← Quay lại trang sách

Chương 3 Chủ nhật. NGÀY 30 THÁNG 6

Chương 3

chủ nhật. ngày 30 tháng 6

iên giới qua cửa khẩu núi Chief sang Mỹ không dễ dàng như Randy Mucklowe mong muốn. Sáng nay, lúc 8 giờ 10 phút, có hai nhân viên Mỹ mặc đồng phục đã kiểm tra rất kỹ chiếc xe tải Chevy nhỏ màu kem của anh. Mọi việc diễn ra bình thường khi họ tiến hành thẩm vấn, một thủ tục đã quá quen thuộc với Randy vì anh từng qua lại biên giới nhiều lần và nó thường chỉ mất vài phút. Cửa khẩu núi Chief là cửa khẩu nằm trên một trong những tuyến biên giới dài nhất thế giới mà không có lực lượng quốc phòng canh giữ. Nó nằm trên tuyến đường xe buýt du lịch mùa hè nối từ hồ waterton của Ganada đến khu Công viên Hòa bình Quốc tế Glacier của Mỹ. Chạy dọc hai bên con đường dài trải nhựa là cánh rừng thông và linh sam bạt ngàn. Trạm kiểm soát biên giới của hai nước Mỹ và Canada được bao quanh bởi các mỏm đá nhô ra từ dãy núi Rocky. Nhân viên bảo vệ người Mỹ yêu cầu Randy xuất trình giấy phép lái xe khi anh đưa xe vào kiểm tra. Bằng một thứ giọng khô khan đơn điệu, anh ta hỏi về mục đích chuyến đi của Randy. Randy trình bày mình đang hoàn thiện những bước cuối cùng để chuẩn bị cho cuộc khai quật trên vùng đất của người Anh - điêng. Hố khai quật nằm ở vùng đá pha sét phía tây bắc của núi Chief. Ngay lập tức họ yêu cầu Randy xuất trình các loại giấy tờ theo qui định.

"Việc này đã được Hội đồng cấp cao bố trí và cho phép, thưa ông," Randy giải thích.

Nhưng người lính gác lưỡng lự. Anh ta cười xã giao rồi đi về phía một người lính khác đang đứng trong trụ sở. Người kia bước ra ngoài, hai người thì thầm bàn bạc ngắn gọn với nhau, xem qua giấy tờ của Randy và tiếp tục kiểm tra chiếc xe tải.

"Chúng tôi muốn xem dụng cụ khai quật của ông, thưa giáo sư," một người lính giải thích. "Luật của người Anh - điêng chỉ cho phép một số loại xẻng và cuốc được sử dụng trên phần đất của họ."

Randy thở dài rồi buộc phải đồng ý. Anh miễn cưỡng tháo chiếc lốp dự phòng phía sau xe xuống và giúp hai người lính mở tấm vải bạt đựng mấy cái xẻng, sàng và lưới thép. Hai người vừa bàn bạc với nhau về tờ giấy có các con số và biểu đồ, vừa nhìn kỹ tấm lưới rồi nhấc xẻng và sàng lên để xem xét. Randy biết luật của Liên bang buộc họ phải kiểm tra tất cả những người Canada nhập cảnh vào Mỹ để làm việc trên vùng đất của người Anh - điêng. Biết vậy nhưng anh vẫn thở dài. Điều này chắc chắn sẽ gây phiền hà cho những kế hoạch mới của anh. Nhưng bây giờ phải gạt mối lo ấy sang một bên đã.

"Cảm ơn ông," một người lính nói. "Chúng tôi cần kiểm tra trên máy tinh. Nó không mất nhiều thời gian đâu."

Randy bắt đầu chất lại đồ lên xe.

"Chào buổi sáng, ngài giáo sư !" Một giọng nói vang lên từ phía sau.

Randy ngoái lại nhìn, một người phụ nữ tóc vàng cao gầy đang sải bước tiến lại phía anh. Cô ta mặc áo sơ-mi màu nâu, một chiếc kẹp hình lá cây gỗ thích màu đỏ sáng rực nơi ve áo. Chiếc mũ trên đầu cho thấy cô thuộc lực lượng cảnh sát bảo vệ biên giới Canada. Cô đi ra từ trạm kiểm soát biên giới bên Canada.

"Chào Margie !"

"Những người đàn ông ở đây đang gây khó dễ cho anh à?"

"Ồ, cô biết rồi đấy. Cô thế nào?"

"Tôi vẫn ổn. Hè này anh lại đi khai quật một điểm mới à?"

"Vâng. Một điểm mới ở núi Chief. Một chuyến khai quật truy tìm những điều thần bí. Chắc phải mất một tuần. Tôi hy vọng việc đi lại không mất nhiều thời gian. Tôi đã mời ba sinh viên cùng làm việc với mình."

"Anh đang tìm kiếm cái gì?"

"Sọ người, đồ tùy táng, và cúng tế. Các bộ tộc đã sinh sống ở đây hơn ba trăm năm qua. Viện bảo tàng Browning rất hứng thú với các Cổ vật đó nếu chúng tôi tìm được. Chúng tôi luôn muốn được khai quật tại núi Chief, nhưng giới cầm quyền tại Browning chưa cho phép."

"Trông anh rất phong độ đấy, Randy ạ. Anh và Connie chắc vẫn ổn chứ?"

Randy ngập ngừng rồi quyết định không nói ra sự thực. Margie không cần phải biết về những gì xảy ra giữa anh và Connie, về vụ ly dị và về...

"Chúng tôi vẫn ổn. Sao dạo này cửa khẩu kiểm tra chặt chẽ thế? Trước đây tôi thấy đơn giản thôi mà."

"Là do bọn buôn thuốc phiện và buôn lậu đồ cổ đấy. Mùa thu năm ngoái vừa xảy ra một vụ ăn trộm mặt nạ của người Anh - điêng ở Missoula. Nhiều khả năng cổ vật ấy vẫn còn trôi nổi ở trong nước. Chúng tôi đã tổ chức kiểm tra nghiêm ngặt tại các cửa khẩu dọc biên giới, nhưng vẫn chưa tìm thấy chúng. Có thông tin cho biết, chúng sẽ được vận chuyển qua khu vực này hoặc xa hơn về phía đông. Nhưng đợt này chẳng có mấy xe cộ qua đây, ngoại trừ những chiếc xe du lịch chuyên dụng và xe buýt có trang bị radio làm nhiễu âm từ Glacier đi qua."

"Cô sẽ thấy tôi qua lại đây trong vài ngày tới. Cô thường làm ca nào vậy?"

"Tôi thường làm ca tối. Nhưng sáng nay sếp yêu cầu tôi làm thêm vì lượng phương tiện lưu thông qua đây có thể sẽ tăng do đang là kỳ nghỉ cuối tuần."

"Cô có cần tôi đưa trước danh sách các sinh viên sẽ đi cùng vào lần sau không? Tôi có một bản ở đây này."

Randy lấy chiếc ca-táp từ trong xe và rút ra một tờ giấy có tên ba sinh viên: Justiri Moore, Cara Simonds và David Home. Những giấy tờ khác bao gồm hộ chiếu, thẻ sinh viên của họ và giấy phép khai quật khảo cổ.

'Tôi nhận nó bây giờ cũng được, thưa giáo sư, nhưng sẽ không có ngoại lệ đâu nhé. Chúng tôi vẫn phải kiểm tra khi đoàn của anh ra vào cửa khẩu. Khi chúng tôi đã biết rõ anh là ai và những việc anh đang làm, anh sẽ được về nước dễ dàng."

"Cảm ơn Margie. Giờ tôi phải tiếp tục lên đường thôi vì một tiếng nữa tôi có hẹn với một người đến từ Browning tên là Sam Heavy Hand, rồi lại phải trở về trường để hoàn thành mấy việc nữa."

Margie mỉm cười, nhận các giấy tờ từ Randy và trở lại trạm gác bên Canada. Randy đóng ca-táp lại rồi cất vào trong xe. Đúng lúc ấy hai người lính Mỹ xuất hiện, họ đưa cho Randy giấy phép và bảo anh được tự do đi qua cửa khẩu.

"Cảm ơn các ông," Randy nói. Anh biết rằng tỏ ra lịch sự và nhún nhường với những người đàn ông này sẽ khiến họ tin tưởng mình hơn.

