Chương 18 HAI TIN NHẮN
Chỉ đến khi tiến về cối xay, tôi mới nhớ đến đám bắt lính và cách một tên trong số bọn chúng đe dọa là sẽ giết chết chúng tôi. Khi đấy ông Arkwright đã cười nhạo bỏ qua nhưng tôi thì không tự tin như thế.
Để tìm ra nơi kẻ trừ tà sinh sống thật dễ quá mà. Lỡ bọn chúng đã phát hiện ra vị trí cối xay thì sao nhỉ? Chúng có thể đang rình rập phục kích ngoài vườn hay trong chính ngôi nhà.
Nhưng sau khi thận trọng băng qua con mương và kiểm tra toàn diện bên trong cối xay, bao gồm cả căn phòng chứa hai cỗ quan tài, tôi mới thấy mối lo của mình không có cơ sở. Không tên bắt lính, cũng chẳng có mụ phù thủy nào. Thế là, dù mệt mỏi vô cùng, tôi vẫn vác năm thùng muối ra vườn rải xuống mương, bảo đảm sao cho một lượng lớn muối trôi vào dòng chảy ra đầm lầy. Tôi cần duy trì độ đậm đặc của dung dịch để giữ chân mụ Morwena bên ngoài. Con Vuốt đi theo tôi khi tôi làm việc, rồi nó sủa lên hai tiếng, chạy vòng quanh tôi ba lần và phóng ra xa – chắc chắn là bỏ đi săn thỏ rồi.
Tôi cũng lo lắng đến những hố nước dưới cối xay nữa. Còn phải tính đến con tôm ác quỷ và mụ phù thủy. Chúng có cần thêm muối để lơ mơ gà gật không? Nếu bỏ quá nhiều muối thì bọn chúng chết mất, nên tôi quyết định cứ để yên cho chúng vậy.
Trở vào bếp, tôi nhóm lửa trong bếp lò và hong khô quần áo ướt; cho phép bản thân ngủ một giấc xứng đáng trước khi nấu một bữa ăn nóng hổi. Xong xuôi, tôi lên gác, đến căn phòng trên rầm thượng và lục tìm trong thư viện của ông Arkwright cuốn sách về Morwena. Tôi chưa đọc hết cuốn ấy và cần tìm hiểu mọi thứ có thể về mụ. Như thế biết đâu sẽ tạo ra sự khác biệt giữa sinh và tử. Tôi e ngại đám hồn ma mạnh đến mức di chuyển được đồ đạc, nhưng lúc này trời vẫn còn sáng, với lại, dù gì thì, họ là bố mẹ của ông Arkwright, đang buồn rầu và bị mắc kẹt chứ chẳng độc ác gì.
Hai cỗ quan tài đặt cạnh nhau và ba chiếc ghế bành được kéo đến gần bếp lò. Tôi liếc qua đống tro lạnh trong lò rồi rùng mình vì khí lạnh âm ẩm, buồn bã lắc đầu. Con trai của hai hồn ma này sẽ không bao giờ còn bầu bạn bên họ nữa.
Tôi chú ý đến những cuốn sách của ông Arkwright. Kho sách của ông chỉ bằng một phần nhỏ so với thư viện của Thầy Trừ Tà tại Chipenden, như thế cũng không có gì là lạ. Thầy tôi không chỉ đã sống lâu hơn, cho phép thầy có nhiều thời gian để thu thập và viết sách, mà còn thừa hưởng lượng sách từ bao thế hệ trừ tà từng sinh sống tại đấy trước thầy.
Những kệ sách của ông Arkwright chứa nhiều tựa về các đề tài chuyên biệt trong vùng, như là: Quần thực vật và động vật vùng bắc Hạt, Nghệ thuật đan giỏ và Các lối mòn và lối tắt vùng sông hồ. Rồi là những sổ ghi chép của chính ông từ thời còn học việc cho đến gần đây. Chúng được bọc bìa da, chắc chắn sẽ thật chi tiết về những kiến thức và kỹ năng mà ông Arkwright đã gặt hái trong quá trình theo nghề. Cũng có cả cuốn Ngụ ngôn về thú vật, mỏng hơn một phần tư cuốn của Thầy Trừ Tà nhưng chắc hẳn là thú vị không kém. Và bên cạnh đó là cuốn sách về Morwena.
