Chương 2 NGƯỜI BẠN MỚI
BOB LÀ MỘT ĐỨA TRẺ LẶNG LẼ, với đôi mắt xám nghiêm trang và mớ tóc nâu xỉn bù rối. Phần lớn thời gian nó tỏ ra khá ngoan ngoãn. Nó đã học nói, và khi bắt đầu nói được thì nó luôn mồm hỏi người dân trong nghĩa địa. Nó hay hỏi "Tại sao cháu chả được ra khỏi nghĩa địa?” hoặc là, "Làm sao, cháu làm được, như ông ấy vừa làm?" hoặc "Ai sống ở đây?". Người lớn cố hết sức trả lời nó, nhưng câu trả lời của họ thường không rành mạch, hoặc khó hiểu, hoặc mâu thuẫn, và khi ấy thì Bod lại xuống nhà thờ cũ nói chuyện với chú Silas.
Nó sẽ đợi ở đó vào lúc mặt trời lặn, ngay trước khi chú Silas thức dậy.
Bod luôn tin rằng người bảo trợ của nó sẽ giải thích mọi sự một cách rõ ràng, minh bạch và đơn giản để nó có thể hiểu được.
"Cháu không được ra khỏi nghĩa địa - mà phải nói không đuợc, chứ không phải là chả đuợc, ngày nay người ta không nói như thế - vì chỉ ở trong nghĩa địa thì chúng ta mới có thể bảo vệ cháu. Đây là nơi cháu sống, nơi có những người yêu thương cháu. Ở ngoài kia cháu sẽ không được an toàn. Chưa đến lúc”
"Nhưng chú có đi ra ngoài. Đêm nào chú cũng đi ra ngoài."
"Chú lớn hơn cháu nhiều, nhóc ạ. Và cho dù đi đến đâu thì chú cũng được an toàn."
"Cháu cũng có thể được an toàn chứ."
"Chú ước gì có thể như thế. Nhưng chừng nào cháu còn ở trong nghĩa địa này thì chừng ấy cháu mới được an toàn thực sự."
Hoặc là,
"Làm sao cháu làm được như thế à? Có những kỹ năng có thể đạt được nhờ học tập hoặc rèn luyện, có những kỹ năng lại chỉ có thể đạt được theo thời gian. Cháu có thể có được những kỹ năng đó nếu cháu chịu khó học hành. Chẳng mấy chốc cháu sẽ thành thạo các phép Tàng hình, Xuyên tường và Mộng du. Nhưng có những kỹ năng mà người sống không thể có được, và để đạt được những kỹ năng ấy thì cháu phải đợi thêm ít lâu nữa. Nhưng chú dám chắc là đến đúng thời điểm thì ngay cả những kỹ năng ấy cháu cũng sẽ có được thôi."
"Dù sao thì cháu cũng có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa," chú Silas bảo nó. "Vì vậy Nghĩa địa sẽ bảo vệ cháu. Ở đây, cháu có thể nhìn được trong bóng tối. Cháu có thể đi lại trên những con đường mà người sống không được đi. Khi người sống nhìn vào cháu họ sẽ không trông thấy cháu. Chú cũng có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa, nhưng trong trường hợp của chú thì đó chỉ là quyền được sống ở đây mà thôi."
"Cháu muốn được như chú” Bod trề môi ra nói.
"Không” chú Silas nghiêm nghị nói. "Cháu không muốn thế đâu."
Hoặc là,
"Ai nằm ở dây ư? Cháu biết đấy Bod, trong nhiều trường hợp, điều đó được khắc trên bia mộ. Cháu đã biết đọc chưa? Cháu đã biết bảng chữ cái chưa?"
"Bảng gì cơ ạ?"
Chú Silas lắc đầu, nhưng không nói gì. Ông bà Owens khi còn sống cũng chẳng phải người hay chữ, và trong nghĩa địa không có cuốn sách vỡ lòng nào.
Đêm hôm sau, chú Silas xuất hiện trước ngôi mộ ấm cúng của gia đình Owens, mang theo ba cuốn sách to - hai cuốn là sách vỡ lòng với nhiều tranh vẽ sặc sỡ.
(A là cái Ao, B là quả Bóng), còn cuốn kia là truyện Chú mèo đội mũ . Chú còn đem theo giấy và một hộp sáp màu. Rồi chú dẫn Bod đi quanh nghĩa địa, đặt những ngón tay nhỏ xíu của thằng bé lên các tấm bia và biển tên mới nhất, chữ khắc rõ nhất, rồi dạy nó cách nhận biết từng chữ trong bảng chữ cái, đầu tiên là chữ A hoa nom như cái tháp chuông.
Chú Silas giao cho Bod một nhiệm vụ - đó là đi khắp nghĩa địa tìm cho bằng hết hai mươi sáu chữ cái - và Bod đã hoàn thành sứ mệnh một cách vô cùng kiêu hãnh, khi nó tìm thấy bia mộ của Ezekiel Ulmsley, đặt chìm vào bức tường bên của nhà thờ cũ. Chú Silas hết sức hài lòng.
Ngày nào Bod cũng đem giấy bút ra nghĩa địa miệt mài chép lại những cái tên, từ ngữ và chữ số trên bia mộ, và đêm đêm, trước khi chú Silas đi ra ngoài, Bod lại nhờ chú giải thích những gì nó đã chép lại, nhờ chú dịch cả những câu La tinh mà ông bà Owens thường không hiểu nổi.
Một ngày nắng ấm: những con ong nghệ bay quanh mấy đóa hoa dại mọc ở góc nghĩa địa, bám trên những bông kim tước và hoa chuông xanh, vo ve một cách lười nhác, trong khi Bod nằm dưới ánh nắng mùa xuân, ngắm một con bọ màu đồng bò ngang qua bia mộ của ngài G. Reeder, vợ của ngài, Dorcas, và con trai của ngài, Sebastian (Gidelis ad Mortemm – chung thủy cho đến chết). Bod đã chép lại những chữ khắc trên bia, và bây giờ khi nó đang chỉ nghĩ về con bọ, thì một giọng nói vang lên,
"Này, cậu đang làm gì thế?"
Bod ngước nhìn. Có ai đó đang ở phía bên kia bụi kim tước, quan sát nó.
"Chả làm gì cả," Bod đáp. Nó lè lưỡi ra.