Randy vừa nhanh chóng buộc lại dụng cụ gọn gàng vừa suy nghĩ về những gì anh sẽ phải nói với Sam. Anh sẽ kể lại những chuyện xảy ra tại cửa khẩu để Sam hiểu được các khó khăn mà họ đang vấp phải. Randy muốn Sam tin tưởng mình, nhất là lúc này, khi anh đang có những kế hoạch mà Sam không hề biết.

Đến 8 giờ 30 phút, Randy tiếp tục lên đường. Anh lái xe từ phía nam đến xứ Babb thuộc Montana. Mệt mỏi rã rời nhưng đầu óc anh cứ lởn vởn về sự việc vừa xảy ra tại biên giới và câu chuyện mất trộm mặt nạ của người Anh - điêng mà Margie vừa kể. Anh và Sam đã đúng, nằm im giấu mình hàng năm trời quả nhiên là một ý kiến hay. Nhưng Randy vẫn cảm thấy lo lắng. Nếu lính gác biên giới Canada vẫn thường xuyên kiểm tra kỹ lưỡng mỗi khi anh trở về khu hồ Waterton sau một ngày đào bới thì sao? Trong kế hoạch, anh đã không tính đến tình huống này.

Lái xe đi trong ánh nắng đầu ngày dịu nhẹ, Randy cố nghĩ về những điều tốt đẹp. Anh là một giáo sư khảo cổ học, hoạt động trong lĩnh vực này đã được mười tám năm. Giới chuyên môn đánh giá rất cao về khả năng của anh. Được khai quật các vùng đất ở chân đồi Porcupine và những vùng đồi khác gần dãy núi Rockky là niềm vui, cũng là đam mê của Randy. Một năm trước, anh đã đăng bài báo thứ mười lăm của mình về vùng đất Kootenay thời tiền sử. Trước đó, tên tuổi Randy cũng đã nổi như cồn khi anh tiến hành khai quật bãi nhốt trâu và khu cắm lều của người Blackfoot, đồng thời giải mã được bí ẩn của những vòng đá Ti-pi ("Tipi ring" là những vòng đá được xếp bên ngoài những chiếc lều da hình nón của thọ dân châu Mĩ. Vòng đá típi cổ nhất được tìm thấy có tới 5000 năm tuổi). Anh đã sở hữu những đầu mũi tên bằng đá vỏ chai (Đá vỏ chai: tên khoa học là đá opxidian, là một loại đá có kiến trúc thuỷ tinh, đưọc hình thành khi dung nham núi lửa bị làm nguội quá nhanh) và những bùa hộ mệnh quý giá, không những thế, Randy còn là một trong số ít người trong giới định vị được con đường Flathead Pàss huyền thoại - con đường mòn được tạo ra bởi những thổ dân từ hàng ngàn năm trước. Giờ đây, lái xe trên con đường trải nhựa lấp lánh ánh nắng, Randy tự hỏi liệu danh tiếng của mình có giá trị gì chăng, tại sao lại đem cả sự nghiệp của đời mình đặt cược vào một việc quá ư mạo hiểm? Tự dẫn mình đến Montana để bàn công chuyện ở một nơi tù mù như xứ Babb? Điều đó chẳng khác gì một dãy nhà xiêu vẹo nằm cạnh đường cao tốc, chưa biết lúc nào sẽ đổ sụp. Thậm chí, ngay cả khi hình ảnh Sheree Lynn ùa về trong tâm trí, Randy cũng không thấy lòng thanh thản. Cô ấy rất yêu và tôn trọng anh, nhưng Randy luôn nhắc nhở mình phải cảnh giác. Không bao giờ được nói với đàn bà mọi thứ - đó là nguyên tắc. Sheree không bao giờ nghĩ đến kế hoạch mà anh đang được thực hiện. Liệu cô có đáng tin tưởng không? Trong hai mươi bốn giờ qua Sheree đã làm rất tốt, nhưng tại sao cô ấy lại ôm gã thanh tra kiêu ngạo đó? Chắc chắn Sheree không thể gạt mình được. Tên thám tử chết tiệt này nghi ngờ cô ấy vì chểnh mảng mà thằng bé kia phải chết. Hãy thả lỏng, thả lỏng đi nào. Randy cảm thấy bực bội khi máu ghen nổi lên. Nếu quá xúc động, Sheree Lynn có thể sẽ làm hỏng kế hoạch. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, mình và cô ấy sẽ nhanh chóng rời khỏi cái Ngôi nhà của quỷ Sa tăng hôi hám đó. Randy cười tự mãn. Anh biết mình đang trên bờ vực thẳm, nhưng chẳng bao lâu nữa, sau vụ này, mối lo tiền bạc chắc chắn sẽ tiêu tan. Vậy còn Darren Riegert? Hình ảnh xác chết lạnh ngắt treo lơ lửng trong tầng hầm tối tăm bẩn thỉu cứ chập chờn trong đầu Randy. Anh cố gạt nó đi. "Cho nó xuống địa ngục luôn đi," anh tự nhủ.

Randy tiếp tục cho xe chạy. Trên những, đồng cỏ hoang chạy dọc theo con đường trải nhựa, thỉnh thoảng từng bầy chim sáo và họa mi đỏ bay vụt lên rồi lại nhẹ nhàng sà xuống đậu trên các lùm cây liễu lá hình trái tim. Mấy con chuột đồng lao như tên bắn qua đường chẳng may bị xe của Randy cán chết. Sam Heavy Hand chắc sẽ nói với anh rằng chúng chết là một điều tốt, bởi lũ diều hâu sẽ có thức ăn cho những đứa con của chúng.

Rẽ xuống phía nam của con đường, Randy chợt có cảm giác lạnh gai người, giống như điềm báo của một sự chết chóc. Cuối cùng Randy cũng nhìn thấy xứ Babb hiện ra trước mặt, anh cho xe vào bãi đỗ, tắt máy và khóa cửa xe lại. Không khí ấm áp, mùi nhựa thông thoang thoảng quanh Randy khi anh bước vào quán rượu Horseshoe, lúc đó đã gần 9 giờ kém 5 phút. Anh gọi một ly Coor Light và kéo ghế ngồi xuống, uống một hơi thứ nước mát lạnh, anh phân vân có nên gọi thêm một bao thuốc lá Malboro không. Sam Heavy Hand vẫn đến muộn như thường lệ. Liệu anh ta có mang theo những thứ đó không, hay họ sẽ lại cãi nhau một trận như lần trước? Trên bờ vực thẳm. Chẳng còn nơi nào để đi, chẳng thể làm được gì ngoài một cuộc khai quật với sinh viên, và nếu anh đi nước cờ đúng thì... có lẽ... Randy chỉ nghĩ được tới đó. Anh chợt nhớ đến lời bà ngoại thường nói: "Đừng cố viết sẵn tiểu sử đời cháu, hãy để nó tự diễn ra. Và khi nó xảy ra rồi thì cháu hãy thay đổi nó cho phù hợp." Randy đã viết lại cuộc đời mình không chỉ một lần. Anh đã mất vợ, mất nhà. Anh còn bị bắt vì "ghi nhầm mục" cổ vật trong lần khai quật ở sông Belly hai năm trước. Vụ đó đã đặt dấu chấm hết cho mối quan hệ của anh với viện bảo tàng Glenbow nổi tiếng ở Calgary, cái nơi mà tên tuổi anh từng được khắc lên đĩa bạch kim. Randy là người tận tuy với công việc, nhưng anh cũng mạo hiểm đánh cược với nó không ít lần. Cuộc đời đã mang lại cho Randy kha khá kẻ thù. Nhưng anh chắc chắn là mình không bao giờ mong muốn phải trả nợ ngân hàng trong vòng hai mươi năm tới và tranh cãi suốt đời với người vợ cũ.

Randy ngả người trên chiếc ghế và chợt nhận ra Sam Heavy Hand đang tiến lại phía mình qua làn khói thuốc mù mịt. Tham lam và nóng nảy là nét tính cách đặc trưng của Sam. Gã quen với Randy từ nhiều năm nay. Trước đây, Randy rất ngưỡng mộ tình cảm của Sam dành cho thế giới bên ngoài, gã tin vào những thành viên của bộ tộc mình và vào quá khứ huy hoàng đã mất của họ. Nhưng từ khi Sam đến Montana làm thuê cho bà chị Rita, cuộc sống đã làm gã thay đổi hoàn toàn. Sam nghiện rượu, trộm cắp và là một con bạc khát nước. Tất cả những gì gã muốn là tiền. Khi đã có tiền, gã chỉ quan tâm đến những khẩu súng trường, đến chiếc xe bán tải và tới Las Vegas đánh bạc.

