← Quay lại trang sách

Chương 3 BẦY KHUYỂN BINH CỦA CHÚA

TRONG MỖI KHU NGHĨA ĐỊA ĐỀU CÓ MỘT NGÔI MỘ thuộc bọn quỷ nhập tràng. Nếu đi lang thang trong nghĩa địa đủ lâu thì bạn sẽ tìm thấy nó - một ngôi mộ lớn, ẩm mốc, với tấm bia nứt rạn hoặc vỡ nát, xung quanh là những búi cỏ lởm chởm hoặc cây dại um tùm, và khi đến gần, bạn sẽ thấy nó toát lên cảm giác hoang phế. Tấm bia mộ cũng lạnh lẽo hơn những bia mộ khác, tên khắc trên bia thường không đọc nổi nữa. Nếu trên ngôi mộ có một bức tượng thì nó thường bị mất đầu, hoặc bị rêu phong và địa y bám dầy đến nỗi nom chẳng khác nào một cục nấm mốc khổng lồ. Nếu trong nghĩa địa có một nấm mồ nom như nó luôn bị phá hoại lặt vặt, đó chính là cánh cổng của quỷ nhập tràng. Nếu ngôi mộ ấy khiến cho bạn cảm thấy muốn được ở một nơi nào khác, đó chính là cánh cổng của quỷ nhập tràng.

Trong nghĩa địa của Bod có một nấm mồ như thế.

Trong nghĩa địa nào cũng có một nấm mồ như thế.

º º º

Chú Silas sắp rời nghĩa địa.

Bod đã rất buồn bực khi mới nghe tin này. Giờ thì nó không buồn nữa. Nó đang tức giận vô cùng.

"Nhưng tại sao ạ?" Bod hỏi.

"Chú đã nói rồi. Chú cần tìm hiểu một số thông tin. Để làm được điều đó thì chú phải đi xa. Mà để đi xa được thì chú phải rời khỏi đây. Chú cháu mình đã nói về việc này rồi mà."

''Nhưng có việc gì quan trọng đến nỗi chú phải đi?" Đầu óc một chú bé lên sáu của Bod cố tưởng tượng xem điều gì có thể khiến chú Silas muốn rời bỏ nó, nhưng nó không thể. "Thật không công bằng!".

Người bảo trợ của nó vẫn không bị lay chuyển. "Đây không phải chuyện công bằng hay không, No-body Owens ạ. Nó phải xảy ra như thế thôi”

Bod chẳng hề thấy ấn tượng. "Chú là người trông nom cháu. Chú đã hứa rồi mà."

"Với tư cách người bảo trợ, chú có trách nhiệm với cháu, đúng thế. Nhưng may mắn thay, chú không phải người duy nhất trên đời sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm ấy."

"Chú định đi đâu thế?"

"Ra ngoài. Đi xa. Có những điều cần khám phá mà chú không thể khám phá ở đây được."

Bod khịt mũi bỏ đi, co chân đá những hòn sỏi tưởng tượng. Ở phía Tây Bắc nghĩa địa, cỏ dại mọc quá um tùm, người trông coi nghĩa địa cùng hội Bằng Hữu Của Nghĩa dịa không đủ sức chế ngự chúng nữa, và thằng bé liền lang thang đến đó, đánh thức mấy đứa trẻ sống vào thời Victoria, tất cả đều mất trước khi tròn mười tuổi, rồi chúng chơi trốn tìm dưới ánh trăng, trong khu rừng rậm đầy dây trường xuân ấy. Bod cố ra vẻ như chú Silas sẽ không rời đi, mọi sự sẽ không hề thay dổi, nhưng khi chúng chơi xong và nó chạy về ngôi nhà thờ cũ, thì Bod trông thấy hai thứ khiến nó phải đổi ý.

