← Quay lại trang sách

Chương 17 ĐUỔI BẮT

Mặt trời vừa ló dạng là tôi chuẩn bị lên đường. Tiền trọ đã được thanh toán trước cho ba ngày, bao gồm cả tiền phòng lẫn suất ăn sáng. Nhưng tôi sẽ không liều mình ló mặt xuống lầu. Sẽ có bao câu hỏi đặt ra về sự biến mất của thầy tôi; biết đâu chủ quán hay khách hàng của ông cùng hội cùng thuyền với mụ Morwena thì sao. Tôi không thể mạo hiểm bất cứ chuyện gì. Thế là, mang theo trượng cùng túi đồ, tôi lẻn ra khỏi cửa sau, chẳng mấy chốc đã đi băng băng về hướng nam.

Đường đi ngắn và dễ nhất là qua bờ tây của Hồ Coniston. Tôi tránh xa hồ này, phòng trường hợp mụ Morwena hay bất cứ thủy phù thủy nào đang theo đuôi mình. Nhưng đến xế trưa, khi tôi đã bỏ khá xa điểm cực nam của hồ, tôi mới bắt đầu nghi ngờ mình quả thật đang bị bám theo.

Sau lưng tôi có những tiếng động khẽ khàng nhưng rất đáng ngờ: vài âm thanh xào xạc thảng hoặc trong bụi cây lùn hay có lần là tiếng cành khô gãy răng rắc từ xa. Thoạt tiên thật khó mà đoan chắc, vì khi tôi dừng chân, vạn vật im lặng như tờ. Ngay khi tôi tiếp tục cất bước, những tiếng động ấy lại tiếp tục, và dần dà đi thêm vài dặm nữa thì âm thanh nọ dường như đuổi sát theo tôi. Đến lúc này, tôi chắc chắn là mình đang bị rình rập. Ánh sáng ban ngày đang nhạt dần, còn tôi thì không thích thú gì cái viễn cảnh bị săn đuổi trong bóng tối. Thế là, khi tim đang đập dồn, tôi đặt túi đồ xuống, nhấn bật mũi dao trên đầu trượng ra và quay lại đối diện với kẻ theo đuôi. Tôi căng thẳng chờ đợi, toàn thân cứng ngắc, mọi giác quan cảnh giác, nhưng không phải là một mụ phù thủy từ đám cây cối rậm rạp gần tôi bước ra. Mà là Vuốt.

Vuốt rên ư ử, đi đến nằm phục dưới chân tôi, đầu nó hầu như gác lên giày trái của tôi. Nhẹ cả người, tôi thở hắt ra và cúi xuống vỗ về đầu con chó. Tôi thật sự thấy vui khi gặp lại Vuốt. Đã có quá nhiều chuyện xảy ra khi tôi vì hoảng sợ mà quay lưng lại với nó. Nếu tôi đang bị đám phù thủy truy đuổi, thì giờ đây tôi đã có một đồng minh đắc lực.

“Ngoan lắm!” Tôi dịu dàng bảo rồi quay đi, bước nhanh hết sức, Vuốt theo sát gót. Trực giác mách bảo tôi vẫn còn gặp nguy hiểm. Trở lại cối xay sớm chừng nào hay chừng ấy, nhưng tôi nên đưa ra một quyết định. Tôi có thể đi theo con đường xa hơn ở phía đông, dọc theo bờ vịnh uốn cong, nhưng như vậy sẽ cho phép bất cứ kẻ nào đang đuổi theo vượt mặt hay thậm chí là đón đầu tôi. Một cách khác là băng qua vùng bãi cát nguy hiểm. Như thế là ta phải chờ thủy triều, người hướng dẫn và phí phạm thời gian, có lẽ còn cho mụ Morwena cơ hội đuổi kịp. Thật là một lựa chọn khó khăn, nhưng cuối cùng tôi nghiêng về phương án vượt qua bãi cát.

Dù đã kiệt sức, tôi vẫn ép mình đi cả đêm. Men theo vùng đất thấp, tôi băng qua mạn tây mấy ngọn đồi, nơi chúng tôi từng trú lại với vị ẩn sĩ, rồi chẳng bao lâu sau lại buộc phải leo ngược lên đồi. Cuối cùng, tôi bắt đầu đi xuống dốc về phía vịnh. Biển lớn xa xa lóng lánh dưới ánh trăng. Nước triều dường như còn cách xa lắm, nhưng liệu băng qua có an toàn không nhỉ?