Bộ mặt ở phía bên kia bụi kim tước nhăn nhúm lại thành một cái miệng máng xối hình đầu thú, lưỡi thè ra, mắt trợn tròn, rồi lại biến thành một cô bé.
"Giỏi quá," Bod nói, nó thấy trò biến hóa ấy rất ấn tượng.
"Tớ có thể làm những cái mặt hay lắm” cô bé nói. "Xem đây này." Cô bé dùng một ngón tay đẩy cho cái mũi hếch lên, nhe răng cười khoái trá, nheo mắt lại và phồng má ra. "Cậu có biết đây là mặt gì không?"
"Không."
"Là mặt lợn, ngốc ạ."
"Ồ." Bod ngẫm nghĩ một lát. "Cậu định nói là giống như chữ L là Lợn ấy à?"
"Tất nhiên là giống thế rồi. Đợi đây nhé”
Cô bé đi vòng qua bụi kim tước và đến đứng cạnh Bod. Nó cũng đứng dậy. Cô bé lớn và cao hơn nó một chút, mặc bộ quần áo rực rỡ màu vàng, cam và hồng. Bod, trong tấm vải liệm màu xám, cảm thấy mình thật tồi tàn và nhếch nhác.
"Cậu bao nhiêu tuổi?" cô bé hỏi. "Cậu làm gì ở đây? Cậu sống ở đây à? Tên cậu là gì?"
"Tớ không biết” Bod đáp.
"Cậu không biết tên mình là gì á?" cô bé nói. "Cậu phải biết chứ. Mọi người đều biết tên mình là gì mà. Đồ nói dối."
"Tớ biết tên tớ," Bod nói. "Và tớ biết tớ làm gì ở dây. Nhưng tớ không biết cái câu hỏi kia."
"Câu cậu bao nhiêu tuổi ấy à?"
Bod gật đầu.
"Ờ," cô bé nói, "thế lần sinh nhật gần đây nhất của cậu thì cậu bao nhiêu tuổi?"
"Tớ không có sinh nhật” Bod nói. "Tớ chưa bao giờ làm sinh nhật!".
"Tất cả mọi người đều có sinh nhật chứ. Ý cậu là cậu chưa bao giờ có bánh sinh nhật với nến và các thứ như thế à?"
Bod lắc đầu. Cô bé tỏ ra thông cảm. "Tội nghiệp cậu. Tớ năm tuổi. Tớ cá là cậu cũng lên năm đấy."
Bod hăng hái gật đầu. Nó sẽ không cãi lại người bạn mới của mình. Cô bé khiến nó thấy rất vui.
Cô bé cho nó biết tên cô là Scarlett Amber Perkins, và cô sống trong một căn hộ không có vườn. Mẹ cô bé đang ngồi trên chiếc ghế dài bên cạnh nhà thờ dưới chân đồi đọc tạp chí, mẹ đã dặn Scarlett nửa tiếng nữa phải quay về, và bảo cô bé hãy chạy chơi một lát, nhưng không được gây rắc rối gì hay nói chuyện với người lạ.
"Tớ là người lạ," Bod bảo.
"Không phải” cô bé quả quyết. "Cậu là một cậu bé." Rồi cô bé nói tiếp, "Và cậu là bạn tớ. Vì thế cậu không thể là người lạ được."
Bod ít khi cười, nhưng nghe thấy thế nó toét miệng cười sung sướng. "Tớ là bạn cậu," nó nói.
"Tên cậu là gì?"
"Bod. Là tên tắt của Nobody."
Cô bé cười phá lên. "Tên cậu lạ thế," cô nói. "Thế cậu đang làm gì?"
"Học bảng chữ cái," Bod trả lời. "Ở trên các tấm bia mộ. Tớ phải chép lại chúng."
"Cho tớ học cùng được không?"
Trong một thoáng Bod bỗng có cảm giác bảo hộ - những tấm bia mộ là của nó cơ mà, phải không? - nhưng rồi nó chợt nhận ra nghĩ như thế thì thật ngớ ngẩn, và có những việc nếu cùng làm với một người bạn dưới ánh mặt trời thì sẽ thật vui. Nó liền đáp, "Được thôi."
Hai đứa cùng chép lại những cái tên trên bia mộ, Scarlett giúp Bod đọc những cái tên và từ lạ, Bod dịch nghĩa các câu tiếng Latinh cho Scarlett, nếu gặp được câu nó đã biết, và dường như chỉ một thoáng sau, chúng đã nghe thấy tiếng gọi từ dưới đồi vọng lên, "Scarlett!"
Cô bé giúi đống giấy bút trả cho Bod. "Tớ phải đi đây," cô bé nói.
"Tớ sẽ gặp lại cậu," Bod nói. "Cậu sẽ quay lại phải không?"
"Nhà cậu ở đâu?" cô bé hỏi.
"Ở đây," nó đáp. Và nó đứng nhìn theo trong khi cô bé chạy xuống đồi.
Dọc đường về nhà, Scarlett kể cho mẹ nghe về cậu bé Không Ai Cả sống ở nghĩa địa đã chơi với cô bé, và tối hôm đó mẹ kể lại với bố Scarlett, và bố cô bé nói ông tin là vào tuổi này trẻ con hay có bạn tưởng tượng, đó là chuyện thường gặp, không có gì đáng lo, và họ thật may mắn vì có một khu bảo tồn thiên nhiên ngay gần nhà.
Sau buổi gặp đầu tiên ấy, Scarlett không bao giờ trông thấy Bod trước cả. Vào những ngày khô ráo, bố hoặc mẹ thường dẫn cô bé đến nghĩa địa. Bố hoặc mẹ sẽ ngồi trên ghế dài đọc sách trong khi Scarlett lang thang ra xa lối đi chính, nom như một mảng màu xanh sáng, hoặc da cam hoặc hồng, và khám phá khu nghĩa địa. Và lần nào cũng vậy, rất nhanh sau đó, cô bé sẽ trông thấy một khuôn mặt nhỏ bé, nghiêm nghị với đôi mắt xám ngước lên nhìn mình từ bên dưới mớ tóc màu nâu xỉn, rồi Bod cùng cô bé sẽ chơi đùa với nhau ? Có lúc là chơi trốn tìm, có lúc là trèo lên cái này cái kia, hoặc chỉ ngồi im ngắm những con thỏ nhảy ra nhảy vào đằng sau ngôi nhà thờ cũ.