"Anh sẵn sàng chưa?"

Giọng Sam khàn đục. Gã đội một chiếc mũ cao bồi mới, mặc bộ đồ jean hiệu Lévis. Randy đứng dậy trả tiền đồ uống, gật đầu chào người phục vụ rồi theo Sam ra ngoài. Chiếc xe Ford màu xanh của Sam đang đỗ trên đường, một cái chăn nhỏ vứt trên chỗ nằm trong cabin, con chó săn già tên Crow của gã đang ngủ trên đó. Sam mở cửa xe và lôi ra một va-li lớn bằng vải. Gã đóng cửa lại rồi ra hiệu cho Randy đi theo. Randy đợi một chút trưởc khi bám theo phía sau, đề phòng trường hợp có bất kỳ ai - một đứa trẻ, một cô gái làm tiền hoặc một sĩ quan cảnh sát có thể theo dõi họ từ xa.

Randy bước một mình, nhẩm lại những lời định nói với Sam trong óc. Anh nheo mắt dưới ánh nắng mặt trời khi theo Sam leo lên ngọn đồi trồng toàn cây dương và cây bu-lô. Rồi họ rẽ xuống chỗ nhánh sông chảy ngang qua đám đá cuội xanh lấp lánh.

Ngồi dưới tán cây bu-lô, Sam lấy ra một chiếc chìa khoá từ túi áo bò và cẩn thận mở va-li. Randy cúi xuống quan sát một cách hồi hộp.

Nắp va-li bật mở, bên trong lấp lánh những đôi mắt bằng vàng và đôi môi bằng ngọc quý. Mỗi chiếc mặt nạ chỉ to bằng bàn tay người lớn. Chúng dẹt như chiếc đĩa với những chi tiết được chạm nổi rất đặc trưng. Dường như chúng được làm ra để phục vụ những nghi lễ cúng tế của người Anh - điêng. Randy cầm một chiếc lên ngắm nghía say sưa. Nó nhẹ như tờ giấy và vẫn đẹp lung linh như lần đầu anh nhìn thấy vào tháng mười năm ngoái.

"Anh hài lòng chứ? Tôi sẽ mang hàng đến núi Chief chỗ anh khai quật đúng như chúng ta đã thoả thuận. Hẹn gặp anh ở đó sau bữa trưa. Sau đó, ngay tối nay chúng ta sẽ đưa hàng qua biên giới bằng xe của anh. Anh và những sinh viên sẽ cùng hộ tống chúng qua biên giới, đó là một vỏ bọc ngụy trang rất tốt, phải không? Ai dám nghi ngờ một giáo sư danh tiếng nhỉ? Sẽ không ai kiểm tra xe anh đâu. Xe tôi sẽ đi sau, anh đồng ý chứ?"

“Sai !",Tôi vừa đi qua cửa khẩu sáng nay, lính gác Mỹ kiểm tra giấy tờ và xe rất kỹ, không bỏ sót một chi tiết nào. Họ còn yêu cầu tôi phải dỡ đồ ra để kiểm tra nữa."

"Vậy là tốt rồi. Họ đã kiểm tra một lần. Vậy thì còn gì đáng lo nữa?"

Randy thở dài và cố gắng kiên nhẫn.

"Chúng ta nên đợi một vài ngày nữa để họ quen với sự đi lại của tôi."

"Không, chết tiệt. Cách đó chẳng giải quyết được vấn đề gì, có khác gì bây giờ đâu. Cửa khẩu núi Chief khá thông thoáng: Luôn luôn là như thế. Anh muốn hoãn việc này lại, anh muốn..!",

"Tôi muốn nó trót lọt, thế thôi. Chúng ta đã thống nhất với nhau là phải cẩn thận. Chính anh đã nói phải nằm im chờ thời cơ thuận lợi. Nếu không, chúng ta đã mang chúng đi từ mùa thu năm ngoái."

"Với hàng đoàn lính gác liên bang đuổi theo ngay sau lưng chúng ta ư? Anh và thằng đối tác chết tiệt của anh đã làm chậm việc. Chính anh đã gặp hắn và hắn đã đề nghị ta cho thêm một thời gian để gom đủ tiền mặt. Thế mà cũng gọi là buôn bán à? Nó là loại buôn bán kiểu gì thế?"

"Sam, anh không biết gì cả, hãy câm miệng lại. Robert Lau là người đáng tin tưởng, hãy tin tôi."

"Tin tưởng là một từ khó khăn, Randy." Sam đứng dậy châm một điếu thuốc.

Randy không thích Sam những lúc như thế này. Cũng như hai lần trước, Sam luôn muốn thay đổi mọi thứ đã sắp đặt. Đầu tiên gã muốn hưởng phần hơn trong tỷ lệ ăn chia. Sau đó lại muốn bán số mặt nạ này cho một tên buôn đồ cổ người địa phương với giá chỉ bằng một phần ba giá mà Lau đã trả. Randy biết mình phải thay đổi kế hoạch. Tại sao phải tin tưởng Sam? Sam dụi điếu thuốc đang hút dở và ngồi xuống. Randy biết gã đã sẵn sàng đưa ra quyết định của mình.

"Tôi sẽ đi cùng anh, thậm chí ra tận bờ biển với anh để đảm bảo tôi có thể lấy đủ phần của mình."

"Cái gì?"

"Bốn mươi, sáu mươi. Sáu mươi phần trăm cho tôi vì tôi đã đánh cắp chúng. Bốn mươi phần trăm cho anh vì anh đã sắp xếp vụ mua bán này,"

"Được, và một mình tôi sẽ ra điểm hẹn để giao hàng như thỏa thuận trước đây. Chỉ một mình tôi thôi."

"Thằng Sam già này không ngu dốt đâu Randy. Cả anh và tôi đều cần tiền. Tôi muốn chắc chắn có được phần của mình."

"Không đâu, Sam." Randy nói rồi bước vào một lùm cây, đứng im lặng một lúc, hai tay chống hông.

"Nghe này," anh quay lại. "Tôi đã tin tưởng anh trong sáu tháng qua, chấp nhận để anh giữ những chiếc mặt nạ này. Bây giờ hãy để tôi đem chúng đi bán và mang tiền về. Nếu anh đi cùng thì Lau sẽ hoảng sợ và không giao dịch nữa. Lau là một thằng hay quan trọng hóa vấn đề, nó không thích bị người thứ ba giám sát."

"Kệ mẹ nó thích gì thì thích. Tôi cứ đi. Tôi có thể ngủ trong xe tại waterton và sẽ đóng vai người hướng dẫn các sinh viên của anh tiến hành khai quật. Tôi biết nơi đó, người dân bộ tộc tôi yêu mến vùng đất này và chẳng ai nghi ngờ khi thấy tôi muốn bảo vệ nó. Những chiếc mặt nạ sẽ được giấu trong ca-bin xe của anh. Vào ngày thứ bảy, chúng ta sẽ chuồn ra bờ biển trao hàng nhận tiền rồi hôn tạm biệt Lau. Sau đó chúng ta sẽ về nhà và sống cuộc đời giàu có."

"Hoặc là tôi đi một mình, hoặc là chuyện này chấm dứt ở đây, không mua bán gì nữa !"

Sam bật lên một tràng cười khô khốc.

"Đừng đùa với tôi, Randy. Anh đang khao khát chiếm sạch những vật đáng yêu bằng vàng này. Nghe đây, chúng ta sẽ cùng đi, anh gặp Lau tại hành lang một khách sạn chẳng hạn, và nói anh cần giao dịch ở một chỗ thoáng đãng hơn. Tôi sẽ theo dõi cả hai để không có việc bất trắc quái quỷ nào xảy ra. Vậy là có một cuộc mua bán tốt đẹp chứ gì?"

Randy định thuyết phục thêm lần nữa, nhưng Sam đã đứng lên đóng va-li lại.

"Tôi sẽ giữ chúng. Tôi đã lấy cắp chúng, nếu bị bắt, tôi sẽ phải vào tù. Còn anh vẫn tiếp tục sự nghiệp của mình với những bài báo về khai quật. Công bằng đấy chứ ! Mà tôi đoán có khi anh còn bỏ trốn với số tiền của tôi nữa cơ."

Randy biết mình đã bị Sam dồn vào chân tường.

"Thôi được, tôi đồng ý. Nhưng anh giải thích xem ta sẽ đưa hàng qua biên giới bằng cách nào khi mà anh cứ khư khư giữ chúng?"