Tôi sẽ phải chờ cho đến bình minh, rồi thử tìm người hướng dẫn. Không biết là ông ấy sống ở đâu, nhưng tôi chỉ hy vọng ông sống bên này chứ không phải bờ bên kia vịnh. Tôi dừng lại trên mỏm một vách đá thấp, nhìn ra bãi cát phẳng lì trải dài trước mặt. Ở phía đông, ánh sáng tím nhạt từ đường chân trời hé lộ rạng đông, nhưng cũng còn hơn cả giờ mới tới bình minh.

Con Vuốt nằm duỗi ra trên nền cỏ đọng sương bên cạnh tôi, dường như nó không được thoải mái. Hai tai nó ép sát vào đầu và nó liên tục gầm gừ khe khẽ trong họng. Cuối cùng nó cũng bình tĩnh lại và im tiếng. Đầu tôi cứ gật gà gật gù, nhưng mỗi lần như thế tôi lại giật mình thức dậy, cảnh giác với nguy hiểm. Chuyến đi bộ dài dặc đã làm tôi kiệt sức, và chẳng ý thức được gì, tôi dần dà chìm vào một giấc ngủ tối đen, không mộng mị.

Chắc tôi thiếp đi chưa tới ba mươi phút khi tiếng gầm gừ khe khẽ của con Vuốt cùng hàm răng đang nhay cắn quần tôi của nó đánh thức tôi dậy. Bầu trời đã sáng sủa hơn nhiều và một cơn gió mạnh từ ngoài vịnh đang thổi vào. Tôi ngửi thấy mùi mưa đang kéo đến. Qua khóe mắt, tôi nghĩ mình vừa trông thấy thứ gì đó động đậy. Tôi ngước nhìn lên đồi. Thoạt đầu tôi không thấy gì cả, nhưng tóc gáy tôi bắt đầu dựng lên và ngay lập tức tôi cảm nhận được nguy hiểm. Sau khi nhìn chăm chăm chừng một phút, rốt cuộc tôi cũng nhận ra một bóng người đang di chuyển xuống sườn đồi về phía tôi, ẩn mình trong bóng những rặng cây. Con Vuốt lại gầm gừ. Là Morwena chăng?

Tôi đứng lên, tay siết chặt trượng. Một chập sau, tôi dám chắc là mình đang quan sát một thủy phù thủy tiến đến. Cái cách mụ ta bước đi, thân mình cứ cuộn tới trông thật kỳ quặc, có lẽ là do những ngón chân có màng và vuốt tạo ra. Mụ ta là thứ sinh vật phù hợp với nước và sình lầy hơn là mặt đất thô cứng trên sườn dốc đầy cỏ. Nhưng đấy có phải là Morwena hay là một thủy phù thủy kém nguy hiểm hơn? Giờ mụ ta đã đến gần hơn nhiều nhưng vẫn còn khó để phân biệt rõ ràng.

Tôi có nên đương đầu với mụ ta không? Hiện tại tôi có cả trượng lẫn xích bạc. Theo lý thuyết thì một trong hai thứ này là đã đủ để đối phó với một thủy phù thủy bình thường. Nhưng thật ra bọn chúng có thể di chuyển rất nhanh. Nếu tôi để mụ tiếp cận quá gần, mụ sẽ dùng ngón tay móc lấy tôi. Tuy tôi giỏi sử dụng xích bạc nhưng cây cột để thực hành trong vườn nhà Thầy Trừ Tà không thấm thía gì với người thật việc thật. Tôi từng đối mặt với Grimalkin, mụ phù thủy sát thủ, và đã tấn công hụt – chắc là vì sợ, vì căng thẳng lẫn kiệt sức. Lúc này tôi cũng đang rất mệt, còn nỗi lo sợ thì đang dần dà tích tụ lại trong tôi.

Nếu sử dụng xích thất bại, tôi phải dùng trượng giữ cho mụ ta tránh xa, tuy nhiên, tôi chỉ có một cơ hội. Nếu hụt, tôi cần để mắt canh chừng. Liệu con Vuốt có thử giúp tôi không nhỉ? Con chó chắc chắn là gan dạ và trung thành, nhưng tôi nhớ lại chuyện đã xảy ra cho bạn của nó, con Răng.

Tôi sẽ không hoàn thành nhiệm vụ nếu để một mụ phù thủy lang thang đây đó. Lỡ mụ ta bắt người khác vì tôi đã thất bại thì sao? Nếu là một đứa bé thì sao? Không được, dứt khoát tôi phải đối mặt với mụ ta.