Bod giới thiệu Scarlett với mấy người bạn khác của nó. Chuyện cô bé không thể nhìn thấy họ có vẻ như chẳng thành vấn đề. Bố mẹ Scarlett đã quả quyết với cô bé rằng Bod chỉ là tưởng tượng, và điều đó không có gì sai trái cả - thậm chí suốt mấy ngày liền, mẹ cô còn dọn chỗ trên bàn ăn cho Bod nữa - vì vậy cô bé không hề ngạc nhiên khi thấy Bod cũng có những người bạn tưởng tượng. Nó chuyển những lời bình phẩm của họ đến cho cô bé.
"Bartleby bảo dung nhan của bạn chẳng khác nào trái mận khô," nó bảo với cô bé như vậy.
"Mặt cậu ấy cũng thế. Mà sao cậu ấy nói nghe buồn cười thế? Cậu ấy định nói là quả cà chua bị bẹp phải không?"
"Tớ nghĩ ở chỗ cậu ấy không có cà chua dâu," Bod nói. "Và hồi ấy người ta đều nói chuyện như thế cả."
Scarlett rất vui. Cô bé thông minh nhưng cô độc, mẹ cô thì làm việc cho một trường đại học từ xa, dạy những người mà bà không bao giờ gặp trực tiếp, chấm những bài luận tiếng Anh được gửi đến qua máy vi tính rồi gửi lại những tin nhắn khuyên bảo hoặc động viên. Bố cô bé dạy môn vật lý hạt nhân, tuy nhiên Scarlett bảo với Bod rằng có quá nhiều người muốn dạy vật lý hạt nhân nhưng lại không có đủ người muốn học môn này, vì vậy gia đình Scarlett cứ phải chuyển từ thành phố có trường đại học này đến thành phố có trường đại học khác, ở thành phố nào bố cô bé cũng mong có chỗ dạy lâu dài, nhưng chẳng bao giờ được.
"Vật lý hạt nhân là gì?" Bod hỏi.
Scarlett nhún vai. “Ờ..” , cô bé nói. "Có những thứ gọi là nguyên tử, nhỏ tí tẹo đến nỗi mình không nhìn thấy được, tất cả bọn mình đều được tạo ra từ các nguyên tử ấy. Và còn những thứ nhỏ hơn cả nguyên tử nữa, đấy chính là vật lý hạt nhân”
Bod gật đầu, nó nghĩ có lẽ bố của Scarlett cũng thích nghiên cứu những thứ tưởng tượng.
Chiều nào Bod và Scarlett cũng cùng nhau lang thang trong nghĩa địa, đưa ngón tay lần theo những cái tên, chép lại chúng. Bod kể cho Scarlett nghe tất cả những gì nó biết về người nằm trong cái huyệt, lăng hoặc mộ, còn cô bé kể cho nó nghe những chuyện cô đã đọc hoặc học được. Đôi khi cô bé còn kể cho nó nghe về thế giới bên ngoài, về ô tô, xe buýt, ti vi và máy bay (Bod đã từng nhìn thấy máy bay bay cao tít trên đầu và cứ ngỡ chúng là những con chim màu bạc to tiếng, nhưng nó chưa bao giờ cảm thấy tò mò về chúng, mãi cho đến tận bây giờ), về phần mình, Bod cũng kể cho cô bé nghe về cái thời những người trong nghĩa địa còn sống - chuyện Sebastian Reeder đã đến Thành London và trông thấy Hoàng hậu, một người đàn bà béo mập đội mũ lông, luôn trừng mắt nhìn mọi người và không nói một chữ tiếng Anh nào. Sebastian Reeder không nhớ bà ta là hoàng hậu gì, nhưng cậu ta đoán bà ta không làm hoàng hậu lâu cho lắm.
"Đó là hồi nào?" Scarlett hỏi.
"Cậu ấy chết năm 1583, trên bia mộ của cậu ấy viết thế, tức là chuyện này phải xảy ra trước đấy."
"Ai là người già nhất ở đây? Trong toàn nghĩa địa ấy?" Scarlett hỏi.
Bod nhíu mày. "Chắc là Caius Pompeius. Cụ ấy đến đây một trăm năm sau khi người La Mã đầu tiên đặt chân đến nơi này. Cụ đã kể cho tớ nghe chuyện ấy. Cụ rất thích những con đường."
"Vậy cụ ấy là người già nhất?"
"Tớ nghĩ thế."
"Bọn mình có thể dựng một căn nhà nhỏ trong cái nhà đá kia được không?"
"Cậu không vào được dâu. Cửa khóa rồi. Tất cả đều bị khóa hết."
"Thế cậu có vào được không?"
"Tất nhiên là được."
"Thế tại sao tớ không vào được?"
"Vì khu nghĩa địa này” nó giải thích. "Tớ có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa. Tớ thích đi đâu cũng được”
"Tớ muốn vào trong ngôi nhà đá ấy và dựng mấy căn nhà nhỏ."
"Không được."
"Cậu xấu tính thế."
"Không phải."
"Đồ xấu tính”
"Tớ không xấu tính."
Scarlett thọc tay vào túi áo khoác rồi đi xuống chân đồi mà không thèm chào tạm biệt, trong bụng tin chắc Bod cố tình từ chối mình nhưng cũng ngờ ngợ là mình đã đối xử một cách không công bằng, và điều đó làm cô bé càng bực dọc hơn.
Tối hôm đó, trong lúc ăn cơm, cô bé hỏi bố mẹ xem có ai đến vùng này trước người La Mã không.
"Con nghe kể về người La Mã ở đâu thế?" bố cô bé hỏi.
"Ai mà chẳng biết về người La Mã ạ," Scarlett đáp với vẻ khinh khỉnh tột độ. "Thế có ai không ạ?"
"Có người Xen tơ," mẹ cô bé đáp. "Họ đã đến đây trước. Họ định cư trước người La Mã. Chính người La Mã đã chinh phục đất của họ."
Trên chiếc ghế dài bên cạnh nhà thờ cũ, Bod cũng đang có cuộc trò chuyện tương tự.
"Người già nhất à?" chú Silas hỏi. "Nói thật thì Bod ạ, chú cũng không biết nữa. Người già nhất trong nghĩa địa mà chú từng gặp là Caius Pompeius. Nhưng trước khi người La Mã kéo đến thì ở đây đã có người rồi. Rất nhiều người, cách đây lâu lắm. Cháu học bảng chữ cái thế nào rồi?"