"Đơn giản thôi. Tôi sẽ mang chúng đến điểm khai quật ở Montana và làm như tôi đã nói."

"Được rồi. Nhưng vì Chúa anh đừng thay đổi như lần trước. Anh cứ đến nhưng một hai ngày sau hãy xuất hiện, tôi vẫn phụ trách nhóm sinh viên khai quật bình thường. Tôi không muốn xảy ra bất cứ một sự cố nào đáng tiếc chỉ vì anh say rượu hay vì anh là người Anh - điêng.".

"Đó là vùng đất của những người thổ dân, anh bạn thân mến ạ. Giờ cả hai ta đều là thổ dân rồi. Anh không nên quên điều đó."

Randy nhận thấy mặt Sam đỏ bừng vì giận dữ.

"Chúng ta hãy xem xét lại lần nữa những việc cần làm nhé"

"Được rồi. Tôi sẽ đến địa điểm khai quật. Công việc đào bới của các anh cứ tiến hành bình thường. Chúng ta đang ở trên vùng đất thiêng, vì thế không được nói tục, không hút thuốc lá, nhớ đấy ! Tôi cũng chỉ uống một chút bia thôi. Trong khi anh làm việc, tôi sẽ giấu những chiếc mặt nạ trên xe bằng cách gói chúng trong túi đựng rác màu đen rồi cho vào lốp xe dự phòng. Các sinh viên sẽ nghĩ tôi là, hê hê, một người đàn ông tử tế. Cuối cùng, chúng ta sẽ lái xe đến cửa khẩu, đừng quá coi trọng bọn lính gác, chúng nhìn ngó xem xét nhưng chúng làm gì được ta nào? Một cái lốp dự phòng, có gì đâu nhỉ? Qua biên giới sang đất Canada, thoát khỏi Montana, mổ ca-bin ra, thế là chúng ta có một món hời lớn."

"Tôi thấy chưa yên tâm, Sam ạ."

"Rồi anh sẽ thấy yên tâm thôi."

Billy thức dậy lúc sáu rưỡi sáng và đi bộ cho khỏe người. Bỗng chuông điện thoại đổ từng hồi, ông vội băng qua mảnh sân đã nhú lên mấy mầm cỏ dại, bước qua hành lang mở bung cửa và nhấc ống nghe lên.

"Là tôi đây, anh bạn."

"Butch à?"

"Đúng. Tôi cần gặp anh ngay. Tôi lái xe đến nông trang rộng lớn của anh để tán gẫu chút nhé !"

"Nghe có vẻ được đấy. Tôi cảm giác có điều gì đó đã xảy ra."

"Đúng, mấy việc chết tiệt đang làm tôi rất điên đầu."

"Khi nào anh đến? Tôi sẽ làm bánh quế đãi anh."

"Tôi sẽ phóng hết tốc độ cho phép."

Billy đang pha cà phê thì thấy xe tuần tra của Butch đến. Tiếng chim sáo hót vang ngoài khoảng sân rộng. Sau bữa điểm tâm, khi mặt trời kéo những vệt nắng dài trên những mô đất trước nhà, Butch trao đổi với Billy toàn bộ câu chuyện đã xảy ra.

"Chúng tôi chưa xác định thủ phạm là ai. Lợi dụng đêm tối, kẻ gian nhảy qua cửa sổ đột nhập vào phòng ngủ của cô Sheree Lynn, lục lọi và lấy đi một số đồ đạc. Tôi nghi ngờ gã "tóc đuôi ngựa" Woody. Hắn là một kẻ sẵn sàng gây chuyện và không mấy lịch sự khi nói về Sheree Lynn."

"Thượng sỹ Royce không nhận diện được hắn à?"

"Hắn trùm khăn che kín mặt. Còn Royce thì bị thâm tím một bên mắt."

"Sao vậy?"

"Anh ta bị một cái đĩa ném vào người khi đang rượt đuổi tên trộm."

"Có ai nhìn thấy một người đàn ông trùm khăn chạy ra phố không?"

"Đến bây giờ chưa có một thông tin gì cả."

Hai người ra khỏi nhà và lên xe tuần tra. Họ cho xe chạy về hướng Lethbridge. Trên đường đi, Butch rút một chiếc điện thoại trong túi áo đưa cho Billy. "Đây là món quà tòa thị chính dành riêng cho anh."

Billy cầm chiếc điện thoại và gọi thử cho Dodd: "Chào buổi sáng, Dodd. Tôi muốn anh qua nhà Randy Mucklowe, đón cả anh ta và cô Bird rồi cho họ biết tin về vụ đột nhập. Tôi cần biết cô ấy mất những gì. Đó có thể là đầu mối giúp cho việc điều tra. Sau đó anh nghiên cứu kỹ hồ sơ về Keeler nhé. Ừ, Woody. À này, hôm qua hắn có khai báo gì không? Hãy tìm kiếm tên trộm, tìm kiếm những dữ liệu liên quan đến bọn người sống lang thang và kiểm tra hồ sơ của những người từng bị bắt giữ trong vòng mười năm trở lại đây nữa."

Butch vòng xe vào làn đường tốc độ cao chạy dọc theo thung lũng sông Belly. Sau hai mươi lăm phút, họ đến địa phận thành phố Lethbridge. Xe chạy qua con sông Oldman, qua công viên Indian Batrle nơi những con chim diệc đang bay lượn trên những ngọn dương, rồi dừng lại trước Ngôi nhà của quỷ Sa tăng trên đường Ashmead. Dodd và Sheree đang đứng đợi trước bậc thềm.

"Chào buổi sáng, cô Bird." Billy nói rồi tiến tới bắt tay Sheree Lynn.

"Sáng nay Randy đã tới Montana, thưa ông thanh tra. Anh ấy đang bắt đầu kế hoạch khai quật." Nét mặt Sheree Lynn có vẻ buồn rầu.

"Chúng tôi xin lỗi vì phải mời cô về đây vào một ngày chủ nhật đẹp trời như thế này," Butch nói và mở cửa chính.

"Ôi, lạy Chúa." Sheree Lynn nói và đưa tay che miệng khi nhìn thấy đồ đạc bị lục tung trong phòng ngủ của mình.

Tình huống này làm Billy hơi lung túng.

"Xin lỗi cô, chúng tôi đã cử người canh gác, thượng sỹ Royce đã luôn có mặt ở đây, nhưng rất tiếc..."

"Không vấn đề gì đâu."

"Bây giờ cô hãy bình tĩnh kiếm tra xem bị mất những gì?" Billy nói.

Cảnh sát viên Gloria Johnson đang đứng cạnh bàn trang điểm của Sheree thu thập dấu vết và dấu vân tay.

"Xin chào !", cô nói.

Chiếc giường bị kéo ra. Một cái giá nến bị vỡ nằm trên sàn nhà gần cửa sổ. Bàn chải và nước hoa bị vứt tung toé trên sàn. Một mảnh kính vỡ nằm ngay sát cửa ra vào.

"Tôi không thể nói chính xác thứ gì đã bị lấy đi," Sheree Lynn nói với Butch và bước ra gần cửa. "Có thể chỉ mất một cuốn sách hoặc một cái bàn chải."

"Đã có khách hàng nào của cô ở Trung tâm dịch vụ gia đình làm những điều tương tự như thế này chưa, cô Sheree?" Billy hỏi.

"Chưa."

"Cô có nghi ngờ ai không?"

"Ồ, tôi chỉ có thể đoán thôi. Có lẽ là mấy ông bố bà mẹ - mẹ của Cody chẳng hạn - bà ta từng nói tôi đang âm mưu đánh cắp lũ trẻ nhà họ. Ai biết bà ta sẽ làm gì?"

"Tôi vẫn chưa tìm được dấu vân tay nào, thưa ông thanh tra." John nói.

"Thế nên chúng ta chỉ có thể phỏng đoán." Billy nói thêm.

Sheree Lynn nhún vai nói: "Chẳng sao đâu thưa ông, dù sao thì người này cũng không hại ai cả." Nói rồi cô bắt đầu ôm mặt khóc.

Billy lấy khăn giấy từ trong túi đưa cho cô.

"Cảm ơn ông!", Sheree thổn thức.

Billy xuống tầng dưới kiểm tra cửa sổ phía sau, nơi kẻ trộm đã đột nhập vào ngôi nhà. Sau đó ông đi về phía những bậc thềm ngoài hành lang và quỳ xuống xem xét.

