một là sợi dây mảnh ngăn ngắn; vật kia là ngón tay bị cắn đứt của mụ phù thủy. Sau đấy ông cột một đầu sợi dây vào ngón tay.
Thấy tôi quan sát, vị ẩn sĩ mỉm cười. “Trước khi lánh khỏi cõi đời độc ác này, tôi từng là một người dò mạch, Thomas ạ. Chủ yếu tôi dùng cành gỗ bu-lô để tìm mạch nước. Rất nhiều giếng nước ở phía bắc của Hạt là do tôi tìm ra. Đôi khi tôi cũng dò tìm người mất tích nữa. Tôi có thể treo một mảnh quần áo hay một món tóc bên trên bản đồ cho đến khi bàn tay tôi giật giật. Đáng buồn là, nhiều người trong số tôi tìm được đã chết, nhưng gia đình họ vẫn biết ơn vì tôi đã tìm ra cái xác để về chôn cất ở vùng đất thiêng. Nào, để xem liệu tôi có tìm thấy mụ thủy phù thủy tên Morwena không nhé...”
Ông Arkwright dịch đến gần hơn, hai chúng tôi cùng quan sát khi vị ẩn sĩ bắt đầu cuộc tìm kiếm có hệ thống. Chầm chậm di chuyển ngón tay lơ lửng trên bản đồ từ tây sang đông, rồi đông sang tây, ông từ từ quét qua chiều ngang bản đồ, cứ mỗi lúc một đi hơi chếch lên hướng bắc. Sau chưa tới một phút, bàn tay ông bỗng giật giật. Ông dừng lại, hít một hơi sâu, chuyển tay sang phải rồi đưa lại sang trái thật từ tốn nhẹ nhàng. Bàn tay ông lại giật, lần này là nảy ngược ra sau, khiến cho ngón tay phù thủy nhảy nhót trên đầu sợi dây.
“Đánh dấu nơi đấy đi William!” Ông gọi lớn, thế là ông Arkwright bước sang, quỳ xuống đánh một dấu chữ thập nhỏ. Xong xuôi, vị ẩn sĩ tiếp tục rà soát quanh bản đồ. Chẳng mấy chốc tay ông lại giật. Trong tích tắc, ngón tay đứt lại nhảy nhót trên đầu sợi dây khi vị ẩn sĩ tìm ra vị trí thứ ba. Cứ mỗi lần như thế, ông Arkwright cẩn thận đánh dấu địa điểm. Vị ẩn sĩ tiếp tục tìm kiếm nhưng không còn tìm được gì khác để báo cáo.
Cả ba dấu chữ thập đều nằm phía tây vùng Hồ Coniston: điểm đầu tiên là bên bờ tây bắc; điểm thứ hai được đánh dấu là một hồ nước nhỏ - hồ Con Dê; điểm thứ ba, ngược tít lên phía bắc, hồ Leven.
“Vậy ra đây là tất cả ư, bạn già, hay là ông chỉ không chắc?” Arkwright hỏi, giọng rặt nôn nóng.
“Cần chắc chắn đúng ư? Chúng ta phải luôn chừa chỗ cho nghi ngờ chứ, William. Có thể chỉ mỗi ba chỗ kia thôi. Ta dám chắc mụ ấy sống ở mỗi nơi một ít,” vị ẩn sĩ đáp lại. “Cũng có thể còn nhiều nơi khác nữa trên phía bắc, xa hơn khu vực mà anh nhờ ta điều tra. Ta nhận được phản ứng mạnh nhất là từ bờ hồ Coniston, nhưng ta cũng cảm nhận được mụ ta đi lang thang khắp khu vực phía tây của hồ ấy. Anh biết rõ nơi này không?”
“Vài lần tôi có chuyện phải làm trên ấy, nhưng tôi không nắm rõ khu vực cực bắc của hồ, ngay vùng ven của Hạt. Đám người sống trên vùng hồ Coniston là một đám thiếu thân thiện, sống theo cách riêng và không vui vẻ gì với người ngoài vùng. Họ thà im lặng chịu đựng hơn là mời một kẻ trừ tà từ miền nam lên.”