Tôi quyết định mang sách xuống lầu để đọc bên bếp lò ấm áp. Mới bước một bước ra cửa, tôi thình lình cảm nhận được cái lạnh ngăn ngắt - lời cảnh báo có kẻ chết không thanh thản đang đến gần.
Một dáng người hình trụ mang sắc dạ quang bắt đầu tụ lại giữa tôi và lối cửa. Tôi lấy làm kinh ngạc. Đa số các hồn ma không xuất hiện trong thời khắc ban ngày. Có phải là hồn ma của mẹ, bố, hay thậm chí là của chính ông Arkwright chăng? Những linh hồn còn vương vấn thường bị trói buộc vào xương cốt của họ hay vào nơi họ lìa đời, cũng có đôi khi hồn ma buộc phải lang thang. Tôi chỉ hy vọng đấy không phải hồn ma ông Arkwright. Có vài linh hồn trở nên rất ích kỷ sau khi chết và đặc biệt căm ghét những ai đột nhập vào nhà họ. Những hồn ma này vẫn muốn sống tại đấy. Vài linh hồn thậm chí còn không ý thức hoàn toàn là mình đã chết nữa chứ. Tôi không thể không nghĩ rằng ông Arkwright sẽ rất tức giận khi thấy tôi trong phòng ông ấy, đang đọc lấy một cuốn sách của ông. Lần đột nhập trước tôi đã phải hứng chịu mấy vết bầm vết xước. Giờ thì còn gì nữa đây?
Nhưng đấy không phải là ông Arkwright. Một giọng phụ nữ vọng đến chỗ tôi. Là hồn ma của bà Amelia, mẹ ông Arkwright.
“Con trai ta, thằng William của ta, chưa chết. Làm ơn, hãy cứu nó trước khi quá muộn.”
“Cháu rất tiếc, bà Arkwright ạ. Vô cùng lấy làm tiếc. Cháu ước gì mình giúp được nhưng cháu không thể. Bà hãy tin lời cháu, con trai bà thật sự đã qua đời,” tôi đáp, cố giữ giọng mình thật tử tế và bình tĩnh hết mức, đúng như những gì Thầy Trừ Tà đã khuyên tôi khi phải đối mặt với kẻ chết không thanh thản.
“Không! Không đúng thế đâu. Hãy nghe ta nói! Con trai đang bị xiềng xích trong lòng đất mẹ chờ chết.”
“Sao bà lại biết chứ,” tôi dịu dàng hỏi, “khi mà bà là một linh hồn bị trói buộc vào chốn này.”
Bà bắt đầu khóc khe khẽ và ánh sáng nhòa đi. Nhưng, ngay khi tôi tưởng bà đã đi hẳn, cột sáng lại thêm chói lòa và bà khóc lớn, giọng run rẩy:
“Ta nghe thấy điều ấy trong tiếng tru của con chó đang hấp hối; ta đọc được điều ấy trong tiếng rì rào của đám sậy ngoài đầm lầy; ta ngửi thấy điều ấy trong những giọt nước nhỏ giọt từ chiếc bánh xe gãy. Chúng nói chuyện với ta và giờ đây ta nói lại với cậu. Hãy cứu lấy con ta trước khi quá muộn. Chỉ có cậu mới làm được. Chỉ có cậu mới đương đầu nổi với quyền năng của Quỷ Vương!”
Và rồi, trong tích tắc, cột sáng biến thành một người phụ nữ. Bà đang mặc chiếc váy mùa hè màu xanh lơ, tay xách theo làn đầy những đóa hoa mùa xuân. Bà mỉm cười với tôi và hương hoa đột nhiên tràn ngập khắp phòng. Đấy là một nụ cười ấm áp nhưng hai mắt bà lại long lanh những lệ.
Thoắt cái bà biến mất. Tôi rùng mình và quay trở xuống bếp, mãi nghĩ đến những lời vừa rồi. Liệu hồn ma mẹ ông Arkwright có nói đúng không? Ông vẫn còn sống à? Dường như không có khả năng lắm. Dấu máu nọ dẫn thẳng tới mép hồ và ông đã mất cả ủng lẫn trượng kia mà. Lũ phù thủy hẳn đã lôi ông ấy xuống nước. Chắc chắn chúng đã thừa cơ kết liễu ông ấy ngay trong lúc đấy chứ nhỉ? Dù sao thì, ông đã là kẻ thù của chúng từ rất lâu rồi, cũng đã tiêu diệt biết bao nhiêu đồng bọn của chúng.