Sheree Lynn cũng đi xuống và hỏi: "Có gì ở đó không thưa ông thanh tra?"

Billy giơ tay lên cao: "Gọi Butch đến đây giúp tôi đi Sheree !".

Butch cầm trên tay chiếc túi ni-lon đã mở sẵn vội vã đi đến.

"Anh tìm thấy gì thế, Billy?"

Billy gắp sợi dây chun cao su màu đỏ cho vào trong túi rồi dùng tay vuốt miệng túi lại.

"Có lẽ phải gọi Woody đến thẩm vấn ngay trong sáng nay," Butch nói.

"Việc điều tra này sẽ mất nhiều thời gian đúng không?" Sheree Lynn lo lắng hỏi.

Billy đáp, giọng nói không giấu nổi sự thất vọng: "Tôi cho cô biết điều này: việc điều tra tiến hành chậm chừng nào thì càng khó ghép nối các sự việc lại với nhau chừng đó. Những thông tin mà chúng tôi có được sau một ngày thẩm vấn chỉ là cuộc điện thoại cô nhận được vào sáng hôm qua từ một người có thể biết được thủ phạm hay ít ra có liên quan tới cái chết của Darren Riegent. Chúng tôi vẫn đang thiếu những đầu mối và nhân chứng."

Billy vốn hiểu quá rõ rằng hiện trường là nơi lưu giữ những dấu vết trọng yếu để điều tra. Nó là chứng cứ để truy tố tội phạm, để tổng hợp các đầu mối nhằm xác định một cách lôgic về động cơ, thời gian và phương thức gây án. Billy cũng rất ít khi để lộ những tình tiết điều tra cho những người vốn đang bị tình nghi. Nhưng rồi ông nhận thấy rằng, nếu cố tình hé ra một số thông tin có thể sẽ mang lại hiệu quả nhất định cho công tác phá án - có thể là một dấu vết, một thái độ phản ứng, thậm chí là sự để lộ những cách đối phó của họ trong tương lai.

Billy để ý thấy Sheree Lynn chớp chớp mắt như thể đang phải chịu một con đau bất ngờ.

'Thưa ngài thanh tra, tôi rất mệt mỏi và không muốn dính vào mớ bòng bong này nữa. Tôi hy vọng các ông sớm kết thúc vụ án để Darren Riegert và Cody Schow có thể yên nghỉ."

"Vâng. Bây giờ, Butch và tôi sẽ đưa cô trở lại nơi ở của Randy. Khi nào cần chúng tôi sẽ liên lạc với cô sau."

Họ đưa Sheree về trên chiếc xe tuần tra. Cô ngồi cạnh Billy ở ghế sau.

"Vụ giết người này nhất định phải có động cơ," ông nói. "Kẻ nào đó muốn hãm hại đứa trẻ. Cô có biết ai trong số đó không?"

"Ông đã hỏi tôi câu đó rồi, ông thanh tra!", Sheree Lynn trả lời.

"Thế Woody thì sao? Cô có biết gì về ông ta không?"

"Đó là một kẻ nát rượu. Gã từng dùng dây thừng đánh Darren. Gã thừa nhận điều đó khi Tổ chức Bảo trợ trẻ em cử tôi đến nhà gặp bà Sharon Riegert. Woody rất hay nóng giận, thích gây gổ và đánh người vô cớ. Chính quyền đã có lần nhắc nhở gã. Sharon nói với tôi gã tình nhân của bà ta rất nghèo, gã sinh ra và lớn lên trong một nông trang khô cằn gần Khu Bảo tồn Thiên nhiên Peigan. Gã chưa bao giờ tham dự những buổi họp về dịch vụ xã hội mà tôi giới thiệu."

"Cô có biết có đứa trẻ nào tầm tuổi Darren mà ghen tức hay hận thù gì với thằng bé không?"

"Ghen tức ư? Chỉ có Blayne Morton, tôi nghĩ thế."

"Thằng bé đó có cùng nhóm với Cody Schow không?"

"Không. Thậm chí là đối địch. Darren từng kể về Blayne cho tôi nghe một, hai lần. Tôi cũng chỉ nhìn thấy nó một lần, khi nó đứng trước cửa một ngôi nhà trên đường Ashmead. Blayne là một đứa trẻ khá to con và có vẻ như Darren rất sợ nó. Cả Darren và Cody đều không tra gì Blayne. Cody còn kể hai đứa từng đánh nhau một trận kịch liệt ở trường. Blayne thường bắt nạt Darren, luôn thích lấy những tấm ảnh của Darren."

"Cô chưa từng nói chuyện với Blayne?"

"Chưa, thưa ông."

"Nó cũng chưa vào ngôi nhà cô ở bao giờ?"

"Theo tôi biết thì chưa."

"Cô có nghĩ thằng bé đó biết rõ về cô không? Ý tôi là, nó có biết cô đi đâu, làm gì và số điện thoại của cô là bao nhiêu không? Tôi đang suy luận thôi. Liệu Bayne có phải là đứa trẻ gọi điện đến cho cô sáng qua không?"

"Nó có thể biết được số điện thoại của tôi, à, của chúng tôi, từ Darren. Ai mà biết được chứ?"

Họ ngồi im lặng trong xe. Billy chờ đợi Sheree Lynn có thể nói thêm nhiều điều nữa. Từ kinh nghiệm bản thân, ông biết rằng sự im lặng nhiều khi lại là một động cơ tuyệt vời khiến người ta bộc bạch. Những người hay nói chuyện rất ghét khoảng trống im lặng trong câu chuyện. Nhưng Sheree Lynn vẫn lặng lẽ, hai mắt nhìn xuống, gương mặt đầy mệt mỏi.

Butch lái xe qua bên kia con sông rồi dừng lại cạnh một khu đất có nhiều dãy nhà đang xây dựng gần khuôn viên trường đại học. Billy ghi nhớ căn hộ Randy thuê. Nó không ấn tượng lắm, ông nghĩ một giáo sư lẽ ra phải sống trong một nơi sang trọng hơn thế.

"Randy thuê nhà ở đây phải không cô Sheree?"

"Anh ấy phải trả tiền trợ cấp cho vợ sau khi ly dị, thưa ông. Randy cũng là một người giản dị và khiêm tốn."

Butch để Sheree Lynn ở lại căn hộ đó rồi cùng Billy lái xe trở về.

"Royce đã tìm được quần áo của Darren chưa?"

"Chưa. Anh ta vẫn bị đau sau vụ ném đĩa, nhưng tôi sẽ bảo anh ta tiếp tục tìm kiếm ngay."

"Càng sớm càng tốt nhé, Butch."

"Tôi đang điều hành công việc nhanh hết sức có thể, anh bạn ạ."

"Chúng ta không thể ngừng lại, dù là để thở. Tôi cho là kẻ giết người đã liều mạng đột nhập vào ngôi nhà cốt để làm lộn tung mọi thứ lên. Tôi muốn anh điều động lực lượng cảnh sát canh gác ngôi nhà 24/24 giờ. Phải cắt cử người thay thế cho Dodd và Royce nữa !"

Butch gật đầu và cho xe vào đường Balham, đỗ cách chiếc xe tuần tra ngụy trang của Dodd khoảng hai trăm mét. Ông gọi điện cho Dodd để báo cho anh ta biết rằng ông và Billy sẽ đảm nhận công việc thay anh. Billy chăm chú quan sát ngôi nhà gỗ nhỏ mà Sharon Riegert đang thuê. Phía ngoài, hàng rào xiêu vẹo như muốn đổ sụp xuống. Trong sân, cỏ dại mọc um tùm. Ngôi nhà đã xuống cấp, cần phải được sơn sửa lại.

"Anh có nghĩ Woody đang ở đây không?"

"Tôi cũng linh cảm thế, Butch ạ. Tôi đoán cả hai đang nằm trên giường và nói với nhau về chuyện hôm qua."

Dutch đưa máy để Billy gọi cho Dodd. "Dodd, anh hãy đến nhà của Cody đi. Lấy địa chỉ từ trụ sở ấy. Nói chuyện với mẹ thằng bé và cả những người xung quanh nữa, nhất là những người hay nhòm ngó chuyện người khác. Tìm hiểu xem tối hôm thứ sáu bà ta ở đâu, làm gì. À này, gặp và làm việc với cả nhân viên tư vấn ở trường học nữa nhé, tên ông ấy là Bames, hỏi xem ông ta có ấn tượng gì về cậu bé tên Blayne Morton không."