Cũng còn khôn là tôi không nói ra ý nghĩ của mình, nhưng tôi nghĩ lời này hơi quá khi được phát biểu từ một người kém thân thiện như ông Arkwright, người mà đến chân học việc trong nhà cũng lắm khi không chịu đựng được.
Ngay khi chúng tôi chuẩn bị lên đường thì thời tiết trở xấu, ngọn gió từ hướng tây mang mưa đến quất mạnh vào sườn đồi, khiến mưa trút ầm ào xuống nóc hang động rồi lọt qua lối vào, thỉnh thoảng còn liếm lèo xèo vào mép đống lửa.
“Đúng là ông già ngớ ngẩn,” ông Arkwright mắng khan. “Làm thế quái nào ông lại chọn một cái hang có lối vào đụng ngay hướng gió vậy?”
“Lạnh và ẩm có lợi cho tâm hồn. Tại sao anh lại sống trong căn nhà bên rìa đầm lầy trong khi anh có thể sống khỏe mạnh ở một nơi không khí trong lành cơ chứ?” Judd Atkins phản pháo.
Hàng chân mày của ông Arkwright thoáng nhướng lên vì tức giận, nhưng ông chẳng nói gì. Ông sống tại đấy vì nó từng là nhà của bố mẹ ông, còn giờ đây, khi linh hồn mẹ ông bị mắc kẹt trong ấy, ông không thể bỏ mặc họ. Chắc là vị ẩn sĩ không biết chuyện, bằng không ông sẽ chẳng nói năng tàn nhẫn đến vậy.
Vì thời tiết khắc nghiệt, ông Arkwright quyết định trú thêm một đêm rồi thẳng tiến đến hồ Coniston ở hướng bắc vào rạng sáng hôm sau. Trong khi ông Judd nhóm lửa, Arkwright dẫn tôi đi bắt cá dưới trời mưa như trút. Tôi tưởng ông sẽ dùng cần câu hay lưới, nhưng ông lại có một phương pháp mà ông gọi là “chọc nhột”.
“Nếu cậu làm được thì sẽ chẳng bao giờ bị đói!” Ông bảo tôi.
Muốn thực hiện phương pháp, ta cần nằm sấp trên bờ sông ẩm ướt, hai tay thọc xuống nước lạnh. Bước đầu là chọc vào bụng con cá hồi khiến nó nhột nhạt mà bơi thụt lùi vào tay ta, sau đấy ta sẽ tạt nó lên bờ cỏ. Arkwright chỉ cho tôi phương pháp, nhưng nó đòi hỏi ta phải thật kiên nhẫn. Kết quả là chẳng có con cá hồi nào bơi đến, dù là trong tầm với của tôi. Tuy vậy, ông Arkwright lại bắt được những hai con, và ông nhanh chóng nướng lên ngon lành. Vị ẩn sĩ chỉ nhấp vài ngụm súp, nghĩa là tôi cùng ông Arkwright mỗi người được nguyên một con cá. Cá ngon tuyệt, làm tôi chóng thấy khá hơn nhiều.
Rồi lại thêm phần luyện tập giao đấu bằng trượng. Tôi mở màn nhẹ nhàng, kết thúc chỉ với một vết bầm trên cánh tay, nhưng ông Arkwright đánh với tôi cho đến khi tôi cứng đờ và mệt lả. Vậy nên tôi ngủ thật ngon trong hang động ấy. Chắc chắn là nơi này thoải mái hơn trong cối xay rồi.
Bình minh ló dạng thì mưa cũng đã dứt. Không chút chậm trễ, chúng tôi khởi hành lên phương bắc, về phía các hồ.
Quả là Thầy Trừ Tà đã đúng về quang cảnh của vùng này. Khi chúng tôi đến được vùng Hồ Coniston và đi ven bờ hồ dọc dài cây cối, cảnh vật xung quanh chúng tôi thật mãn nhãn. Những mạn sườn phía đông phủ đầy các loại cây thay lá và cây họ tùng, loại cây này tạo nên một thảm xanh tươi sáng bừng một ngày cuối thu ảm đạm. Mây trời treo cao tít nên phía bắc là cảnh núi non hùng vĩ, rõ là lúc trước mưa đã rơi trên ấy như tuyết, khiến cho những đỉnh núi lấp lánh trắng lóa trên nền trời xam xám.