Thứ đầu tiên là một chiếc túi. Ngay khi nhìn thấy, Bod đã biết đó là túi của chú Silas. Cái túi ít ra cũng phải một trăm năm mươi tuổi, một vật tuyệt đẹp làm bằng da đen bóng với những cái khóa bằng đồng và tay xách màu đen, loại túi mà một bác sĩ hoặc một ông chủ hiệu đám tang thời Victoria thường mang theo, bên trong đựng tất cả những gì họ cần. Bod chưa bao giờ nhìn thấy túi của chú Silas, nó thậm chí còn không biết chú Silas có một cái, nhưng cái túi như thế thì chỉ có thể thuộc về chú Silas mà thôi. Bod toan nhòm vào trong, nhưng túi đã bị khóa chặt bởi một chiếc khóa móc bằng đồng. Cái túi lại quá nặng, nó không thể nhấc lên được.

Đó là thứ đầu tiên.

Còn cái thứ hai thì đang ngồi trên chiếc ghế dài bên cạnh nhà thờ.

"Bod," chú Silas nói, "đây là cô Lupescu."

Cô Lupescu chẳng xinh đẹp chút nào. Mặt cô nhăn nhúm, nét mặt khó đăm đăm. Cô có mái tóc bạc, mặc dù khuôn mặt cô nom vẫn còn trẻ. Hai chiếc răng cửa của cô hơi xiên xẹo. Cô mặc cái áo mưa rộng thùng thình và mang trên cổ chiếc cà vạt đàn ông.

"Chào cô ạ, thưa cô Lupescu," Bod nói.

Cô Lupescu không nói gì. Cô khịt mũi. Rồi cô nhìn chú Silas và nói, "Vậy đấy. Thì ra đây là thằng bé đó." Cô đứng dậy khỏi ghế, đi vòng quanh Bod, lỗ mũi phình ra như thể muốn đánh hơi nó. Khi đã đi đủ một vòng, cô nói, "Trò phải đến báo cáo với ta vào lúc thức dậy và trước khi đi ngủ. Ta đã thuê một phòng ở ngôi nhà đằng kia." Cô chỉ về một mái nhà lờ mờ xa xa, từ chỗ họ đứng chỉ thoáng trông thấy được. "Nhưng ta sẽ ở trong nghĩa địa này. Ta đến đây với tư cách một nhà sử học, nghiên cứu lịch sử các nấm mộ cổ. Trò có hiểu không? Dạ?"

"Bod," Bod nói. "Tên em là Bod. Không phải là trò."

"Tên tắt của Nobody," cô nói. "Cái tên ngớ ngẩn. Hơn nữa, Bod là tên thân mật. Là biệt danh. Ta không ưa các biệt danh. Ta sẽ gọi trò là 'trò'. Trò phải gọi ta là 'cô Lupescu'"

Bod nhìn chú Silas van vỉ, nhưng trên mặt chú không có một thoáng thông cảm nào. Chú xách túi lên rồi nói, "Cháu sẽ được cô Lupescu chăm sóc cẩn thận, Bod à. Chú dám chắc hai cô trò sẽ rất hòa thuận với nhau."

"Không đâu!" Bod kêu lên. "Cô ấy gớm lắm!"

"Cháu nói thế là rất bất lịch sự," chú Silas nói. "Cháu phải xin lỗi cô ấy đi."

Bod không chịu, nhưng chú Silas đang nhìn nó chăm chú với chiếc túi màu đen trong tay, sẵn sàng rời đi mà không biết đến bao giờ mới quay về, vì vậy nó đành nói, "Em xin lỗi, thưa cô Lupescu."

Mới đầu cô Lupescu không đáp lại. Cô chỉ khịt mũi. Rồi cô nói, "Ta đã đi một quãng đường dài để đến đây chăm sóc trò. Ta hy vọng trò xứng đáng với công sức ta bỏ ra."

Bod không thể nghĩ đến chuyện ôm chú Silas, vì vậy nó chìa tay ra và chú Silas cúi xuống nhẹ nhàng bắt tay nó, bàn tay to lớn, xanh xao của chú nắm gọn lấy bàn tay nhỏ bé, đầy vết bẩn của nó. Rồi chú nhấc chiếc túi da màu đen lên như thể nó chẳng nặng chút nào, bước xuống lối đi và ra khỏi nghĩa địa.