Billy tắt máy. Hai người xuống xe và tiến tới cửa trước của căn nhà gỗ nhỏ. Họ đều không mang theo vũ khí, Billy đề nghị Butch điện thoại về trụ sở cử một cảnh sát đến đề phòng tình huống xấu xảy ra. Cảnh giác không phải là thừa, nhất là với một gã như Woody. Có thể gã đang ngồi đợi họ với một khẩu súng đã nạp đạn và sẵn sàng bắn bất cứ lúc nào.

Butch gõ cửa.

"Ồ, nó mở sẵn." Butch đẩy cửa nhè nhẹ và thận trọng đứng nép sang một bên. Billy đứng đối diện với ông.

"Vào đi, các cậu bé." Một giọng nói giễu cợt vang lên.

Butch liếc nhanh vào căn phòng tối tăm sực mùi rượu và đồ rán. Woody Keeler mặc chiếc quần lửng, khoác hờ áo sơ-mi, tóc buộc ngược về phía sau, tay cầm can bia đứng đó. Ánh đèn vàng vọt chiếu sáng ngay trên đầu gã.

"Các ông đến đây làm gì?"

Butch bước vào, giơ cho Woody xem tấm phù hiệu cảnh sát. Ông nói lý do ông và Billy có mặt. Woody cười khẩy, vẻ ngạo mạn. Gã đi ra sân, buông mình xuống chiếc đi văng và ngửa mặt lên trời.

"Sếp ạ, ông muốn nói chuyện với tôi thì hãy ra đây mà nói."

Butch lắc đầu và thở dài: "Hãy đợi ở đây, Billy. Tôi sẽ giải quyết việc này."

Sharon Riegert xuất hiện ở cửa trong bộ áo choàng tắm màu hồng cũ kỹ. Tóc bà ta rối bù, mặt mũi sưng húp.

"Chuyện gì đấy?" Bà ta hỏi, giọng khô khốc.

"Chúng tôi cần nói chuyện với bà và ông Woody, bà Riegert ạ."

"Chuyện gì?"

Sharon Riegert lách người ra phòng ngoài và ngồi xuống đi văng, trên đó xếp đầy những chiếc gối sa-tanh và một con chó bông khổng lồ. Bà ta ôm lấy con chó và đặt lên ngang ngực mình, đôi mắt nó to tròn như hai quả bóng. Trông con chó chẳng có vẻ gì dễ thương cả, thậm chí còn dữ tợn là đằng khác, ông nghĩ thế.

"Bà Riegert, ông Woody đã ở đâu trong khoảng từ mười giờ đêm hôm qua đến bốn giờ sáng ngày hôm nay?"

"Làm sao tôi biết được?"

"Ông ta có ở đây với bà không?"

"Thỉnh thoảng. Thế thì sao nào? Anh ta đã gây ra cái gì à?"

"Tối qua bà ở nhà chứ, bà Sharon?"

"Tất nhiên rồi. Tôi còn ở đâu được nữa."

"Bà Sharon, chúng tôi cần bà hợp tác để làm rõ một số vấn đề có liên quan đến vụ án."

"Ông quả là một cảnh sát lịch sự. Tên ông là gì nhỉ?"

"Yamamoto. Billy Yam..."

"Ông là người Trung Quốc hay nước nào?"

"Tôi là người Nhật."

Billy quan sát bà ta. Sharon hình như đang buồn ngủ, mắt đờ đẫn. Trên tay bà ta có những vết xước như bị mèo cào. Nhìn qua cửa ra vào, Billy thấy Butch đang cúi xuống nói chuyện với Woody Keeler. Mặt Butch nhăn nhó, ông đang nói gì đó rất nhanh. Woody vẫn ngồi không nhúc nhích trên ghế như thể bị dính chặt vào đó.

"Woody đã đi ra ngoài !", Sharon nói. "Anh ta đi ra ngoài sau đó lại về đây. Lúc đó tôi rất mệt. Tôi không nhớ chính xác là mấy giờ."

"Tôi cảm thấy rất tiếc về chuyện của con trai bà, bà Sharon ạ. Tôi muốn tìm ra kẻ nào đã sát hại nó."

"Ông làm được sao? "Sharon Riegert ngước lên.

Billy đã từng nhìn thấy nhiều khuôn mặt bị tàn phá vì đau đớn và buồn thương như thế này trước đây. Chúng lúc nào cũng khắc khổ và yếu ớt. Những đôi mắt luôn nheo lại như thể sợ những luồng ánh sáng chói lòa hay một sự thật khủng khiếp nào đó có thể khiến chúng bị mù.

"Chính là cô ta. Con mụ Bird phù thủy đó. Lẽ ra con tôi không nên ở trong ngôi nhà đó."

"Tại sao cô ta phải làm hại nó, bà Sharon?"

"Làm sao tôi biết được? Cô ta đã giết nó, thế thôi. Nó có lý do gì mà phải ở trong cái tầng hầm đó chứ?"

Sharon muốn khóc nhưng đã quá kiệt sức.

"Bà có biết Cody Schow không?"

"Một thằng ngu xuẩn. Tôi không thích nó. Nó hỗn với tôi lắm. Tôi đã bảo Darren nhiều lần đừng đi chơi với cái đồ cặn bã ấy, nếu không sẽ bị ăn đòn."

"Những đứa bạn khác của Darren thì thế nào, bà Sharon?"

"Bạn nào? Tôi không biết. Chỉ có một thằng béo phì có cái máy ảnh thôi."

"Bà có nhớ tên nó không?"

"Ông nghĩ tôi ngu lắm hả? Tên nó là Blayne. Nó rất hay lang thang ở khu vực này và thường đứng ở ngoài đợi Darren. Tôi không biết nó lợi dụng con tôi hay làm gì đó. Thỉnh thoảng tôi thấy hai đứa lại cùng nhau đi đâu đó."

"Cái máy ảnh đó loại nào?"

"Máy màu đen, kiểu cũ, phía trước sẽ bật ra khi chụp. Tôi nghĩ đó là loại mà ông thường thấy ở những nơi chụp ảnh lấy ngay..."

"Máy Polaroid."

"Tôi không biết, có thể là như vậy. Tôi không thích thằng Blayne."

"Blayne có đưa bức ảnh nào cho Darren không? Bà đã bao giờ nhìn thấy những bức ảnh đó chưa?"

"Tất nhiên là tôi thấy rồi."

Sharon Riegert vươn người đứng dậy khỏi những chiếc gối sa-tanh.

"Ông đến đây."

Billy đi theo bà ta vào một căn phòng nhỏ. Tấm rèm vải tối màu che kín ô cửa sổ duy nhất. Một chiếc giường hẹp được phủ tấm khăn trải giường nhàu nát. Những bức ảnh chụp Marilyn Manson (sinh năm 1969 - là nghệ danh của nam ca sĩ nhạc rock Brian Hugh Wamer. Marilyn Manson nổi tiếng với lối trang điểm quái dị không chỉ trên sân khấu mà ngay cả cuộc sống hàng ngày) và Metallica (Ban nhạc heavy metal nổi tiếng của Mỹ được thành lập từ năm 1981. Ban nhạc đã dành được rất nhiều giải thưởng Grammy uy tín và được vinh danh trong Rock and Roll Hall of Paine với tư cách là một trong những ban nhạc rock vĩ đại nhất Thế giới.) gắn đầy trên tường bằng đinh nẹp. Sharon cầm một cuốn sổ màu đỏ trên chiếc bàn cạnh giường rồi giở ra, bàn tay loạt soạt trên giấy. Hai tấm ảnh được chụp bằng máy Polaroid được kẹp ở cuối cuốn sổ.

"Tôi tìm thấy những thứ này trong thùng rác mấy ngày trước, có lẽ phải một tuần rồi. Tôi nghĩ Darren đã đánh rơi nên đã nhặt chúng lên và cất vào vở cho nó. Ông cứ cầm mấy tấm ảnh đó đi. Giờ thì thằng bé cũng không cần đến chúng nữa rồi."

Sharon bỏ cuốn sổ xuống, tay trái bưng mặt, tay phải đưa hai bức ảnh cho Billy.

"Bà có nhớ Darren đã mặc gì vào ngày thứ sáu tuần trước không?"

"Không. Chắc là quần áo bình thường như mọi ngày thôi."

"Có phải nó mặc quần jean, áo khoác và đi giày ống không?"

"Có lẽ thế. Nó vốn thích màu đen. Tôi đoán là nó mặc áo sơ mi đen và quần jean. Sao ông lại hỏi vậy?"