"Cháu nghĩ là tốt ạ. Khi nào cháu được học các chữ liền nhau ạ?"
Chú Silas ngừng một lát. "Chú dám chắc trong số những nhân tài được mai táng ở đây, ít nhất cũng phải có vài giáo viên," chú nói, sau một hồi lâu ngẫm nghĩ. "Chú sẽ đi hỏi xem sao."
Bod rất phấn khích. Nó tưởng tượng rằng trong tương lai mình có thể đọc được tất cả mọi thứ, có thể khám phá và tìm hiểu mọi câu chuyện.
Khi chú Silas rời khỏi nghĩa địa để lo liệu những việc riêng của mình, Bod đến chỗ cây liễu cạnh nhà thờ cũ, rồi gọi Caius Pompeius.
Ông cụ người La Mã từ trong mộ bước ra, vừa đi vừa ngáp dài. "A. Phải rồi. Thằng bé còn sống", cụ nói. "Cháu khỏe không, chú bé còn sống?"
Bod đáp, "Cháu rất khoẻ ạ, thưa cụ."
"Tốt. Ta rất mừng." Mái tóc của ông già người La Mã bàng bạc dưới ánh trăng, và cụ khoác chiếc áo choàng toga vốn đã mặc khi được an táng, bên trong là một cái áo cùng đôi xà cạp bằng len dày, vì đây là một vùng đất lạnh giá nằm ở tận cùng thế giới. Nơi duy nhất lạnh hơn là vùng Caledonia (tên thời La mã của Scotland) ở phía Bắc, người ở đó là lũ mọi rợ giống loài thú hơn là con người, với bộ lông màu đỏ cam, quá man dại đến nỗi người La Mã không thèm chinh phục, và chẳng mấy chốc chúng đã bị giam cầm trong mùa đông vĩnh cửu của xứ sở đó.
"Cụ có phải người già nhất không ạ?" Bod hỏi.
"Người già nhất trong nghĩa địa ấy à? Chính thế.
"Vậy cụ là người đầu tiên được chôn ở đây ạ?"
Ông cụ ngần ngừ. "Gần như là người đầu tiên," Caius Pompeius đáp. "Trước người Xentơ, trên hòn đảo này còn có những tộc người khác. Một người trong số họ đã được chôn ở đây."
"Thế ạ." Bod ngẫm nghĩ một lát. "Mộ ông ấy ở đâu ạ?"
Caius chỉ lên đồi.
"Ông ấy ở trên đỉnh đồi” Bod nói.
Caius lắc đầu.
"Không thì ở đâu ạ?"
Ông cụ người La Mã đưa tay xoa đầu Bod. "Trong đồi," cụ đáp. "Trong lòng đồi. Ta được đưa đến đây đầu tiên, đi theo hộ tống linh cữu là bạn bè, các quan chức trong vùng và những người đóng thế đeo mặt nạ bằng sáp mang hình người vợ chết vì bệnh sốt ở Camu-lodonum và người cha bị giết trong một trận ẩu đả ở biên giới Gauln của ta ( Camulodoum là tên thời La Mã của Colchester, một thành phố thuộc Essex ở phía Đông nước Anh. Đây là thành phố đầu tiên ở Anh mà ngườỉ La Mã chinh phục được. Gaul là tên thời La Mã của một xứ ở Tây Âu, bao gồm những vùng ngày nay là Pháp, Bỉ, phía Tây Thụy Sĩ, một phần Hà Lan, và một phần Đức phía Tây mạng sông Rhine)
Ba trăm năm sau khi ta chết, một người nông dân trong lúc đi tìm địa điểm thả cừu mới đã tìm thấy một tảng đá chắn trước miệng hang, ông ta liền vần nó ra chỗ khác rồi đi xuống lòng đồi, tưởng là dưới đó có châu báu. Một lát sau ông ta chạy ra, mái tóc lúc trước sẫm màu thì hóa ra bạc trắng như tóc ta..."
"Ông ấy đã trông thấy gì ạ?"
Caius không đáp, sau đó cụ nói, "Ông ta không chịu kể lại. Ông ta cũng không dám quay lại nữa. Người ta vần hòn đá chắn miệng hang lại, và lâu dần quên bẵng đi mất. Thế rồi, hai trăm năm trước, khi đang xây hầm mộ cho nhà Frobisher, họ lại tìm thấy nó. Vì mơ tưởng đến kho báu, chàng trai tìm thấy miệng hang đã không cho ai biết và trốn trong ngưỡng cửa, đằng sau quan tài của Ephraim Pettyfer, rồi đến đêm thì mò xuống dưới hang mà không ai trông thấy, hoặc là anh ta tưởng không ai trông thấy."
"Khi chui lên thì tóc anh ta có bị bạc không ạ?"
"Anh ta không trở lên nữa."
"Ừm. Thế ạ. Thế ai được chôn ở dưới đấy ạ?"
Caius lắc đầu. "Ta không biết, cậu Owens ạ. Nhưng ta có thể cảm nhận được người đó, khi nơi này vẫn còn trống trải. Khi ấy ta đã cảm thấy có một thứ gì đó đang chờ đợi, sâu tít trong lòng đồi."
''Ông ta đang đợi cái gì ạ?"
"Ta chỉ có thể cảm thấy sự chờ đợi mà thôi” Caius Pompeius trả lời.
º º º
Scarlett, tay cầm cuốn truyện tranh khổ lớn, đang ngồi cạnh mẹ trên chiếc ghế dài màu xanh đặt gần cổng chính, và cô bé đọc truyện trong khi mẹ xem xét một bản phụ trương giáo dục. Cô bé tận hưởng ánh nắng xuân và cố hết sức phớt lờ chú nhóc đang vẫy tay gọi mình từ đằng sau một đài tưởng niệm phủ đầy dây trường xuân, rồi khi cô bé cương quyết không chịu nhìn về phía đài tưởng niệm đó nữa, thì thằng bé bật lên - bật lên thực sự, như con rối gắn lò xo trong hộp - đằng sau một tấm bia mộ (Joji G. Shoji, mất năm 1921, Tôi là người lạ và các bạn đã đón nhận tôi ). Nó rối rít ra hiệu cho cô bé. Cô bé vẫn tảng lờ.