Còn về hồn ma đáng thương kia, chắc là bà ấy chỉ đang quẫn trí. Chuyện này đôi khi cũng xảy ra cho những linh hồn bị trói buộc vào dương thế. Lý lẽ phải trái trong họ đã tiêu tán. Ký ức vụn vỡ và trở nên xơ xác te tua.
Lòng ngổn ngang rúng động, tôi nghĩ về tình hình lúc bấy giờ. Tôi cho là mụ Morwena và lũ phù thủy sẽ chưa đến đây đâu. Khi chúng đến, hy vọng con mương sẽ kìm chân chúng lại – nhưng được bao lâu chứ? Nếu may mắn, Alice và Thầy Trừ Tà sẽ có mặt trước lúc ấy. Kề vai sát cánh bên nhau, chúng tôi có thể tiêu diệt Morwena vĩnh viễn. Đương nhiên tôi biết là một mình tôi không có khả năng làm nổi chuyện này. Sau đó chúng tôi sẽ quay về Chipenden, bỏ lại sau lưng cái chốn đầy sông, suối và đầm lầy khủng khiếp này. Tôi hy vọng Thầy Trừ Tà không quá tức giận vì việc Alice sử dụng gương. Chắc thầy phải thấy việc ấy là chính đáng chứ nhỉ?
Tôi vừa cầm sách lên đọc thì nghe thấy tiếng chuông vọng xa xa. Tôi dỏng tai lên nghe: chập sau, tiếng chuông lặp lại. Khi chuông ngân lên lần thứ năm và cũng là lần cuối cùng, tôi biết là ông Gilbert đang ở dưới kênh và đến giao hàng.
Hẳn ông ấy thường rung chuông khi Arkwright vắng nhà vì công việc. Nếu tôi cứ ở lì trong cối xay, chắc ông ấy sẽ tiếp tục đi xuôi dòng kênh, nghĩ rằng lần sau đi ngang qua sẽ ghé lại. Nhưng ông Gilbert chưa biết ông Arkwright đã chết, và vì Gilbert có vẻ thật tình thích ông Arkwright, nên tôi thấy mình phải có bổn phận thông báo tin buồn cho ông biết. Dù sao thì cũng khá là an toàn mà. Mụ Morwena hẳn là còn cách đây hàng bao nhiêu dặm, trong khi tôi có thể vui lên khi được trông thấy một gương mặt thân thiện.
Thế là, tay mang theo trượng, tôi cất bước đi xuống dòng kênh. Hôm ấy là một buổi chiều rực rỡ với mặt trời đang tỏa sáng. Ông Gilbert đang xuôi về phía nam và chiếc sà lan đang neo bên bờ kia con kênh. Trông thuyền như chìm thật sâu dưới nước, cho thấy thuyền chất nặng hàng hóa. Có ai đó đang chải lông cho mấy con ngựa. Là một cô gái trạc tuổi tôi, mái tóc vàng óng ánh dưới ánh mặt trời – chắc là con gái ông Gilblert. Ông đang đứng trên đường xe kéo vẫy vẫy tay với tôi và chỉ vào cây cầu gần nhất, cách chừng trăm thước về phía bắc. Tôi băng qua cầu rồi đi đến sà lan.
Đến gần hơn, tôi thấy người chở sà lan đang cầm một phong thư. Ông nhướng mày. “Có chuyện gì không ổn à?” Ông hỏi. “Cậu trông bí xị thế Tom. Không phải Bill đang hành hạ cậu ra trò đấy chứ?”
Chẳng có cách nào dễ dàng để giải thích những chuyện vừa xảy ra nên tôi nói thẳng, “Cháu có tin xấu đây ạ, ông Arkwright đã chết. Ông bị mụ thủy phù thủy trên vịnh bắc sát hại. Có lẽ giờ chúng đang truy đuổi cháu, nên bác nhớ cẩn thận khi đi trên sông nước nhé. Ai mà biết chúng sẽ xuất hiện ở đâu và khi nào chứ.”