"Chúng tôi vẫn đang đi tìm quần áo của thằng bé, bà Riegert ạ. Chúng có thể giúp chúng tôi tìm ra thủ phạm."

Sharon Riegert giơ tay lên, nhắm mắt lại: "Tôi không muốn nghe gì nữa." Nói rồi bà ta nhanh chóng rời khỏi phòng.

Billy xem xét hai tấm ảnh: một bức chụp hộp quà sô-cô-la Valentine màu đỏ, bức kia chụp Darren Riegert, mắt khép hờ, trên người mặc một chiếc áo khoác da. Billy liếc nhìn quanh căn phòng nhỏ nhưng chỉ nhìn thấy đống áo sơ-mi nhàu nát và đồ lót. Gầm giường cũng chẳng có gì cả. Vậy chiếc áo khoác da đâu? Billy quay ra phòng ngoài. Ở đó Sharon Riegert đang lấy tay quệt nước mắt và ôm chặt con chó nhồi bông vào ngực.

"Tôi có thể giữ mấy bức ảnh này được không, bà Sharon?"

"Ông hãy lấy những gì mình muốn."

"Bà có biết chiếc áo khoác của Darren ở đâu không?"

Sharon nhìn vào tấm ảnh và nhún vai. Billy liếc ra phía cửa trước. Một hàng mắc treo quần áo, trên đó có những chiếc áo khoác vải và một chiếc áo mưa.

"Ông Woody có bao giờ đánh Darren không?"

"Không. Thôi được rồi, thỉnh thoảng anh ta có đánh thằng bé. Tôi không nhớ, điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả."

"Darren có kể với bà nó bị Blayne đánh không? Hoặc đe dọa chẳng hạn?"

"Nó chẳng bao giờ nói chuyện với tôi về thằng béo đó. Có một lần tôi đã nhìn thấy chúng một lát, vậy thôi."

Butch đi vào trong phòng, Woody theo sau cười nhăn nhở, nồng nặc men bia.

"Ông không khai thác được gì ở tôi đâu, cảnh sát trưởng ạ. Hãy hỏi cô ấy. Hãy hỏi cô ấy xem tôi đã ở đâu !"

Sharon đứng dậy, toàn thân bắt đầu run rẩy.

"Em không nói với ông ta điều gì cả, Woody. Em chỉ nói là anh ra ngoài có một lát thôi. Em nói rằng lúc đó mình mệt quá nên phải nghỉ trên giường, em không..."

"Được rồi, bà Sharon", Butch nói, giọng ông thật nhẹ nhàng và bình tĩnh.

"Các ông muốn uống bia hay thứ gì đó không?" Woody cười.

"Thôi, chúng ta đi, Billy. Chúc ông bà một ngày tốt lành !" Butch nói.

"Nhớ đóng cửa cẩn thận nhé !" Woody gào lên.

Vào trong xe tuần tra, Butch châm thuốc hút.

"Chẳng được gì cả," ông nói. "Chúng ta cần một lệnh khám nhà. Nhưng có khi hắn sẽ ném mọi thứ rác rưởi vào chúng ta nếu hắn ở đó. Tôi rất khó chịu, và khi tôi đã khó chịu về kẻ nào đó, tôi thường biết chắc cảm giác của mình là đúng."

"Hắn ta vẫn dùng chiếc dây chun đó để buộc tóc à?"

"Đúng vậy, sợi dây màu đỏ tươi."

"Sharon có nhắc đến Sheree Lynn và gọi cô ấy là phù thủy. Nhưng quan trọng hơn, bà ta cho biết Blayne thường quanh quẩn ngoài ngôi nhà, nó có một chiếc máy ảnh và cho tôi xem những thứ này."

Billy đưa cho Butch xem những bức ảnh.

"Hãy nhìn phía sau bức chụp hộp quà Valentine."

Butch đọc to: "Gặp mình tại sân vận động nhé, nếu không..."

"Nghe như một lời đe dọa nhỉ?"

"Có khi lại là một mối tình ngọt ngào chưa biết chừng. Một cô bé không thể chờ đợi thêm nữa để gặp cậu ta."

"Sharon không biết rõ về mối quan hệ giữa Darren và Blayne. Bà ta vẫn một mực đổ lỗi cho Sheree Lynn Bird."

"Thật là sai lầm, ông bạn nhỉ. Chính bà ta là người đã đánh đập thằng bé. Trong khi Sheree Lynn mới là mẫu hình người mẹ dịu dàng mà thằng bé luôn tìm kiếm."

"Có lẽ vậy," Billy đáp. Sheree Lynn Bird đã khiến những con người này thấy sợ hãi và giận dữ. Ông không nghĩ rằng những cảm giác, những phản ứng như thế sẽ dễ dàng thay đổi.

"Hãy nói về những sợi dây chun !", Billy nói, phá tan sự im lặng giữa hai nguời. "Chúng ta hãy mang sợi dây tìm được hôm nay đến phòng thí nghiệm. Nếu may mắn, đó có thể là một trong những cái dây mà Woody dùng để buộc tóc."

Butch dụi điếu thuốc lá. "Tôi ghét gã lưu manh đó."

"Blayne Morton có thể là một đầu mối quan trọng," Billy nói. "Cả hai người đều nói với tôi đó là một đứa trẻ hay bắt nạt và chuyên trấn lột bạn bè ở trường, nó lại thường đi với Darren nữa."

Butch cười: "Trên đường tới nhà ông bạn già Hawkes chúng ta làm một ly cà phê Colombian nhé?"

"Quán Mac’s cũng mở cửa vào chủ nhật à?"

"Ồ ông bạn, quán Mac lúc nào chả mở cửa."

"Chào ông. Tôi là Hawkes. Reggie Hawkes."

"Chào ông. Tôi là Billy Yamamoto."

Hawkes nhấc tấm bạt phủ xác Darren Riegert ra. Xác chết vẫn giống như lúc Billy trông thấy lần đầu, nhưng sáng nay khi Hawkes tiến hành khám nghiệm, bầu không khí nơi đây dường như trở nên quái gở. Những bức tường như u ám hơn, ánh đèn huỳnh quang tỏa ra thứ ánh sáng gay gắt, và thậm chí cả mùi amôniăc cũng trở nên hăng nồng hơn.

Hawkes chọc vào cổ Darren, da và những lớp cơ đã phồng lên như vỏ một quả cam. Ông giở biểu đồ báo cáo pháp y ra, lướt nhanh tới trang có bức ảnh đen trắng chụp cảnh Darren treo cổ dưới ống nước trong tầng hầm Ngôi nhà của quỷ Sa tăng. Ở góc dưới có dòng chữ ghi đầy đủ tên và học vị: Bác sỹ, Tiến sỹ Reginald D.Hawkes.

"Như các ngài thấy, so với bức ảnh cô Johnson chụp, vết bầm do dây buộc ở cổ - chỗ này và chỗ này nữa - rất phù họp với góc độ mà cái xác bị treo. Hãy nhìn chỗ này nữa, có sự chèn ép ở cái xương mà chúng ta hay gọi là quả táo cua Ađam. Không có dấu vân tay, không có sự chấn động, hộp sọ không bị giập. Nhưng có một thứ khá giá trị trong vòm miệng ! Nó nằm ở trên lưỡi với một mặt dính đầy máu của nạn nhân."

Hawkes cầm một túi ni-lon lên, bên trong có một mẩu giấy đã biến màu, một mặt có ghi dòng chữ gì đó.

"Một đoạn trích từ cuốn sách của Daniel: 'Mene Mene Tekei' có nghĩa là 'Chúa sẽ chấm dứt sự tồn tại của các người'. Các người đã tỏ ra yếu kém. Một suy nghĩ khủng khiếp, tôi nghĩ vậy."

Hawkes dừng lại để thở. Ông ta nói bằng thứ giọng Anh khá nhanh và cao. Trên đôi môi mỏng là một bộ ria được chải và vuốt keo kỹ lưỡng, hai đầu được tỉa nhọn gọn gàng, ở giữa khum khum hướng lên trên mũi. Ông ta đeo một chiếc cà vạt khá nổi bật. Một người bảnh bao sang trọng, Billy thoáng nghĩ. Một cái microphone nhỏ gắn vào cổ áo Hawkes, dây mic được luồn trong chiếc áo choàng trắng và kéo dài nối với một máy ghi âm hiệu Sony đã cũ.