Cuối cùng, cô đặt cuốn truyện xuống ghế.
"Mẹ ơi? Con đi dạo một tí đây”
"Đừng rời khỏi lối đi nhé, cưng."
Cô bé men theo lối đi cho đến khi vòng qua một khúc quanh, và cô có thể trông thấy Bod đang đứng vẫy gọi cô trên đồi. Cô bé nhăn mặt với nó.
"Tớ đã khám phá ra được mấy chuyện” Scarlett bảo.
"Tớ cũng thế” Bod nói.
"Trước người La Mã ở đây đã có người rồi” cô bé nói. "Trước người La Mã rất lâu. Họ sống, ý tớ là, khi họ chết thì người ta chôn họ vào trong lòng đồi, cùng với châu báu và các thứ tương tự như thế. Và người ta gọi chúng là gò chôn cất."
"Ồ. Phải rồi," Bod nói. "Thảo nào. Thế cậu có muốn xem một cái gò chôn cất không?"
"Ngay bây giờ à?" Scarlett có vẻ nghi ngờ. "Cậu không biết ở đây có gò chôn cất thật hay không chứ gì? Với lại cậu biết là tớ không đi theo cậu khắp mọi nơi được mà." Cô bé đã trông thấy Bod đi xuyên qua tường như một cái bóng.
Để đáp lại, thằng bé giơ lên một chiếc chìa khóa to bằng sắt đã hoen gỉ. "Tớ lấy trong nhà thờ đấy," nó bảo. "Cái chìa này sẽ mở được tất tật các cánh cửa trên đồi. Họ dùng chung một chìa cho tất cả khóa. Như thế đỡ tốn công hơn."
Cô bé theo nó trèo lên đồi.
"Cậu nói thật đấy chứ?"
Thằng bé gật đầu với nụ cười vui thích ở khóe miệng. "Đi nào," nó nói.
º º º
Đó là một ngày xuân hoàn hảo, trong không trung rộn rã tiếng chim hót cùng tiếng bầy ong vo ve. Những bông thủy tiên vàng ngả nghiêng trong làn gió nhẹ, và đây đó trên sườn đồi, mấy bông uất kim hương nở sớm cũng đang gật gù. Trên những sườn đồi xanh cỏ phủ một lớp hoa lưu ly xanh lơ như rắc phấn, điểm thêm những bông anh thảo lớn màu vàng nhạt. Hai đứa trẻ trèo lên đồi đi về phía cái lăng nhỏ của dòng họ Frobisher.
Cái lăng có kiến trúc cổ, đơn giản, chỉ là một căn nhà nhỏ bỏ hoang xây bằng đá với cánh cổng sắt làm cửa ra vào. Bod dùng chìa khóa mở cổng, rồi hai đứa bước vào.
"Nó là một cái hố," Bod nói. "Hoặc một cánh cửa Đằng sau một trong những cái quan tài kia kìa."
Chúng tìm thấy miệng hang đằng sau một cái quan tài ở ngăn giá dưới cùng - chỉ vừa cho một người chui lọt. "Ở dưới ấy," Bod nói. "Bọn mình phải trèo xuống."
Scarlett đột nhiên cảm thấy cuộc phiêu lưu mạo hiểm không còn hứng thú cho lắm nữa. Cô bé nói, "Ở dưới ấy thì bọn mình nhìn làm sao được. Tối lắm."
"Tớ không cần ánh sáng," Bod nói. "Chừng nào tớ còn ở trong nghĩa địa thì tớ không cần ánh sáng."
"Nhưng tớ cần," Scarlett nói. "Tối lắm."
Bod nghĩ đến những điều nó có thể nói để làm cô bạn yên lòng, ví dụ như "ở dưới đấy chẳng có gì đáng sợ đâu” nhưng những chuyện về tóc bị bạc và người chui xuống không bao giờ trở lên khiến cho nó không thể nói những câu như vậy mà không bị lương tâm cắn rứt, vì thế nó bảo, "Tớ sẽ xuống. Cậu đợi tớ ở trên này."
Scarlett nhíu mày. "Cậu không nên bỏ tớ lại chứ."
"Tớ sẽ trèo xuống," Bod nói, "để xem có ai ở dưới ấy, rồi sẽ quay lên kể cho cậu nghe."
Nó quay sang miệng hang, cúi xuống rồi chống hai bàn tay và đầu gối bò lồm cồm qua. Nó chui xuống một chỗ đủ cao để đứng thẳng lên được và nhìn thấy những bậc thang đẽo vào nền đá. "Tớ sẽ đi xuống các bậc thang bây giờ đây," nó nói vọng lên.
"Cầu thang có dẫn sâu xuống dưới không?"
"Tớ nghĩ là có."
"Nếu cậu nắm tay chỉ đường cho tớ, thì tớ sẽ đi cùng cậu” cô bé nói. "Nếu cậu đảm bảo sẽ không để tớ bị làm sao."
'Tất nhiên rồi," Bod nói, và nó chưa dứt lời thì cô bé đã bò qua miệng hang đến chỗ nó.
"Cậu đứng thẳng dậy được đấy," Bod bảo. Nó nắm tay cô bé. "Các bậc thang ở ngay đây thôi. Cậu đưa chân về phía trước là sẽ thấy. Đấy. Rồi, tớ đi trước nhé."
"Cậu nhìn thấy đường đi thật à?" cô bé hỏi.
'Tối thật," Bod nói. "Nhưng tớ vẫn nhìn được."
Nó dẫn Scarlett xuống cầu thang, đi sâu vào lòng đồi, vừa đi vừa miêu tả lại mọi thứ nó nhìn thấy. "Các bậc thang dẫn xuống dưới," nó nói. "Làm bằng đá. Xung quanh bọn mình cũng toàn là đá. Trên tường có bức tranh gì ấy."
"Tranh vẽ gì?"
"Tớ nghĩ một chữ B là Bò to tướng, đầy lông lá. Có cả sừng nữa. Rồi một cái gì đó trông giống như hoa văn, hình cái nút thắt to. Mà hình như nó được khắc vào đá, chứ không chỉ là vẽ thôi, cậu thấy không?" và nó cầm ngón tay cô bé đặt lên hình cái nút được khắc trên nền đá.
"Tớ sờ thấy rồi!" cô bé reo lên.