Mụ phù thủy còn cách chừng năm mươi bước thì tôi lại đổi ý. Bản mặt mụ ta không còn ẩn trong bóng râm nữa và tôi có thể thấy con mắt trái đang nhắm tịt. Tôi cũng thấy luôn cả mảnh xương gắn hai mi mắt lại với nhau. Là Morwena! Một khi mụ ta mở con mắt máu ra thì tôi sẽ bị tê liệt, sẽ hóa đá, sẽ vô dụng.

Con Vuốt gầm lên cảnh báo nhưng đã quá muộn. Mụ phù thủy đưa tay lên mắt trái rút mảnh xương ra. Huyết nhãn mở to, chiếu thẳng vào tôi. Tôi đã thua mất rồi. Tôi cảm thấy sức lực trên người đang tiêu hao; ý chí di chuyển rời bỏ tâm trí. Tất cả những gì tôi nhìn thấy là con mắt đỏ quạch đang mỗi lúc một to và sáng rực lên.

Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng gầm rồi một cú đánh mạnh trúng lưng làm tôi ngã sóng soài. Bị xô té sấp, tôi đập trán xuống đất. Sững sờ trong chốc lát, nhưng rồi tôi cảm nhận được hơi thở âm ấm và con Vuốt bắt đầu liếm mặt tôi. Tôi với tay phải lên vỗ về con chó, nhận ra mình đã có thể cử động. Ngay lập tức tôi hiểu ra. Con Vuốt không bị quyền năng của mụ phù thủy khống chế. Huyết nhãn của Morwena trong một lúc chỉ có khả năng tấn công một người hay một con vật mà thôi. Vuốt đã nhảy bổ vào tôi, xô tôi ngã xuống, phá vỡ bùa yểm từ con mắt đỏ quạch.

Tôi nhanh nhẹn đứng lên, mắt cụp xuống. Tôi nghe thấy tiếng bước chân mụ phù thủy loạt soạt trên nền đất khi mụ ta lao thục mạng từ sườn đồi về phía tôi. Đừng nhìn mụ ta! Tôi tự nhủ, ánh mắt dán xuống mặt đất. Nhìn bất cứ chỗ nào cũng được, trừ con mắt đầy máu ấy ra!

Chớp mắt tôi đã phóng đi, bỏ lại mụ phù thủy và lao về hướng bờ biển, Vuốt chạy sát theo sau. Sợi xích bạc vẫn được tôi túm chặt bên tay trái, nhưng làm sao tôi có thể dùng đến xích đây, khi mà chỉ cần liếc một cái vào kẻ thù là tôi sẽ đứng chôn chân tại chỗ? Hai chân tôi run rẩy – chắc chắn tôi không đủ nhanh để thoát khỏi tay mụ ta rồi. Tôi muốn nhìn ra sau và kiểm tra xem mụ ta tới gần đến đâu, nhưng lại không dám vì e sợ con mắt. Bất cứ lúc nào tôi cũng cho là những móng vuốt của mụ phù thủy sẽ xuyên qua gáy hay đâm vào họng mình.

“Vuốt!” Khi nhảy xuống bãi cát, tôi gào lên. Với con chó đang hào hển bên cạnh, từng bước chạy của tôi mỗi lúc một yên lòng hơn. Lúc này chúng tôi đã an toàn. Tôi biết Morwena không chịu được chất muối do nước triều phủ lên bãi cát. Chân trần thì không thể bước đi trên đấy. Nhưng chúng tôi ở ngoài này được bao lâu đây? Mụ ta sẽ theo dõi và chờ đợi cho đến khi chúng tôi thử rời khỏi bãi cát. Mà tôi sẽ làm gì khi nước triều tràn vào chứ?

Dù tôi có tránh được mụ ta và vượt qua bãi cát thành công, tôi biết mụ Morwena sẽ theo mình đến tận cối xay. Tôi thì mệt lả đi rồi nhưng tôi biết một phù thủy mạnh như Morwena sẽ không bao giờ mệt. Đi dọc ven vịnh với mụ ta lẽo đẽo theo sau, và có thể là những phù thủy khác đang nằm phục đâu đó trên suốt hành trình, chắc chắn sẽ là một sai lầm.