Ông Gilbert sững sờ. “Đúng là ai mà biết được!” Ông thốt lên. “Quả là một nghề kinh khủng. Mọi người sẽ rất tiếc thương Bill, còn tôi thì thấy lo cho Hạt khi Bill đã ra đi như thế.”
Tôi gật đầu. Ông Gilbert nói phải. Sẽ chẳng có ai thay thế ông Arkwright. Những người có năng lực trong nghề của chúng tôi còn ít ỏi lắm. Khu vực miền bắc thành phố Caster sẽ trở nên nguy hiểm hơn nhiều. Đây đúng là một chiến thắng mang ý nghĩa lớn lao cho thế lực bóng tối.
Thở dài tiếc nuối, ông Gilbert đưa tôi phong thư. “Thư của thầy Gregory,” ông lặng lẽ bảo. “Thầy đưa cho tôi tại Caster lúc sáng.”
Thư đề gửi cho tôi bằng nét chữ viết tay. Để đến được Caster nhanh như thế, hẳn thầy tôi và Alice đã băng qua rặng đồi đá gần như ngay lập tức và đi thâu đêm như tôi. Nghĩ đến đấy, tôi nhẹ cả người. Nhưng sao Thầy Trừ Tà không đi tiếp đến thẳng cối xay? Lẽ ra thầy đã có thể đi nhờ sà lan – mặc dù bấy giờ sà lan đang neo ở bờ kênh bên kia, như thể nó vừa từ phương bắc xuống chứ không phải từ Caster lên vậy. Rồi tôi nhận ra ắt là ông Gilbert đã đưa mấy chú ngựa vòng theo đường cầu sang bờ bên này để bây giờ ông xuôi về nam. Tôi xé mở phong thư và đọc:
Bảo Arkwright thôi hướng dẫn con vài ngày. Ông Gilbert sẽ mang con đến Caster an toàn, ta chờ con tại đấy. Chuyện này vô cùng cấp bách. Ngay trung tâm thành phố, gần con kênh, ta đã tìm thấy thứ vô cùng hữu dụng cho cuộc chiến chống lại thế lực bóng tối của thầy trò ta. Thứ này liên quan trực tiếp đến con đấy.
Thầy của con
John Gregory
Thầy Trừ Tà dường như không biết Bill đã chết, nên, hoặc là Alice chưa nói cho thầy, hoặc vì lý do nào đấy mà thầy vờ tỏ ra như bình thường. Và vì thầy đã không đến thẳng cối xay đối phó với Morwena, tôi liền hiểu thứ được tìm thấy ở Caster phải rất đặc biệt.
“Cậu lên thuyền đi,” ông Gilbert bảo, “à, trước hết tôi muốn cậu gặp một người. Con trai tôi bận ở nhà làm việc nhà, còn con gái tôi đang đi cùng tôi đây. Con gái, lại đây nào, lại mà gặp cậu Tom này,” ông gọi lớn.
Cô gái dừng chải mà ngẩng lên. Chẳng buồn quay lại, cô giơ tay vẫy vẫy, chẳng tỏ vẻ gì là muốn làm theo lời bố cả.
“Con bé nhút nhát lắm,” ông Gilbert nhận xét. “Cứ để nó như thế đi. Chắc chắn chốc nữa nó sẽ lấy được can đảm và trò chuyện với cậu thôi.”
Tôi ngập ngừng. Để Vuốt lại cối xay chắc không sao – bây giờ nó có thể tự bảo vệ được mình. Tôi cũng yên tâm khi phải bỏ lại túi đồ, nhưng với món quý giá nhất cất trong túi đó thì không – là sợi xích bạc. Ai mà biết thầy trò tôi sẽ đối mặt với thứ gì ở Caster kia chứ? Sợi xích là một món vũ khí lợi hại nếu đương đầu với thế lực bóng tối – nhất là lũ phù thủy – nên tôi không muốn xa rời nó.
“Cháu cần quay lại cối xay lấy đồ đã,” tôi bảo ông Gilbert.
Ông cau mày, lắc đầu. “Chúng ta không có thời gian. Thầy cậu đang chờ và chúng ta phải đến Caster trước khi trời tối.”
“Sao bác không khởi hành đi, rồi cháu sẽ đuổi theo bác.”