Dường như tâm trạng ông Arkwright vui vẻ hơn một chút, thế là vì quá chán sự im lặng kéo dài này – ông đã không nói lấy một lời từ khi chúng tôi rời khỏi hang động của vị ẩn sĩ – nên tôi đánh bạo hỏi một câu.
“Ngọn núi phía trước có phải là ngọn Old Man xứ Coniston không ạ?”
“Chính nó đấy cậu Ward, mà hẳn là cậu biết rõ quá đi rồi – cậu sẽ thông thuộc nó thôi, hôm qua chúng ta đã nghiên cứu bản đồ rồi mà. Thật là một cảnh tượng hùng tráng phải không nào? Cao hơn nhiều so với rặng đồi đá phía sau nhà thầy Gregory. Nơi này thật thu hút, nhưng đôi khi có những chỗ cũng đẹp đẽ như thế mà lại không nổi bật dường ấy. Thấy bờ hồ phía kia không?” Ông chỉ tay qua bờ bồ phía đông.
Tôi gật đầu.
“Ừ, đấy là nơi ta tiêu diệt tên kẹ xé xác Coniston. Ngay bên dưới bờ hồ. Có lẽ nó cũng là việc tốt đẹp nhất ta từng làm kể từ khi hoàn tất học việc với thầy Gregory. Nhưng nếu ta có thể tóm hay giết mụ Morwena, thì đương nhiên việc này sẽ là việc hay ho nhất.”
Có một vẻ gì đấy gần giống một nụ cười toe làm gương mặt ông Arkwright nhăn nhúm, và ông bắt đầu huýt sáo khe khẽ không theo một điệu nào. Hai con chó đi vòng vòng quanh chúng tôi, táp táp không khí vì phấn khởi.
Chúng tôi tiến vào làng Coniston từ phía nam. Có vài người đang lai vãng quanh đấy nhưng những kẻ chúng tôi trông thấy thoạt nhìn đều kém thân thiện; có người thậm chí còn băng sang bên kia đường thay vì đi ngang qua gần chúng tôi. Phản ứng này nằm trong dự đoán. Hầu hết mọi người bất an khi phải ở gần một kẻ trừ tà, ngay cả ở Chipenden, nơi Thầy Trừ Tà sinh sống bao nhiêu năm rồi cũng thế. Thầy tôi thích giữ khoảng cách và tránh đi qua khu trung tâm, còn khi tôi đi thu gom nhu yếu phẩm, không phải ai cũng thân thiện như mấy bác bán hàng, chỉ mấy bác này mới hoan nghênh khách hàng thân thiết như chúng tôi.
Tới bên con suối – được đánh dấu trên bản đồ là ”suối Nhà Thờ“ – chúng tôi bắt đầu leo lên lối mòn dốc đứng hướng về phía tây, bỏ lại sau lưng đám nhà cửa ngổn ngang cùng ống khói nghi ngút. Sừng sững bên trên chúng tôi là đỉnh “Old Man” hùng vĩ, nhưng ngay lúc hai chân tôi chớm đau, ông Arkwright dẫn lối rẽ ngang khỏi đường mòn và đi vào khu vườn nhỏ trước một quán rượu. Bảng hiệu ở đây đề là:
Hai người đàn ông luống tuổi đang đứng nơi lối cửa, mỗi người cầm một vại bia. Họ nhanh chân bước tránh sang cho chúng tôi đi vào, vẻ cảnh giác trên mặt họ chắc không phải chỉ do hai con chó săn sói dấy lên. Họ có thể nhận biết nghề của chúng tôi dựa vào quần áo và hai thanh trượng.
Vào đến bên trong, quán chẳng có một bóng khách, nhưng các bàn ăn đều sạch sẽ và còn có một ngọn lửa tiếp đón bập bùng trong lò sưởi. Ông Arkwright đi thẳng đến quầy rượu mà gõ ầm ĩ lên quầy gỗ. Chúng tôi nghe thấy ai đó chạy lên mấy bậc cấp rồi một người đàn ông ục ịch, vẻ mặt hớn hở, vận chiếc tạp dề sạch từ lối cửa bên tay phải chúng tôi chạy vào.