"Giờ thì các bậc thang rộng hơn rồi. Bọn mình đang đi xuống một căn phòng rộng, nhưng vẫn còn bậc thang dẫn xuống đấy. Đừng cử động nhé. Được rồi, bây giờ tớ đã ở giữa cậu và căn phòng rồi. Cậu bám tay trái vào tường ấy."
Chúng tiếp tục đi xuống. "Chỉ một bậc nữa là bọn mình xuống đến nền đá rồi," Bod nói. "Sàn hơi gồ ghề đấy."
Đó là một căn phòng hẹp. Trên sàn có đặt một phiến đá nhẵn, và ở góc phòng là một gờ đá thấp, trên có mấy vật nho nhỏ. Trên sàn có những khúc xương đã cao tuổi lắm rồi, nhưng dưới những bậc thang dẫn vào phòng, Bod trông thấy một xác chết nằm rúm ró, khoác chiếc áo choàng nâu dài mục nát - chắc hẳn là chàng trai đã mơ tưởng đến các kho báu, Bod đoán. Hẳn anh ta đã trượt chân ngã trong bóng tối.
Một tiếng động vang lên quanh chúng, một tiếng lào rào xào xạc như con rắn đang trườn qua đám lá khô. Scarlett siết chặt tay Bod hơn.
"Cái gì thế? Cậu có trông thấy gì không?"
"Không."
Scarlett thốt lên một tiếng kêu nửa hoảng hốt nửa rên rỉ sợ hãi, rồi Bod nhìn thấy một thứ, và không cần hỏi nó cũng biết cô bé cũng trông thấy vật đó.
Một luồng sáng phát ra từ cuối căn phòng, và trong ánh sáng đó, một người đàn ông hiện ra, bước xuyên qua bức tường đá, và Bod nghe thấy một tiếng thét nghẹn lại trong họng Scarlett.
Người đàn ông có vẻ được bảo quản tốt, nhưng nhìn vẫn giống một cái xác đã chết lâu lắm rồi. Da ông ta nom như được tô vẽ (theo ý của Bod) hoặc xăm trổ (theo ý của Scarlett) với những họa tiết và hoa văn màu tím ngắt. Trên cổ ông ta có đeo một chuỗi vòng làm bằng những chiếc răng dài, nhọn.
"Ta là chủ nhân của nơi này!" người đó thốt lên bằng những từ ngữ có vẻ cổ xưa và được thốt ra gầm ghè đến nỗi gần như không nghe nổi. "Ta bảo vệ nơi này khỏi những kẻ muốn làm hại nó!"
Hai mắt ông ta mở trừng trừng. Bod nhận ra đó là vì quanh mắt ông ta có hai vòng tròn lớn màu tím khiến mặt ông ta nom như mặt cú.
"Ông là ai?" Bod hỏi. Vừa nói nó vừa nắm chặt tay Scarlett.
Người Da Chàm hình như không nghe thấy câu hỏi. Ông ta hung dữ nhìn hai đứa bé.
"Cút khỏi đây ngay!" ông ta thốt lên những lời xuyên thẳng vào đầu Bod, những lời nghe như một tiếng gầm gừ trầm đục.
"Ông ta có định giết bọn mình không?" Scarlett hỏi.
"Tớ nghĩ là không," Bod nói. Rồi nó nói với Người Da Chàm như đã được dạy, "Tôi có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa, và tôi có thể đi đến bất kỳ nơi nào tôi muốn."
Người Da Chàm không phản ứng gì trước câu nói này, điều đó khiến Bod càng ngạc nhiên hơn, bởi vì ngay cả những cư dân khó tính nhất của nghĩa địa khi nghe thấy câu ấy cũng phải bình tĩnh lại. Bod hỏi, "Scarlett, cậu có nhìn thấy ông ta không?"
"Tất nhiên là có. Ông ta khắp người đầy hình xăm trông sợ lắm, và ông ta muốn giết bọn mình. Bod, đuổi ông ta đi đi!"
Bod nhìn thi thể của chàng trai trong chiếc áo choàng nâu. Bên cạnh anh ta có một cây đèn đã vỡ vì bị rơi xuống nền đá. "Anh ta đã bỏ chạy," Bod nói to. "Anh ta chạy vì sợ quá. Và anh ta đã trượt chân hoặc vấp vào bậc thang và ngã xuống."
"Ai cơ?"
"Người nằm trên sàn ấy."
Giọng Scarlett trở nên bực dọc hơn, pha lẫn bối rối và hoảng sợ. "Người nào nằm trên sàn? Tối quá. Tớ chỉ nhìn thấy người có hình xăm kia thôi”
Rồi sau đó, như để đảm bảo rằng hai đứa trẻ biết đến sự có mặt của mình, Người Da Chàm ngửa đầu về phía sau và phát ra một loạt tiếng hú, những tiếng gào thét từ sâu trong cổ họng khiến Scarlett nắm tay Bod chặt đến nỗi móng tay của cô bé ấn vào da thịt nó.
Nhưng Bod lại không thấy sợ nữa.
"Tớ xin lỗi vì đã bảo rằng họ chỉ là người tưởng tượng," Scarlett nói. "Bây giờ tớ tin rồi. Tất cả đều là người thật."
Người Da Chàm giương cao một vật gì đó trên đầu. Nom nó giống như một lưỡi dao sắc bằng đá. "Kẻ nào dám xâm phạm tới nơi này sẽ phải chết!" ông ta gào lên bằng cái giọng gầm ghè của mình. Bod nhớ đến người nông dân đã bị bạc trắng cả tóc sau khi phát hiện ra căn hầm này, nhớ đến chuyện ông ta không bao giờ dám quay lại nghĩa địa hay kể cho người khác nghe những điều đã nhìn thây.
"Không," Bod nói. "Tớ nghĩ cậu nói đúng. Tớ nghĩ người này đúng là như thế."
"Là như thế nào?"
"Là người tưởng tượng ấy."
"Đừng có ngốc thế chứ," Scarlett nói. "Tớ nhìn thấy ông ta mà."
"Đúng vậy," Bod đáp. "Mà cậu thì có nhìn được người chết đâu." Nó nhìn quanh căn buồng. "Ông có thể thôi đi được rồi đấy," nó nói. "Chúng tôi biết ông không phải người có thật."
"Ta sẽ ăn gan hút tủy các ngươi!" Người Da Chàm gầm lên.