Giá mà người hướng dẫn đi trên cát có mặt ở đây và dẫn đường cho tôi băng qua. Tuy nhiên, chẳng thấy bóng dáng ông ấy đâu. Biển trông còn mãi tít ở xa, nhưng tôi chẳng có cách nào nhận định liệu băng qua bãi cát lúc này có an toàn không. Ông Arkwright từng bảo cho tôi biết những đợt triều tràn vào nguy hiểm đến mức nào. Những người đi ngang bị chết chìm; cỗ xe, khách đi xe cùng ngựa kéo bị nước cuốn đi, không bao giờ còn nhìn thấy nữa.

Nếu không nhờ con Vuốt, hẳn tôi đã phải ngồi run lẩy bẩy tại đấy hàng giờ đồng hồ. Đột nhiên nó phóng ra phía biển, đoạn quay lại và sủa lên. Tôi ngớ ra, nhìn chăm chăm vào Vuốt; nó chạy về bên tôi rồi lại chạy ra xa theo cùng một hướng ban nãy, như thể nó muốn tôi đi theo. Tôi vẫn do dự, nhưng lần thứ ba quay lại, Vuốt ngoạm lấy quần tôi mà thô bạo lôi đi, sém chút kéo tôi ngã. Nó gầm gừ rồi lại phóng ra xa.

Lần này tôi đi theo nó. Cũng có lý lắm chứ, tôi tự nhủ. Hẳn Vuốt đã cùng ông chủ của mình băng qua nơi này lắm lần nên nó biết đường. Tôi nên tin tưởng vào bản năng của nó mà đi theo thôi. Có lẽ nếu người hướng dẫn vừa mới khởi hành thì Vuốt sẽ đưa tôi đến chỗ ông đang đợi.

Tôi bước thật nhanh, hướng về phía đông nam. Bầu trời mau chóng hửng sáng. Nếu tôi băng qua được dải cát và đến cối xay an toàn, con mương đầy muối sẽ ngăn mụ Morwena cùng đồng bọn ở bên ngoài. Không chỉ thế, mụ ta sẽ phải đi đường vòng thật xa mới đến cối xay nhà ông Arkwright, và mụ phải mất ít nhất một ngày. Đến lúc ấy, nếu may mắn thì Thầy Trừ Tà và Alice chắc đã đến nơi. Thầy tôi sẽ biết cách tốt nhất để đánh bại mụ.

Khi tôi và Vuốt đến lòng sông Kent, trời đổ mưa và sương mù dày đặc đang tràn xuống. Đường mương dưới kia dường như đầy nước nhưng không thể nhận biết nước sâu đến đâu nếu không dùng trượng của tôi mà thử. Tuy nhiên, con Vuốt lại có vẻ biết mình đang làm gì, nó chạy lên hướng bắc, song song với bờ vịnh. Chúng tôi men theo lòng sông cho đến khi lòng sông uốn cong. Đến đấy, Vuốt sủa lên, chạy xuống sườn dốc và bơi thẳng qua bên kia. Độ mười lăm mười sáu sải từ bờ này sang bờ kia thôi. Tay giơ cao túi đồ, tôi dùng trượng đo thử mực nước trước khi cẩn thận bước từng sải. Nước lạnh cóng, nhưng phần sâu nhất chỉ lên đến đùi nên chẳng mấy chốc tôi đã sang đến bờ bên kia.

Bấy giờ, đã vững dạ, tôi lúp xúp chạy theo sau con Vuốt. Trời đang gió lộng và mưa từ phía tay trái tôi quất mạnh hơn. Biển ở đâu đó bên tay phải. Tôi nghe thấy những con sóng từ xa xô vào, nhưng tầm nhìn đang mỗi phút một kém làm tôi không thể nhìn xa hơn vài chục mét.

Tôi tiếp tục bước đi. Sương mù ngoài biển trở dày hơn, tôi bắt đầu thấy mình mỗi lúc một thêm biệt lập. Mất bao nhiêu dặm nữa mới đến lòng sông thứ hai nhỉ? Tôi tự an ủi mình với ý nghĩ rằng, một khi đã băng qua lòng sông thứ hai ấy, chỉ chừng một giờ đồng hồ là đến bờ Hest lẫn nơi an toàn. Chúng tôi cứ bước mãi bước mãi và tôi dần mất ý niệm về thời gian. Lúc nãy gió thổi từ bên trái đến, giờ hình như đã đổi hướng, tạt mưa sầm sập vào lưng tôi. Hay chính chúng tôi đã đổi hướng? Tôi không sao phân biệt được. Dù có nhìn đi đâu, tôi chỉ thấy mỗi một bức tường sương mù xám xịt, nhưng tôi chắc chắn là tiếng sóng biển đang mỗi lúc một lớn. Lỡ chúng tôi đang đi thẳng ra biển thì sao?