Tôi có thể khẳng định là ông Gilbert không thích như vậy, nhưng những gì tôi vừa đề nghị là hoàn toàn hợp lý. Vì phải kéo theo sà lan nặng nề, mấy chú ngựa thường nhẩn nha nhẩn nhơ với tốc độ tương đối chậm. Tôi sẽ bắt kịp, đi ké thuyền và nghỉ ngơi suốt chặng hành trình còn lại.
Tôi lễ phép mỉm cười với ông Gilbert rồi co giò chạy đi. Loáng sau tôi đã băng qua cầu và phóng như bay dọc theo bờ sông về phía cối xay. Khi bước vào bếp, tôi choáng hết cả người. Alice đang ngồi trên ghế gần bếp lò, Vuốt ở cạnh bên, thoải mái gác mõm lên mũi giày nhọn của cô.
Alice ngước lên, mỉm cười với tôi và vỗ về đầu con Vuốt. “Con này sắp sinh con,” Alice bảo. “Tớ đoán là hai đứa đấy.”
Tôi mỉm cười đáp lại cô bạn, vừa mừng vừa an tâm khi gặp lại cô. “Nếu là thế thì con bố đã chết rồi,” tôi nói, nụ cười vụt biến mất. “Mụ Morwena đã giết nó cũng như chủ của nó. Tình hình xấu lắm, Alice à. Vô cùng xấu. Cậu không biết là tớ mừng thế nào khi gặp cậu đâu. Nhưng sao cậu không ở Caster với Thầy Trừ Tà vậy?”
“Caster à? Tớ chẳng biết chuyện ấy. Lão Gregory đã đi Pendle hơn một tuần trước. Ông ấy bảo là đến tháp Malkin. Ông sẽ tìm trong mấy cái rương của mẹ cậu để xem chúng có chứa thông tin gì về Quỷ Vương hay không. Khi tớ trò chuyện với cậu qua gương thì ông ấy vẫn chưa về, nên tớ để lại lời nhắn cho ông ấy rồi đi đến đây. Tớ biết là cậu cần trợ giúp gấp.”
Tôi hoang mang, đưa cho Alice lá thư của Thầy Trừ Tà. Cô đọc qua thật mau rồi nhìn lên, gật gù. “Cũng phải đấy,” cô nói. “Rất có khả năng Lão Gregory đã tìm thấy thứ quan trọng nên vội từ Pendle đi thẳng đến Caster. Thế thì ông ấy chưa biết chuyện ông Arkwright, phải không nào? Ông ấy chỉ gửi tin nhắn đến cối xay kêu cậu khởi hành.”
“Sém chút cậu đã không gặp được tớ rồi, Alice à. Lúc này ông Gilbert đang chờ tớ. Tớ chỉ quay về lấy sợi xích bạc thôi.”
“Ôi Tom!” Alice đứng lên đi về phía tôi, vẻ mặt lo lắng. “Tai cậu sao thế? Trông đau lắm đấy! Tớ có thứ giúp ích được đây...” Alice cho tay vào túi thảo dược.
“Không cần đâu Alice, lúc này nào có thời gian và thầy thuốc bảo là sẽ không sao. Đấy là chỗ mụ Morwena móc vuốt vào để lôi tớ xuống vũng lầy. Con Vuốt đã cứu mạng tớ. Không có nó thì tớ đã tiêu tùng.”
Tôi mở túi đồ lấy sợi xích ra, quấn xích ngang eo, giấu dưới lớp áo choàng. “Tại sao cậu không đi theo dòng kênh từ Caster để đến đây? Đấy là đường ngắn nhất.”
“Không đâu,” Alice đáp. “Nếu cậu hiểu rõ thì đấy không phải là đường ngắn nhất. Trước tớ có bảo tớ rành nơi này mà, đúng không? Một năm trước khi gặp cậu, Lizzie Xương Xẩu có mang tớ lên đây và chúng tớ ở lại ven đầm lầy cho đến khi ông Arkwright từ một trong những chuyến hành trình quay trở về, thế là bọn tớ phải đi chỗ khác. Mà thôi, tớ rành khu đầm lầy ấy như lòng bàn tay mình vậy.”
“Tớ cho là ông Gilbert sẽ không nề hà gì nếu cậu đi cùng. Nhưng chắc ông ấy đã khởi hành rồi và bọn mình phải đuổi theo thôi.”