Bod kể lại mọi chuyện cho bố mẹ nghe.

"Chú Silas đi rồi," nó bảo.

"Chú ấy sẽ quay về thôi," ông Owens vui vẻ nói. "Con đừng lo, Bod à. Silas luôn xuất hiện vào lúc ta ít ngờ nhất, như người ta thường nói ấy."

Bà Owens thì bảo, "Khi con mới ra đời chú ấy đã hứa với bố mẹ là nếu phải rời đi, chú ấy sẽ tìm người đem thức ăn về và để mắt coi chừng con, và chú ấy đã làm đúng như thế. Chúng ta có thể tin cậy chú ấy."

Đúng là chú Silas đã đi kiếm và để thức ăn trong hầm mộ hàng đêm cho nó, nhưng theo như Bod nghĩ, thì đó là điều ít đáng kể nhất trong số những điều chú Silas làm cho nó. Chú cho nó những lời khuyên sáng suốt, rành mạch và luôn đúng đắn; chú hiểu biết hơn người dân trong nghĩa địa, vì nhờ những chuyến du hành hàng dêm ra thế giới bên ngoài mà chú có thể miêu tả cho nó một thế giới hiện tại chứ không phải thế giới của hàng trăm năm trước; chú là người đáng tin cậy, không bao giờ mất bình tĩnh, đêm nào chú cũng có mặt bên cạnh Bod nên thằng bé không thể tin được ngôi nhà thờ nhỏ đã vắng đi cư dân duy nhất; và hơn hết thảy, chú khiến Bod cảm thấy an toàn.

Cô Lupescu cũng hiểu rằng nhiệm vụ của mình không chỉ là đem thức ăn đến cho Bod. Nhưng dù sao thì cô vẫn mang thức ăn đến.

"Cái gì thế ạ?" Bod kinh hoàng hỏi.

"Thức ăn bổ dưỡng," cô Lupescu nói. Họ đang ở trong hầm mộ. Cô đã đặt lên bàn hai cái hộp nhựa rồi mở nắp ra. Cô chỉ cái hộp thứ nhất: "Đây là món xúp gồm củ cải đường hầm và lúa mạch” Cô chỉ vào cái hộp thứ hai. "Đây là rau trộn. Giờ thì trò ăn hết cả hai đi. Ta nấu cho trò đấy."

Bod trố mắt nhìn cô để xem liệu cô có nói đùa không. Thức ăn chú Silas đem về cho nó thường đựng trong túi bóng kính, được mua từ những nơi bán thức ăn đêm và nó không phải thắc mắc gì. Chưa ai từng đem cho nó thức ăn đựng trong hộp nhựa có nắp. "Mùi kinh quá ạ," nó nói.

"Nếu trò không ăn món xúp rau hầm ngay thì nó sẽ còn kinh hơn đấy," cô nói. "Nó sẽ nguội mất. Giờ thì ăn đi."

Bod đã đói meo. Nó cầm cái thìa nhựa lên, xúc một thìa xúp màu đỏ tía, rồi cho vào miệng. Món xúp lầy nhầy và lạ miệng, nhưng nó vẫn nuốt xuống.

"Giờ thì món rau trộn!" cô Lupescu nói, và mở nắp hộp thứ hai ra. Trong hộp gồm những miếng hành sống to tướng, củ cải đường và cà chua, tất cả thấm đẫm một thứ nước sốt chua như giấm. Bod cho một miếng củ cải đường vào miệng cố nhai. Nó có thể cảm thấy nước bọt đang tứa ra trong miệng, và hiểu rằng nếu không nuốt cái món này xuống thì nó sẽ nôn ra mất. Nó nói, "Em không thể ăn những thứ này được."

"Chúng rất tốt cho sức khỏe của trò."

"Em sẽ nôn ra mất."

Họ nhìn nhau chằm chằm, chú nhóc nhỏ bé với mái tóc nâu rối bù và người phụ nữ mặt nhăn nhúm, mái tóc bạc chải mượt không vương ra ngoài lấy một sợi. Cô Lupescu nói, "Trò ăn thêm một miếng nữa đi."