Tôi thấy ông ta thận trọng liếc qua hai con chó rồi loáng đảo mắt nhìn ông Arkwright từ đầu đến chân, nhưng rồi nụ cười thoạt đầu gượng gạo chợt biến thành kiểu cười chào đón chuyên nghiệp của một ông chủ quán đầy kinh nghiệm. “Xin chúc quý ngài một ngày tốt lành. Tôi có thể phục vụ gì đây ạ? Chỗ ở, một bữa ăn hay đơn giản chỉ là hai cốc bia thượng hạng của chúng tôi?”
“Này ông chủ, bọn tôi sẽ lấy hai phòng cùng một bữa tối – món thịt hầm khoai tây nóng sốt ấy, nếu ông có. Trong khi chờ đợi, chúng tôi sẽ ngồi ngay góc cạnh lò sưởi và dùng bữa khai vị với món cháo rượu.”
Ông chủ quán cúi đầu chào và quày quả rời đi. Tôi ngồi đối diện ông Arkwright, thắc mắc không biết chuyện gì đang diễn ra. Trong những dịp hiếm hoi khi tôi và thầy Gregory phải ở trong quán trọ, chúng tôi thường đặt chung một phòng; thầy nằm trên giường, tôi ngủ dưới đất. Còn ông Arkwright lại đặt cho chúng tôi mỗi người một phòng.
“Cháo rượu là món gì thế ạ?” Tôi hỏi.
“Món giúp cậu hào hứng lên trong một buổi tối cuối thu ẩm ướt, lạnh lẽo. Hỗn hợp giữa rượu vang và cháo loãng. Chỉ là thứ gia tăng khẩu vị cho món thịt hầm khoai tây ấy mà.”
Tôi thấy hơi lo khi ông nhắc đến từ rượu vang. Trận đánh nhau với đám lính một lần nữa cho thấy ông Arkwright có thể trở nên giận dữ và bạo lực đến mức nào khi rượu vào, và mỗi khi ông như thế thì tôi rất sợ. Tôi từng hy vọng gần đây ông đã bắt đầu hạn chế rượu chè, nhưng có lẽ vụ việc với đám bắt lính đã khiến ông bén mùi trở lại.
Tuy vậy, tôi vẫn cố giữ cho mình lạc quan về tình hình. Việc ngủ lại trong quán trọ đương nhiên là dễ chịu hơn nhiều so với qua đêm dưới bờ rào hay trong kho chứa cỏ thông thốc gió – mặc dù tôi hiểu những việc mà John Gregory làm thường có lý do hợp lý. Vì một lẽ là thầy luôn bắt chúng tôi nhịn đói trước khi đối mặt với thế lực bóng tối, vì lẽ khác nữa là thầy không thích người ta biết việc của mình. Nếu là thầy, hẳn thầy đã đi đến một trong ba nơi có khả năng là hang ổ của mụ Morwena mà trước hết là không phải ghé qua làng. Ở một nơi nhỏ bé thế này, lời đồn thổi truyền nhanh như vũ bão. Bây giờ chúng tôi mướn phòng nghỉ qua đêm, chẳng mấy chốc mọi người ở Coniston sẽ biết là có một kẻ trừ tà cùng chân học việc của ông ta đang ở đây. Đôi khi đám phù thủy còn có đồng minh lẫn trong cộng đồng dân cư nữa chứ – tôi đã kinh qua điều này tại Pendle. Thậm chí một thủy phù thủy độc ác như mụ Morwena cũng có thể có người đưa tin cho đấy.
Tôi tranh đấu với chính mình trong một đỗi, giằng xé giữa hai lựa chọn: một, không nói gì với ông Arkwright và chịu hứng lấy hậu quả; hai, nói với ông ấy rồi chịu rủi ro bị đánh hay ít nhất là bị mắng ra trò. Tinh thần trách nhiệm của tôi cuối cùng đã chiến thắng.
“Thưa ông Arkwright,” tôi mở miệng, giữ cho giọng thật khẽ, đề phòng ông chủ quán quay lại và nghe được, “ông có nghĩ việc chúng ta ngồi đây quá công khai là khôn ngoan không ạ? Biết đâu trong khu vực này mụ Morwena có kẻ ủng hộ đấy.”