Khi Vuốt theo chúng tôi ra vườn, Alice lắc đầu. “Để nó đi cùng chúng ta đến Caster không hay đâu. Thành phố không phải là nơi dành cho chó. Tốt hơn nó nên ở lại đây, nơi nó có thể sống dựa vào mảnh đất này.”
Tôi đồng ý, tuy nhiên, Vuốt hoàn toàn bỏ ngoài tai lệnh ”ở lại đây” của Alice, cứ lững thững đi theo chúng tôi mãi cho đến lối mòn cạnh con suối.
“Cậu bảo nó đi Tom. Có lẽ nó sẽ nghe lời cậu. Dù sao thì giờ nó là chó của cậu mà!”
Của tôi ư? Tôi đã không nghĩ đến điều này. Tôi không thể tưởng tượng ra là Thầy Trừ Tà lại muốn có một con chó ở cùng chúng tôi tại Chipenden. Dù vậy, tôi vẫn quỳ bên cạnh Vuốt mà vỗ vỗ đầu nó.
“Mày ở lại nhé! Ở lại!” Tôi ra lệnh. “Bọn tao sẽ sớm quay về.”
Vuốt rên rỉ rồi đảo tròn mắt. Cách đây chưa lâu tôi còn sợ nó phát khiếp, thế mà giờ tôi lại thấy buồn khi phải bỏ nó lại. Nhưng tôi nào có nói dối. Trên đường đi xử lý mụ Morwena, chúng tôi sẽ quay lại đây.
Ngạc nhiên làm sao, Vuốt nghe lời tôi mà dừng lại bên lối mòn. Chúng tôi chạy chầm chậm ra đến dòng kênh. Sà lan vẫn còn chờ đấy.
“Con bé kia là ai vậy?” Khi chúng tôi đi về phía cầu, Alice hỏi.
“Là con gái của ông Gilbert. Cô ấy nhút nhát lắm.”
“Tớ chưa bao giờ thấy con nhỏ nào nhút nhát mà lại có màu tóc như thế,” giọng Alice có chút cay độc.
Thật ra tôi cũng chưa từng gặp cô gái nào có màu tóc ấn tượng như con gái ông Gilbert. Trông sáng rực và sống động hơn tóc của chị Ellie, vợ anh Jack nhiều, mà tôi thì luôn nghĩ tóc chị ấy đẹp vô cùng. Nhưng trong khi tóc chị Ellie mang màu rơm loại thượng hạng được gặt ba ngày sau một mùa vụ bội thu, mái tóc này lại có màu vàng kim đặc biệt, giờ đang bừng sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời.
Cô gái vẫn đang chải lông cho ngựa và chắc là thấy thoải mái khi làm việc này hơn là phải trò chuyện với người lạ. Có những người như thế đấy. Bố tôi từng kể có lần ông làm việc với một nhân công nông trại chẳng thèm đoái hoài gì đến người ta nhưng lại suốt ngày trò chuyện với thú vật.
“Thế cô bé này là ai?” Khi chúng tôi bước lên sà lan, ông Gilbert hỏi.
“Đây là Alice ạ,” tôi giới thiệu. “Cô ấy ở cùng thầy trò cháu tại Chipenden và chép lại những cuốn sách của Thầy Trừ Tà. Cô ấy đi cùng chúng ta trên sà lan được không ạ?”
“Có sao đâu nào,” ông Gilbert mỉm cười, mắt liếc xuống đôi giày mũi nhọn của Alice.
Chốc lát sau, cả hai chúng tôi đã lên thuyền, con gái của người chở sà lan không đi đến chỗ chúng tôi. Việc của cô ấy là dẫn mấy chú ngựa xuống đường xe kéo trong khi bố cô nghỉ xả hơi trên sà lan.
Bấy giờ đã là xế trưa, nhưng thật thư thái làm sao khi được lướt theo dòng kênh đi về Caster trong ánh nắng chiều. Tuy vậy, ý nghĩ phải đi vào thành phố ấy làm tôi linh tính thấy có lắm điềm gở. Trước nay thầy trò tôi luôn tránh xa Caster vì nguy cơ bị bắt và cầm tù trong lâu đài. Tôi thắc mắc chẳng biết thầy mình đã tìm ra thứ gì mà quan trọng đến vậy.