Chúng tôi đã đi lạc chăng? Đúng là tôi sợ mụ phù thủy thật đấy, nhưng trong cơn cùng quẫn muốn chạy thoát, liệu tôi có đặt quá nhiều lòng tin vào con Vuốt không? Ngay cả nếu nó có khả năng dẫn chúng tôi đến bờ bên kia, tại sao tôi lại tin nó hiểu biết về thủy triều cơ chứ? Tôi cảm thấy hình như nước triều đã tràn vào, nhưng lúc này đã muộn để tôi lần bước ngược lại. Nước biển sẽ nhanh chóng đổ vào hai lòng sông khiến tôi bị cô lập – mực nước sâu sẽ làm tôi không thể lội qua, còn dòng chảy chắc chắn sẽ cuốn tôi đi mất.

Khi bắt đầu mất hết hy vọng, tôi nhìn xuống cát dưới chân và trông thấy thứ khiến tôi phục hồi lòng tin vào con Vuốt. Trên cát là dấu vó ngựa và hai đường song song do bánh xe của cỗ xe ngựa vừa mới tạo ra. Tôi không trông thấy cỗ xe khởi hành nhưng hình như chúng tôi đang đuổi kịp nó. Chúng tôi đang theo bước người dẫn đường! Cuối cùng thì con Vuốt cũng dẫn tôi đi đúng hướng.

Tuy vậy, khi đến lòng sông thứ hai, tôi lại tuyệt vọng. Nước dưới sông trông rất sâu, dòng chảy lại mạnh, cuồn cuộn từ phải qua trái. Thủy triều đang nhanh chóng tiến vào.

Một lần nữa con Vuốt men theo ven bờ một lúc, lần này là phía bên phải. Tôi thấy lo lắng vì tôi biết chắc lối đó sẽ dẫn chúng tôi ra gần biển hơn. Không lâu sau, Vuốt lao mình xuống nước và bơi qua bên kia. Tôi leo xuống như lúc nãy và lội qua. Lần này khoảng cách có ngắn hơn – chắc chỉ chừng mười sải – nhưng mới bước xuống ba bước thì nước đã ngập đến eo tôi rồi. Thêm hai bước nữa là ngập gần ngang ngực, dòng chảy ào ạt bắt đầu kéo tôi đi. Tôi vật vã, hai chân lún vào cát mềm dưới đáy sông, cố sức giữ cho túi đồ không chạm nước.

Ngay lúc nước dâng đến cổ và tưởng là mình sẽ bị cuốn đi, tôi tìm thấy nền đất cao hơn. Thêm vài sải nữa, tôi trồi lên khỏi mặt nước và trèo đến bờ an toàn. Nhưng vụ thử thách cam go này của tôi chưa kết thúc. Nước triều giờ đây đang ồ ạt ùa vào bãi cát phẳng. Sương mù đã tản nên tôi có thể trông thấy bờ, nhưng hình như còn cách xa tít tắp. Đợt sóng đầu tiên ùa vào liếm qua ủng tôi; đợt thứ hai nước đã dâng lên mắt cá. Loáng cái con Vuốt đã phải bơi bơi và mực nước lại dâng đến eo tôi. Nếu phải bơi thì tôi sẽ đánh mất túi đồ và thanh trượng, trong đấy còn có sợi xích bạc nữa.

Tôi vội vã chạy lên. Cuối cùng, thật kỳ diệu làm sao, tôi đến được rìa vịnh và đổ nhào lên bờ, hồng hộc thở, tứ chi run bắn vì kiệt sức và hãi sợ.

Tôi nghe Vuốt sủa một tiếng cảnh báo nên nhìn lên và trông thấy một người đàn ông cầm trượng đang đứng sờ sờ trước mặt. Trong giây lát, tôi ngỡ đấy là một kẻ trừ tà, sau mới nhận ra là ông Sam Jennings, người hướng dẫn đi trên cát.

“Cậu điên quá rồi, cậu nhỏ!” Ông quát. “Điều gì khiến cậu băng qua đây lúc muộn thế này mà không có người hướng dẫn hử? Tôi đã dẫn một cỗ xe ngựa sang trước lúc bình minh ló dạng từ lâu. Một con ngựa bị trật chân nên chúng tôi chỉ sang đến bờ sát nút thôi đấy.”