"Còn lâu," Scarlett nói, kèm theo tiếng thở dài nhẹ nhõm. "Bod nói đúng." Rồi cô bé thêm vào, "Tớ nghĩ ông ta là bù nhìn."
"Bù nhìn là cái gì?" Bod hỏi.
"Một thứ mà nông dân đặt ở ngoài ruộng để dọa lũ chim quạ."
"Tại sao họ làm thế?" Bod rất thích lũ quạ. Nó nghĩ chúng là những con chim rất hay, và nó thích cái cách chúng giúp nghĩa địa luôn gọn gàng sạch sẽ.
"Tớ cũng không chắc. Tớ sẽ hỏi mẹ. Nhưng khi đi trên tàu tớ đã thấy một con bù nhìn và tớ đã hỏi đây là cái gì. Bọn quạ tưởng đấy là người thật. Nó chỉ là một thứ giả vờ, trông giống người nhưng không phải là người. Nó chỉ để dọa lũ quạ thôi."
Bod nhìn quanh phòng. Nó nói, "Cho dù ông có là ai đi chăng nữa thì cũng chẳng ích gì đâu. Không dọa được bọn tôi đâu. Bọn tôi biết ông không có thật. Thôi đi."
Người Da Chàm dừng lại. Ông ta bước đến chỗ phiến đá nhẵn rồi nằm xuống đó. Và ông ta biến mất.
Scarlett thấy căn buồng lại chìm trong bóng tối. Nhưng trong bóng tối, cô bé lại nghe thấy những tiếng lạo xạo xào xạc, mỗi lúc một to hơn, như thể có vật gì đó đang bay quanh căn phòng hình tròn ấy.
Một cái gì đó lên tiếng, CHÚNG TA LÀ SÁT THỦ.
Tóc gáy Bod dựng ngược lên. Giọng nói vang lên trong đầu nó là một thứ vô cùng già cỗi và khô khan, tựa như tiếng cành cây khô cọ vào cửa sổ nhà thờ, và Bod cảm thấy hình như có nhiều giọng nói đang đồng thanh lên tiếng.
"Cậu nghe thấy không?"
"Tớ chẳng nghe thấy gì cả, chỉ thấy tiếng lào xào thôi. Nó làm tớ thấy lạ lắm. Tớ thấy bồn chồn. Như có một chuyện gì rất khủng khiếp sắp xảy ra."
"Chẳng có chuyện khủng khiếp nào sắp xảy ra hết," Bod nói. Rồi nó cất giọng hỏi căn phòng, "Các người là cái gì?"
CHÚNG TA LÀ SÁT THỦ. CHÚNG TA CANH GIỮ VÀ BẢO VỆ.
"Các người bảo vệ cái gì?"
BẢO VỆ NƠI AN NGHỈ CỦA CHỦ NHÂN. ĐÂY LÀ NƠI LINH THIÊNG NHẤT TRONG NHỮNG NƠI LINH THIÊNG, VÀ NÓ ĐƯỢC SÁT THỦ BẢO VỆ.
"Các người không đụng đến bọn ta được," Bođ nói.
"Các người chỉ dọa bọn ta được thôi."
Giọng nói xào xạc kia tỏ ra bực tức. SỢ HÃI LÀ MỘT VŨ KHÍ CỦA SÁT THỦ.
Bod nhìn xuống gờ đá. "Kia là kho báu của chủ nhân các người à? Một cái trâm cài cũ, một cái cốc, với một con dao bằng đá? Trông chẳng dáng gì."
SÁT THỦ CANH GIỮ BÁU VẬT. TRÂM CÀI, CHIẾC CHÉN, CON DAO. CHÚNG TA CANH GIỮ CHÚNG CHO CHỦ NHÂN, ĐỢI ĐẾN KHI NGƯỜI QUAY LẠI. KHO BÁU SẼ TRỞ VỀ. NÓ LUÔN TRỞ VỀ.
"Các người có bao nhiêu cả thảy?"
Nhưng bọn Sát thủ không đáp lại. Trí óc Bod cảm thấy như bị bao phủ bởi một lớp mạng nhện, và nó lắc mạnh đầu hòng rũ sạch cảm giác ấy. Rồi nó siết chặt tay Scarlett. "Bọn mình nên đi thôi," nó nói.
Nó dẫn cô bé đi qua cái xác trong chiếc áo nâu - và Bod nghĩ, thật ra, nếu người đó không hoảng sợ mà vấp ngã thì anh ta hẳn đã rất thất vọng với cuộc tìm kiếm kho báu của mình. Kho báu của mười ngàn năm trước chẳng phải là kho báu của ngày hôm nay nữa. Bod cẩn thận dẫn Scarlett đi lên cầu thang, xuyên qua lòng đồi, và quay về cái lăng cũ của dòng họ Frobisher, nhô lên trên đỉnh đồi như một khối đá đen.
Ánh nắng cuối xuân chiếu qua những khe hở trong tòa nhà, xuyên qua các chấn song cửa, sáng rực đến sững người, làm Scarlett phải chớp chớp che mắt lại cho khỏi chói. Chim vẫn hót líu lo trong những bụi cây, một con ong nghệ vo ve bay qua, tất cả đều bình thưởng một cách kỳ lạ.
Bod đẩy cửa lăng mở ra, rồi sau khi chúng đã ra ngoài, nó khóa lại cửa như cũ.
Bộ quần áo sặc sỡ của Scarlett bám đầy đất bẩn và mạng nhện, bàn tay cùng khuôn mặt có nước da nâu của cô bé bạc đi vì bụi.
Đâu đó dưới sườn đồi, có người nào đó - một số người nào đó - đang hét gọi. Hét gọi rất to. Hét gọi hoảng hốt.
Ai đó gọi, "Scarlett? Scarlett Perkins?" vậy là Scar-lett đáp lại, "Vâng? Ai đấy ạ?" và cô bé chưa kịp bàn bạc với Bod về những gì chúng vừa nhìn thấy hoặc nói chuyện với nó về Người Da Chàm, thì một người phụ nữ mặc chiếc áo màu vàng dạ quang có chữ CẢNH SÁT trên lưng đã hiện ra, hỏi Scarlett có sao không, hỏi cô bé đã đi đâu, có ai định bắt cóc cô không, rồi người phụ nữ lôi ra một chiếc bộ đàm và thông báo đã tìm thấy đứa bé.