"Em không thể."

"Trò phải ăn thêm một miếng nữa, không thì sẽ phải ngồi lại đây cho đến khi ăn hết mới thôi."

Bod chọn một miếng cà chua đẫm nước sốt chua loét, nhai rồi nuốt vội nuốt vàng. Cô Lupescu đóng nắp hộp lại và bỏ chúng vào cái túi ni lông. Cô nói, "Bây giờ đến giờ học."

Đang là giữa mùa hè. Phải đến gần nửa đêm trời mới tối hẳn. Vào giữa hè Bod không phải học hành gì hết - những lúc không phải đi ngủ thì nó chỉ lang thang khắp nơi trong ánh sáng chạng vạng ấm áp tưởng chừng không bao giờ tắt, chơi đùa, trèo cây hoặc đi thám hiểm.

"Giờ học ạ?" nó hỏi.

"Người bảo trợ của trò nghĩ rằng ta nên dạy cho trò một số điều”

"Em có thầy cô giáo mà. Cô Letitia Borrows dạy em đọc và viết, thầy Pennyworth dạy em Hệ thống Giáo dục Hoàn hảo Cho Các Chàng trai, kèm theo Tài liệu Phụ trương Cho Người Chết. Em được học địa lý và tất cả các môn khác nữa. Em không cần học thêm cái gì nữa cả."

"Như vậy có nghĩa là trò đã biết hết mọi thứ rồi hay sao? Mới sáu tuổi đầu mà đã biết hết tất cả."

"Em có nói thế đâu."

Cô Lupescu khoanh tay lại. "Hãy cho ta biết về quỷ nhập tràng”

Bod cố nhớ lại những gì chú Silas đã kể cho nó nghe về quỷ nhập tràng trong suốt mấy năm qua. "Hãy tránh xa chúng” nó nói.

"Trò chỉ biết có thế thôi sao? Dạ? Tại sao lại phải tránh xa chúng? Chúng từ đâu đến? Chúng đi về đâu? Tại sao không được đứng gần lối ra vào của quỷ nhập tràng? Trò có biết không?"

Bod nhún vai và lắc đầu.

"Hãy cho ta biết tên các giống người” cô Lupescu nói. "Ngay bây giờ."

Bod ngẫm nghĩ một lát. "Người sống," nó nói. "Ờ.. Người chết." Nó ngừng lại. Rồi sau đó, "... Mèo nữa ạ?" nó đánh liều nói.

"Trò quả là dốt nát," cô Lupescu nói. "Thật tồi tệ. Và trò bằng lòng với sự dốt nát ấy, như vậy còn tồi tệ hơn. Hãy nhắc lại lời ta đây, có người sống và người chết, người âm và người dương, có quỷ nhập tràng và người sương mù, có thợ săn tối cao và Bầy Khuyển Binh của Chúa. Ngoài ra còn có cả loại người cô độc nữa."

"Thế cô thuộc loại người nào?" Bod hỏi.

"Ta là cô Lupescu," cô nghiêm khắc đáp lại.

"Thế còn chú Silas ạ?"

Cô ngần ngừ một thoáng. Rồi cô trả lời, "Anh ta là loại sống cô độc."

Bod cố chịu đựng bài học. Khi chú Silas dạy nó học, mọi thứ đều rất thú vị. Phần lớn thời gian Bod thậm chí còn không nhận ra là mình đang được dạy nữa. Nhưng cô Lupescu thì lại dạy nó bằng các danh mục, và Bod chẳng hiểu nó phải học những thứ ấy mà làm gì. Nó ngồi trong hầm mộ, lòng mong mỏi được chạy chơi ở ngoài kia trong ánh hè chạng vạng, dưới vầng trăng mờ ảo.

Khi đã học xong, trong người hết sức cáu bẳn, nó chạy ra ngoài. Nó tìm bạn chơi nhưng chẳng thấy ai, và nó chẳng thấy gì khác ngoàỉ một con chó lớn màu xám đang lảng vảng quanh những ngôi mộ, luôn ở cách Bod một quãng xa, thoắt ẩn thoắt hiện giữa các tấm bia và trong bóng tối.