“Cháu xin lỗi ạ!” Tôi loạng choạng đứng dậy. ”Nhưng cháu đang bị đuổi bắt. Cháu không có lựa chọn nào khác.”

“Xin lỗi ư? Đừng phí thời gian ở đó mà xin lỗi tôi. Hãy nghĩ đến gia đình mà cậu bỏ lại để khóc thương cho cậu – người mẹ đáng thương bị mất đứa con trai kia kìa. Kẻ nào đang đuổi bắt cậu chứ?”

Tôi không đáp. Tôi đã biện minh đủ rồi.

Ông Jenning nhìn tôi từ đầu đến chân, cảnh giác liếc sang túi đồ và thanh trượng. “Cho dù có là Ác Quỷ đang dí theo cậu, thì cậu cũng vừa làm một việc khinh suất đấy, cậu nhóc. Bill có nói ông ấy đã cảnh báo cậu về những hiểm nguy của nơi này. Ông ấy đã cùng tôi vượt qua bãi cát lắm lần, đến mức tôi không nhớ nổi. Tại sao cậu không chịu nghe lời?”

Tôi chẳng nói gì.

“Mà thôi, cứ mong là cậu đã học được bài học rồi đi,” ông nói tiếp. “Này, căn chòi tôi ở cũng không xa đây mấy. Hãy ghé qua mà hong cho khô người. Chắc vợ tôi sẽ tìm được chút thức ăn nóng sốt giúp cậu ấm lên thôi.”

“Cảm ơn ông đã mời ạ, nhưng cháu phải quay về cối xay đây.”

“Thế thì đi đi cậu bé. Nhưng hãy nghĩ cho kỹ nhé. Nhớ những lời tôi vừa nói với cậu. Đã có quá nhiều người chết chìm ngoài bãi cát. Cậu đừng biến mình thành một trong số ấy!”

Tôi cất bước, người run lập cập trong bộ quần áo ướt nhẹp, lạnh ngắt. Ít ra tôi còn nhanh hơn mụ phù thủy được một ngày, và nếu may mắn nữa thì Alice và Thầy Trừ Tà sẽ sớm tìm đến tôi. Tôi không kể cho người dẫn đường nghe rằng ông Arkwright đã chết vì chuyện này liên quan quá nhiều đến công việc của kẻ trừ tà. Tôi có cảm giác rồi người ta sẽ tiếc thương cho ông Arkwright lắm. Dù từng phạm bao nhiêu lỗi lầm đi nữa, ông ấy cũng đã làm tốt việc bảo vệ những người ở miền bắc Hạt. Người dân biết và tôn trọng ông như một thành viên của cộng đồng ấy.

Tôi vừa trải qua một lần chạm trán đầy cam go với biển cả, ấy vậy mà vùng đất ẩm ướt miền bắc này vẫn chưa hết chuyện với tôi. Vì cố tiết kiệm thời gian, thay vì đi thẳng đến dòng kênh và men theo đấy đi xuống cối xay, tôi lại thử một lối ngắn hơn từ phía bắc. Tôi đi men Hồ Bé, thẳng đến lối mòn lần đầu tiên mình đối mặt với Morwena. Tôi tưởng mình đã tránh xa hẳn vũng lầy, nhưng tôi đã lầm. Lúc nãy tôi còn vui vẻ lội ì ộp, thoắt cái chiếc ủng bên phải liền chìm xuống đất mềm.

Tôi càng vùng vẫy thì càng lún sâu hơn, đống bùn nhão mau chóng ngập lên giữa ống quyển. Tôi bắt đầu phát hoảng rồi hít vào một hơi sâu để trấn tĩnh. Chân kia của tôi chưa lún sâu lắm và ắt là còn đứng trên đất rắn. Thế là, tì hết cơ thể lên thanh trượng, tôi chậm rãi lôi chân phải ra khỏi sình. Sau một tiếng bóc thật lớn, chiếc ủng tuột khỏi chân tôi, làm tôi sém chút mất thăng bằng.

Sau đấy tôi thận trọng hơn nhiều trong việc nên đặt chân vào đâu. Việc này khiến tôi chợt nhận ra vùng đầm lầy có thể nguy hiểm đến mức nào. Cuối cùng, tôi cũng đến được lối mòn và nhanh chân bước về hướng cối xay.