Bod nhảy chân sáo theo họ bước xuống đồi. Cửa nhà thờ đang mở, và bố mẹ Scarlett đang đứng đợi trong đó cùng một bà cảnh sát, mẹ cô thì khóc còn bố lo lắng nói chuyện với ai đó qua điện thoại di động, cùng một bà cảnh sát. Không ai nhìn thấy Bod đứng nép vào một góc chờ đợi.
Mọi người liên tục hỏi Scarlett chuyện gì đã xảy ra, và cô hết sức thật thà kể lại rằng một cậu bé tên là Không Ai Cả đã dẫn cô vào sâu trong lòng quả đồi, ở đó có một người đàn ông khắp mình xăm trổ tím ngắt hiện ra trong bóng tối nhưng thực ra ông ta chỉ là một con bù nhìn thôi. Họ cho cô bé một thanh kẹo sô cô la, lau mặt cho cô bé và hỏi xem người đàn ông xăm mình kia có đi xe máy không, trong khi bố mẹ của Scarlett, giờ đã hoàn hồn và không còn lo cho cô bé nữa, thì lại nổi giận với cô bé và với chính mình, rồi người nọ đổ lỗi cho người kia vì đã để cho cô con gái chạy chơi trong nghĩa địa, cho dù nó có là khu bảo tồn thiên nhiên đi chăng nữa, và rằng ngày nay đâu đâu cũng đầy rẫy nguy hiểm, nếu không để mắt đến con cái mình từng ly từng tí thì sẽ chẳng biết được chúng sẽ gặp phải những chuyện khủng khiếp gì. Nhất là một đứa bé như Scarlett.
Mẹ của Scarlett bắt đầu khóc nức nở, làm Scarlett cũng khóc theo, rồi một bà cảnh sát cãi nhau với bố của Scarlett, ông bảo với bà ta rằng chính tiền thuế do ông đóng đã được dùng để trả lương cho bà ta, và bà ta đáp lại rằng bà ta cũng đóng thuế và có lẽ tiền thuế ấy đã được dùng để trả lương cho chính ông, trong khi Bod ngồi trong bóng tối ở góc nhà thờ, không ai nhìn thấy, kể cả Scarlett, và nó quan sát, lắng nghe cho đến khi không chịu nổi nữa.
º º º
Trong nghĩa địa đã chập choạng tối, và chú Silas tìm thấy Bod đang ngồi ở khu giảng đường, nhìn xuống thành phố bên dưới. Chú đứng cạnh nó mà không nói gì, đúng như phong cách quen thuộc của chú.
"Đó không phải lỗi của bạn ấy," Bod nói. "Mà là lỗi của cháu. Thế mà bây giờ bạn ấy lại gặp rắc rối."
"Cháu đã dẫn cô bé đi đâu?" chú Silas hỏi.
"Xuống lòng quả đồi để xem ngôi mộ cổ nhất ạ. Nhưng ở đó chẳng có ai hết. Chỉ có một thứ giống như con rắn, tên là Sát thủ, đe dọa mọi người”
"Ly kỳ quá nhỉ”
Hai chú cháu cùng nhau đi xuống đồi, quan sát cánh cửa nhà thờ cũ lại bị khóa chặt và cảnh sát cùng Scarlett với bố mẹ cô bé rời đi, biến mất trong màn đêm.
"Cô Borrows sẽ dạy cháu các chữ viết liền nhau," chú Silas nói. "Cháu đã đọc quyển Chú mèo đội mũ chưa?"
"Rồi ạ," Bod đáp. "Cháu đọc từ lâu rồi. Chú đem thêm sách về cho cháu được không ạ?"
"Được chứ," chú Silas nói.
"Chú có nghĩ là cháu sẽ được gặp lại bạn ấy không?"
"Cô bé ấy à? Chú không nghĩ cháu sẽ gặp lại cô bé nữa đâu."
Nhưng chú Silas đã nhầm. Ba tuần sau, vào một buổi chiều xám xịt, Scarlett đi đến nghĩa địa, cùng cả bố lẫn mẹ.
Bố mẹ một mực bắt cô bé phải ở trong tầm mắt, tuy nhiên họ đi cách cô bé một quãng. Chốc chốc mẹ của Scarlett lại kêu lên chuyện này thật là bệnh hoạn, và thật tốt là họ sắp sửa vĩnh viễn bỏ lại tất cả những điều này.
Khi bố mẹ Scarlett quay sang nói chuyện với nhau, Bod liền lên tiếng, "Chào cậu."
"Chào," Scarlett lí nhí đáp.
"Tớ cứ nghĩ là sẽ không được gặp lại cậu nữa."
"Tớ bảo bố mẹ là tớ sẽ không đi nếu bố mẹ không đưa tớ đến đây một lần cuối cùng”
"Đi đâu cơ?"
"Scotland. Ở đấy có trường đại học. Có chỗ cho bố tớ dạy vật lý hạt nhân."
Hai đứa cùng nhau đi một quãng, cô bé trong chiếc áo khoác màu da cam rực rỡ còn cậu bé trong tấm vải liệm màu xám.
"Scotland cách đây xa không?"
"Có," cô bé đáp.
"Ồ."
"Tớ đã mong là cậu sẽ có ở đây. Để chào tạm biệt."
"Lúc nào tớ cũng ở đây mà."
"Nhưng cậu không phải người chết, phải không, Nobody Owens?"
"Tất nhiên là không rồi."
"Vậy đấy, cậu không thể ở đây cả đời được. Phải không? Một ngày kia cậu sẽ lớn lên, khi ấy cậu sẽ phải ra sống ở thế giới bên ngoài”
Nó lắc đầu. "Ở ngoài ấy với tớ không an toàn”
"Ai bảo thế?"
"Chú Silas. Gia đình tớ. Tất cả mọi người”
Cô bé không nói gì.
Bố cô bé gọi, "Scarlett! Đi thôi, cưng. Đến giờ rồi. Con đã được đến nghĩa địa một lần cuốỉ. Giờ mình về nhà thôi”
Scarlett nói với Bod, "Cậu rất dũng cảm. Cậu là người dũng cảm nhất tớ từng biết, và cậu là bạn tớ. Cho dù cậu có là người tưởng tượng đi chăng nữa thì cũng chẳng sao." Rồi cô bé chạy xuôi con đường, trở về với bố mẹ mình, trở về với thế giới bên ngoài.