"Cẩn thận đấy", ông ta nói khi Billy bắt đầu di chuyển xung quanh bàn xác. "Đừng động đến sợi dây đó. Nếu anh làm tuột sợi dây, tôi sẽ phải làm lại từ đầu." Hawkes cười tinh quái.

"Công đoạn thứ nhất đã xong, giờ chúng ta hãy xem kỹ vùng cổ, tôi cũng chưa phát hiện ra nhiều điều lắm. Thời gian nạn nhân chết vào khoảng từ nửa đêm đến 0 giờ 20 phút sáng. Dương vật, hậu môn và trực tràng không bị ảnh hưởng gì, cũng không có dấu vết của máu, mồ hôi hay tinh dịch của người khác. Tôi không thấy bằng chứng của xâm hại tình dục. Tôi cũng đã yêu cầu các y tá kiểm tra nhanh mẫu máu thu được ở hiện trường sáng qua. Trong máu không có ma túy hay chất kích thích khác. Báo cáo kiểm tra độc tố tại bệnh viện cũng đã xác định không có thức ăn trong dạ dày trừ một chút sô-cô-la. Không phải sô-cô-la thực, đó là một thứ dầu thực phẩm có màu giống như sô-cô-la Thụy Sĩ. Không có độc tố. Ngực và lưng không có dấu hiệu bị đánh đập. Những vết dao rạch nông, dường như được rạch bằng một con dao có lưỡi răng cưa. Con dao mà các anh tìm thấy trong vườn tạo ra vết rạch rất phù hợp. Vết rạch được tạo ra trước khi thằng bé bị treo lên. Dấu vết máu chảy và đọng lại cho phép chúng ta khẳng định điều đó. Những vệt máu, ở đây và đây, trong lòng bàn tay trùng khớp với mẫu máu trong phòng thí nghiệm. Vì vậy có thể kết luận những vết máu trên xác đúng là của nạn nhân."

"Đây có phải là trường hợp bị tra tấn không?"

"Chắc chắn rồi, mặc dù vết cắt rất nhẹ, và cách thức cắt từ trên vùng ngực hướng dần về phía tim có thể làm ta nghĩ đến trường hợp nạn nhân thích tự hành hạ. Vết cắt nào chả đau, đúng không? Tôi thừa nhận mình đang làm vấn đề phức tạp thêm một chút. Có vẻ như nạn nhân sau khi bị cắt, rạch đã bị kẻ nào đó trói lại rồi mới chết."

Billy nhìn chằm chằm vào cái xác của Darren Riegert. Thằng bé còn quá trẻ.

"Khi xác chết đã cứng sau ba đến bốn tiếng thì trói hai tay theo tư thế này có khó không, thưa bác sỹ Hawkes? Theo như bức ảnh ông có trong báo cáo pháp y, cánh tay bị khuỳnh ra và cứng đờ một cách kì lạ. Nếu Darren Riegert bị trói trước khi chết, cánh tay chắc sẽ ở tư thế thoải mái hon - nó phải buông thõng xuống dưới chứ không xiên ngang sang hai bên như thế kia."

"Thực tế đang bày ra trước mắt chúng ta trên cái bàn xác này, thưa thanh tra." Hawkes trả lời. "Một trường hợp kỳ lạ. Hai bàn tay bị trói khiến tôi mất ăn mất ngủ. Vì thế tôi cho rằng cần phải khám nghiệm tử thi kỹ hơn. Tôi đã từng thấy nhiều vụ treo cổ trong đó nạn nhân bị dây thừng siết mạnh, kéo lên. Một vụ hành hình kiểu Lin-sơ từ nhiều năm trước - chẳng hạn. Nếu nạn nhân bị treo cổ như thế thì các vết bầm tím sẽ phải lớn hơn, đặc biệt là ở cổ, cổ họng cũng phải bị tổn thương nghiêm trọng. Căn cứ vào dấu vết của dây thừng trên cổ nạn nhân, tôi có thể nói rằng sự treo cổ này quá nhẹ nhàng. Vết bầm tím còn nhẹ hơn so với tôi hình dung khi nhìn bức ảnh Johnson chụp. Cái đài này được dùng làm bục đứng treo cổ phải không?"

"Chỉ là phỏng đoán thôi," Butch trả lời.

"Ừ, chỉ là phán đoán," Hawkes nói. "Cổ của thằng bé này bị bầm tím giống như một trường hợp khác vào mùa đông năm ngoái, trường hợp tự sát của Cody Schow. Mà ông có họ hàng gì với một người ở Coaldale tên là Arthur Yamamoto không thưa thanh tra?" Hawkes hỏi Billy.

"Ông ấy là bố tôi."

"Ông Arthur thường bán những cây hoa xinh xắn cho gia đình tôi vào mùa xuân. Tôi đã đọc cáo phó của ông ấy mấy tháng trước. Thành thực chia buồn với ông. Bố ông là một người làm vườn giỏi."

"Cảm ơn ông," Billy nói.

"Tôi không nhớ đã từng gặp ông bao giờ chưa, ông thanh tra ạ. Nhưng cho tôi hỏi ông có phải là Toshuo Yamamoto không?"

"Đó là anh cùng cha khác mẹ với tôi."

Billy bắt tay Hawkes, bác sỹ pháp y đã tháo găng tay. Sau đó ông lấy tấm ảnh chụp hộp sô-cô-la có dòng chữ phía sau để so sánh với nét chữ đẫm máu tìm thấy trong miệng Darren. Nhìn sơ qua thì chúng không giống nhau cho lắm. Billy quyết định sẽ giám định chữ viết và so sánh với bút tích phía sau bức ảnh. Butch và Billy trở lại trụ sở mang theo chiếc túi ni-lon có mẩu giấy trong miệng Darren. Butch lấy những tấm ảnh trong vụ Cody Schow và lựa chọn những bức ảnh tại hiện trường vụ Darren Riegert, họ trải các tấm ảnh của hai hồ sơ ra để xem xét.

"Máu Darren nhỏ xuống cả mặt trên và phía sau của cái đài. Có lẽ cái đài đã được đặt dưới xác thằng bé, rồi vì một lý do nào đó nó bị đẩy đổ về phía trước rồi bị đưa ra khỏi hiện trường."

Billy nhớ lại những nghi vấn của mình về chiếc đài. Tại sao nó lại được giấu trong vườn? Những vệt máu nhỏ giọt trên đó tương tự như những vết máu tìm thấy trên chiếc giày ống và người Darren. Billy cũng nhớ rằng không có vết máu nào được tìm thấy trên nền nhà ngay dưới cái xác. Hay là Darren đã đứng lên nó trước khi bị rạch và trước khi chiếc thòng lọng được quấn quanh cổ nó? Nhưng cơ thể nạn nhân chắc phải bê bết máu khi trèo lên cái đài vì có những giọt máu nhỏ lên mặt trên. Vậy tại sao cái đài lại xuất hiện trong tầng hầm? Trong đài không có cuộn băng nào, phải chăng cuộn băng đó đã bị lấy đi rồi? Và chắc chắn cái đài ấy được giấu đi khi xác Darren đã ngừng chảy máu. Nếu không thì phải có vết máu nhỏ trên nền xi-măng của tầng hầm.

"Chúc các ngài một ngày tốt lành !", cảnh sát viên Gloria Johnson xuất hiện trước cửa phòng thường trực, đeo một túi đồ chơi gôn trên vai. Cô đội chiếc mũ bóng chày màu đỏ, mặc áo thể thao có hình con chim hồng hạc đang vung cây gậy đánh gôn.

"Tôi ghé qua để thông báo cho các ngài biết phòng thí nghiệm đang hoàn tất kết quả giám định mẫu máu trên chiếc đài và trên con dao tìm thấy ngoài vườn. Tôi cũng đã đặt sợi dây chun của các ngài ở dưới kính hiển vi."

"Có gì không?"

"Bụi, rất nhiều bụi. Không có sợi tóc nào cả, không gầu, không nang tóc."

"Thật là khó khăn !", Billy cười gượng gạo. "Thế còn vụ trộm tối qua, cô có thu được dấu vân tay nào không?"

"Chẳng có gì, hoàn toàn sạch sẽ, tất cả mọi nơi, kể cả chỗ cửa sổ bị vỡ. Lan can cũng không có. Tôi muốn nghỉ một giờ để đi chơi gôn vì công việc tiến triển cũng chậm, có được không ạ? Tôi sẽ có mặt tại phòng giám định nếu các ông cần kết quả về dấu vân tay cũng như những dữ liệu có được từ ngày hôm qua."