Cái tuần đó càng lúc càng tồi tệ.

Cô Lupescu tiếp tục đem đến cho Bod những món cô nấu riêng cho nó: những cái bánh bao ngập mỡ; món xúp đặc quánh màu đỏ tía với một cục kem váng sữa ở giữa; những củ khoai tây nhỏ luộc nguội ngắt; xúc xích nguội dầy tỏi; trứng luộc lềnh bềnh trong một thứ nước xam xám nhìn đã chẳng muốn ăn. Bod cố ăn ít chừng nào hay chừng ấy. Các bài học vẫn tiếp tục: suốt hai ngày liền cô chẳng dạy nó cái gì ngoài cách kêu cứu bằng tất cả mọi thứ tiếng trên thế giới, và nếu nó nhầm hoặc quên thì cô lấy bút gõ lên đốt ngón tay nó.

Sang đến ngày thứ ba thì cô bắt đầu hỏi nó tới tấp.

"Tiếng Pháp?"

"Au secours "Mã Moóc?"

"S-O-S. Ba chấm ngắn, một chấm dài, rồi lại ba chấm ngắn."

"Dạ điểu?"

"Thật ngớ ngẩn. Em thậm chí còn chẳng nhớ dạ điểu là cái gì nữa cơ."

"Chúng có đôi cánh không có lông, chúng bay rất nhanh và thấp. Chúng không xuất hiện ở thế giới này, mà bay lượn trên bầu trời đỏ rực bên trên con đường dẫn đến Thành Quỷ”

"Em sẽ chẳng cần biết đến cái đó mà làm gì."

Miệng cô Lupescu mím chặt hơn. Cô nhắc lại, "dạ điểu?"

Bod phát ra một âm thanh trong cổ họng giống như cô Lupescu đã dạy - một tiếng kêu trầm trầm giống tiếng đại bàng. Cô khịt mũi. ''Cũng tạm được " cô nói.

Bod hết lòng mong ngóng ngày chú Silas quay về.

Nó nói, "Thỉnh thoảng em trông thấy trong nghĩa địa có một con chó to màu xám. Có phải chó của cô không ạ?"

Cô Lupescu chỉnh lại chiếc cà vạt. "Không” cô nói.

"Bài học đã xong chưa ạ?"

"Hôm nay thì xong rồi. Tối nay trò phải đọc hết danh sách ta giao và học thuộc lòng để ngày mai nhắc lại."

Các danh sách của cô Lupescu được in bằng mực màu tím nhạt trên giấy trắng, và chúng có mùi rất lạ. Bod đem cái danh sách mới lên sườn đồi cố ngồi đọc, nhưng nó không thể tập trung nổi. Cuối cùng nó gộp tờ giấy lại và nhét xuống dưới một tảng đá.

Đêm đó chẳng ai ra chơi với nó cả. Không ai muốn chơi, nói chuyện, chạy nhảy hay trèo cây bên dưới vầng trăng mùa hạ khổng lồ kia.

Nó quay về mộ của nhà Owens để nhõng nhẽo với bố mẹ, nhưng bà Owens không chịu nghe một từ nào nói xấu cô Lupescu, mà theo Bod nghĩ là chỉ dựa vào một lý do không chính đáng đó là chú Silas đã chọn cô, trong khi ông Owens thì chỉ nhún vai rồi kể cho Bod nghe cái thời ông còn là một chú thợ mộc tập sự, và ông sẽ rất vui sướng nếu được học những điều có ích như Bod đang được học bây giờ, và theo Bod nghĩ thì những câu chuyện vớ vẩn của ông còn tệ hơn.

"Mà lẽ ra con phải học bài đi chứ, đúng không?" bà Owens hỏi. Bod siết chặt hai nắm đấm, không nói gì.

Nó dằn dỗi đi vào nghĩa địa, cảm thấy chẳng được ai yêu thương hay để ý.