Ông Arkwright cười gằn. “Thôi cái trò gà mẹ ấy đi cậu Ward. Cậu có thấy tên do thám nào quanh đây không? Hãy nhớ rằng, khi đi với tôi, cậu phải làm theo cách của tôi, mà tôi thì đang cần nghỉ ngơi lẫn đồ ăn thức uống nếu tôi phải đối đầu với mụ Morwena. Cậu hãy cứ coi như mình may mắn khi tối nay bụng được no căng và còn ngủ trên chăn êm nệm ấm. Thầy Gregory chẳng bao giờ đối xử với đám học việc tử tế đến thế đâu.”
Có lẽ ông Arkwright nói phải. Quanh đây chẳng có ai và cả hai chúng tôi xứng đáng có được một bữa ngon và nghỉ ngơi sau hai đêm cắm lại hang động của vị ẩn sĩ. Tôi bảo đảm là thầy Gregory sẽ buộc chúng tôi nhịn đói trước khi đối đầu với mụ Morwena, nhưng tôi quyết định không tranh cãi với ông Arkwright nữa – nhất là khi ông sẽ chóng nốc rượu vào. Tôi ngồi ngửa ra trên ghế, thôi không lo âu và bắt đầu thưởng thức món cháo rượu của mình.
Nhưng không lâu sau đấy, quán trọ bắt đầu đông khách, và đến khi món thịt hầm khoai tây nghi ngút hơi được dọn ra, một toán nông dân đã và đang tu từng vại bia một. Hầu hết các bàn đều đã đầy những người hoạt bát, hòa nhã, đùa giỡn, nói cười và ăn cho đẫy bụng. Chúng tôi nhận được vài ba cái liếc mắt nghi ngại và tôi có cảm giác vài người đang nói đến chúng tôi. Thậm chí một vài vị khách khi đã đi đến cửa vẫn xoay người lại khi nhác thấy chúng tôi nữa chứ. Có lẽ bọn họ không yên tâm về chúng tôi, hay chắc là có điều gì đấy còn tệ hại hơn thế.
Thế rồi tình huống bắt đầu trở xấu. Ông Arkwright kêu một cốc bia loại mạnh nhất mà chủ quán có. Ông uống sạch trong vài giây rồi mua thêm cốc khác, rồi cốc nữa. Cứ uống hết một cốc giọng ông càng lớn hơn, còn lời lẽ thì lăng nhăng lít nhít. Khi đi đến quầy rượu mua cốc thứ bảy, ông loạng choạng va vào bàn người khác, làm đổ thức uống của người ta và bị họ tức tối nhìn lại. Tôi ngồi yên, cố không gây sự chú ý, nhưng dường như ông Arkwright lại không có ý như thế. Tại quầy rượu, ông bắt đầu kể lể chuyện mình đã đánh thắng Kẹ Xé Xác Coniston như thế nào cho bất cứ ai đang lắng nghe.
Chập sau, ông lảo đảo quay lại bàn, mang theo cốc bia thứ tám. Ông nốc loáng cái là hết, rồi ợ lên rõ to, lôi kéo thêm nhiều cái liếc háy.
“Ông Arkwright này,” tôi bảo, “ông có nghĩ bây giờ chúng ta nên đi nằm không? Ngày mai chúng ta sẽ có một ngày bận rộn mà bây giờ thì đã khuya rồi.”
“Lại nữa,” ông Arkwright oang oang nói lớn để nhanh chóng thu hút lượng người nghe mà ông muốn. “Khi nào thì cậu học việc của tôi mới học được rằng tôi là người ra lệnh chứ không phải ngược lại ấy nhỉ. Tôi sẽ đi nằm khi nào tôi muốn nhé cậu Ward, không sớm hơn đấy đâu,” ông càu nhàu.
Bị bẽ mặt, tôi tẽn tò. Tôi có thể nói thêm gì đây? Tôi nghĩ người thầy mới của mình đang phạm một sai lầm nghiêm trọng khi quá chén như thế trong khi sáng mai chúng tôi phải đối đầu với mụ Morwena, nhưng như ông ấy đã bảo, tôi chỉ là đứa học việc và phải phục tùng mệnh lệnh.