Bod nghiền ngẫm về sự bất công của tất thảy những điều đó và lang thang khắp nghĩa địa, chân đá cát sỏi bay tứ tung. Nó trông thấy con chó màu xám sẫm liền thử gọi xem con chó có chịu đến chơi với nó không, nhưng con chó vẫn đứng cách xa nó, và Bod bực tức bốc một nắm bùn ném về phía con chó. Nắm bùn đập vào một tấm bia mộ gần đó, đất bắn tung tóe. Con chó to lớn đưa mắt nhìn Bod vẻ trách móc, rồi bước vào bóng tối và biến mất.

Thằng bé quay xuống phía Tây Nam quả đồi, tránh xa ngôi nhà thờ cũ: nó không muốn nhìn thấy cái nơi không có chú Silas. Bod dừng lại bên một ngôi mộ nom cũng thật phù hợp với cảm giác trong lòng nó lúc này: ngôi mộ nằm dưới bóng một cây sồi đã bị sét đánh, giờ chỉ còn lại thân cây cháy xém, tựa như một chiếc móng vuốt chìa lên khỏi quả đồi; bản thân ngôi mộ thì cũng ẩm mốc, rạn nứt hết cả, và bên trên ngôi mộ có một tấm bia tưởng niệm với bức tượng thiên thần cụt đầu đứng chỏng chơ, chiếc áo choàng của bức tượng rủ xuống như một mảng rêu xấu xí khổng lồ.

Bod ngồi trên một cụm cỏ, cảm thấy vô cùng tủi thân và ghét tất cả mọi người. Nó thậm chí còn ghét cả chú Silas vì đã bỏ đi, để nó lại một mình. Rồi nó nhắm mắt lại, nằm cuộn tròn trên bãi cỏ, và thiếp vào một giấc ngủ nặng nề.

º º º

Phía dưới con đường, từ chân đồi đi lên, là ngài Công tước Westminster, Thẩm phán Archibald Fitzhugh cùng Giám mục vùng Bath và Wells, nhảy nhót từ khoảng bóng tối này sang khoảng bóng tối khác, thân mình dài ngoẵng chỉ toàn da và gân cốt, đóng trong những bộ quần áo rách tả tơi, và chúng nhún bước, nhảy cẫng, lẩn lút trên đường, chơi nhảy cừu trên những thùng rác, nhưng luôn bám theo phía hàng rào tối đen.

Chúng rất bé nhỏ, giống như người bình thường bị quắt lại do phơi nắng lâu ngày; chúng thì thào nói với nhau những câu đại loại như, "Nếu ngài Công tước có ý tưởng nào hay hơn của chúng ta về nơi chúng ta đang đi đây, thì tôi sẽ xin được tạ ơn ngài. Còn không thì ngài hãy ngậm cái mồm thối của mình lại” và "Thưa ngài Thẩm phán, tôi chỉ định nói rằng tôi biết gần đây có một cái nghĩa địa, tôi đã ngửi thấy mùi của nó," và "Nếu ngài ngửi thấy mùi nghĩa địa thì tôi cũng phải ngửi thấy chứ, tôi có cái mũi thính hơn ngài nhiều, thưa Công tước."

Chúng vừa nói chuyện vừa luồn lách uốn mình xuyên qua những khu vườn ngoại ô. Chúng tránh xa một khu vườn ("Suỵt!" Thẩm phán Archibald Fitzhugh khẽ nói. "Có chó!") và chạy trên nóc tường bao quanh vườn, lướt đi như những con chuột to bằng đứa trẻ.

Chúng xuống phố chính, rồi lên con đường dẫn tới đỉnh dồi. Thế rồi chúng đến bên tường nghĩa địa, thoăn thoát trèo lên như sóc trèo cây, và chúng đánh hơi không khí.

"Chó canh," Công tước Westminster nói.

"Ở đâu? Tôi chịu. Đâu đó quanh đây. Nhưng cũng không giống mùi chó cho lắm” Giám mục vùng Bath và Wells nói.

"Có người nào cũng không ngửi thấy mùi cái nghĩa địa này ấy nhỉ?" Thẩm phán Archibal Fitzhugh nói. "Nhớ không? Chỉ là một con chó thôi."