“Rủi thay là thằng bé nói đúng đấy,” ông chủ quán đi đến dọn bàn và nói. “Tôi không thích đuổi những người khách trả tiền cho tôi, nhưng anh đã uống quá nhiều rồi Bill à, mà anh thì cần tỉnh táo nếu đúng là anh phải đi lùng bắt mụ Morwena ấy.”
Tôi choáng quá. Tôi không nhận ra là người thầy mới của mình đã kể cho chủ quán biết những gì chúng tôi hoạch định – ban nãy, khi đứng bên quầy rượu, ông ấy có kể cho ai khác nghe không đây?
Arkwright đấm mạnh tay xuống bàn. “Anh đang bảo là tôi không thể uống từng ấy bia à?” Ông gào lên.
Thốt nhiên căn phòng im bặt và mọi người quay sang nhìn chúng tôi.
“Không phải đâu Bill,” chủ quán hòa nhã đáp, rõ ràng ông đã có lắm kinh nghiệm đối phó với mấy tay say xỉn. “Thế tối mai, khi anh đã giải quyết xong mụ Morwena, anh cứ quay lại mà uống cho thỏa thích – quán đãi, thì sao nào?”
Nghe nhắc đến tên Morwena, tiếng thì thào khe khẽ bắt đầu lan ra trong đám khách.
“Thôi được, anh giao kèo rồi đấy nhé,” ông Arkwright nói mà tôi nhẹ cả người. “Này cậu Ward, tối nay đến đây là xong.”
Tôi cùng hai con chó đi trước vào phòng chúng tôi, còn ông Arkwright thì loạng choạng đi sau, lúc này đang leo lên mấy bậc thang. Nhưng khi tôi bước vào phòng mình, ông cũng theo vào rồi đóng cửa lại, bỏ mặc hai con chó bên ngoài. “Cậu thấy phòng mình thế nào hử?” Ông lè nhè.
Tôi nhìn quanh. Chiếc giường trông mới mời gọi làm sao, và mọi thứ, cả những màn cửa, đều trông sạch tinh tươm và được giữ gìn cẩn thận. Ngọn nến cạnh giường làm từ sáp ong chứ không phải từ mỡ động vật hôi thối.
“Trông dễ chịu lắm ạ,” tôi đáp. Nhưng rồi tôi để ý thấy một tấm gương lớn trên bàn trang điểm bên tay trái mình. “Cháu có phải lấy tấm trải giường che gương kia lại không ạ?” Tôi hỏi.
“Không cần. Giờ chúng ta đâu có đối phó với lũ phù thủy ở Pendle của cậu,” ông Arkwright lắc đầu. “Không, không, không,” ông nấc cục, “đây là thứ khác cơ. Rất khác, hãy nhớ lấy lời tôi. Một thủy phủ thủy không dùng gương để do thám người ta được. Cả Morwena cũng không thể. Mà thôi, cậu Ward này, phải lấy làm biết ơn đi nhé. Thầy Gregory chẳng bao giờ đặt cho tôi một căn phòng thoải mái thế này đâu – trong suốt năm năm tôi làm chân học việc cho thầy ấy. Nhưng giờ thì đừng ngủ quá say nhé. Đừng có ngủ say, say như chết đấy. Chúng ta hãy nghỉ ngơi trong vài giờ, khi đồng hồ nhà thờ điểm nửa đêm, chúng ta sẽ lên đường đi săn. Lên đường đi săn! Từ cửa phòng cậu hãy rẽ trái xuống mấy bậc thang phía sau. Tôi sẽ gặp cậu ở cửa ngoài. Làm thế thật nhẹ nhàng, khẽ khàng vào nhé!”
Nói đoạn ông Arkwright lảo đảo đi ra, đóng cửa lại, nhưng tôi có thể nghe thấy ông hát vang ‘Ta lên đường đi săn,’ khi đang ngả nghiêng đánh vật để mở khóa phòng mình. Thế là, chẳng thay áo quần gì cả, tôi nằm xuống giường. Có thể tôi là đứa ngủ say đấy, nhưng tôi giỏi nhận biết thời gian, ngay cả khi đang ngủ, nên nếu tôi tập trung chú ý, tôi sẽ thức dậy ngay trước khi chuông đồng hồ bắt đầu điểm.