Bọn chúng nhảy từ trên tường xuống đất, rồi chạy, dùng cả tay lẫn chân để đẩy mình về phía trước, xuyên qua nghĩa địa tiến về phía cánh cổng của quỷ nhập tràng ở chỗ cây sồi bị sét đánh.

Và bên cạnh cánh cổng, dưới ánh trăng, chúng dừng lại.

"Cái gì đây?" Giám mục vùng Bath và Wells hỏi.

"Trời ơi," Công tước xứ Westminster thốt lên.

Bod thức giấc.

Ba khuôn mặt đang cúi xuống nhìn nó trông như mặt xác ướp, khô đét, không còn tí thịt nào, nhưng những đường nét thì vẫn còn cử động đầy vẻ tò mò - những cái miệng nhăn nhở cười, để lộ mấy chiếc răng nhọn tí vàng; những con mắt nhỏ sáng quắc; những ngón tay có móng dài đang gõ gõ.

"Các ông là ai?" Bod hỏi.

“Chúng ta là những người vô cùng quan trọng," một trong những sinh vật ấy đáp - Bod nhận thấy chúng chỉ nhỉnh hơn nó một chút. "Đây là ngài Công tước xứ Westminster."

Kẻ to lớn nhất trong số ba sinh vật kia cúi đầu chào và nói, "Rất hân hạnh."

"... còn đây là ngài Giám mục vùng Bath và Wells..."

Sinh vật đó, miệng đầy răng sắc lẻm và lưỡi thì nhọn, dài đến kỳ dị, thò ra thụt vào, nom chẳng giống một ngài giám mục trong trí tưởng tượng của Bod chút nào: da hắn ta lốm đốm và có vệt màu sẫm ở một bên mắt, trông gần giống một tên cướp biển. "... còn ta thì được vinh dự là ngài Thẩm phán Harchibal Fitzhugh. Xin sẵn sàng phục vụ cậu."

Ba sinh vật đó đồng loạt cúi chào. Ngài Giám mục vùng Bath và Wells nói, "Chàng trai, chuyện của cậu là thế nào? Mà không được nói dối đâu đấy nhé, hãy nhớ là cậu đang nói chuyện với một ngài giám mục."

"Đúng thế đấy, thưa ngài Giám mục” hai sinh vật kia phụ họa.

Vậy là Bod kể lại mọi chuyện cho chúng nghe. Nó kể với chúng rằng chẳng có ai yêu quý hay muốn chơi với nó, chẳng ai để ý đến nó, quan tâm đến nó, thậm chí cả người bảo trợ của nó cũng bỏ mặc nó.

"Thật đáng tiếc," Công tước xứ Westminster nói, gãi gãi mũi (một vật nhỏ xíu khô đét, chỉ còn toàn lỗ mũi). "Cái cậu cần bây giờ là đến một nơi nào khác, nơi có những người biết trân trọng cậu."

"Chẳng có nơi nào khác cả," Bod nói. "Với lại tôi không được phép ra khỏi nghĩa địa”

"Cậu cần một thế giới có những người bạn chơi và bằng hữu” Giám mục vùng Bath và Wells nói, cái lưỡi dài ngó ngoáy trong miệng. "Một thành phố của những kỳ quan, những trò vui thú và những điều kỳ điệu, một nơi cậu sẽ được trân trọng chứ không phải bị bỏ mặc như thế này."

Bod nói, "Cái cô đang chăm sóc cho tôi ấy. Cô ấy nấu những món ăn khiếp lắm. Xúp trứng luộc và các thứ đại loại thế."

"Thức ăn ấy à!" Thấm phán Archibald Fitzhugh kêu lên. "Nơi chúng ta đang đến đây có những món ăn ngon nhất trên đời. Chỉ nghĩ đến thôi là bụng ta đã sôi réo và miệng ta đã tứa nước miếng ra rồi."

"Tôi đi cùng các ông được không?"

"Đi cùng chúng ta ấy à?" Công tước xứ Westmin-ster kêu lên. Ông ta nghe có vẻ sững sờ.

"Đừng có thế chứ, ngài Công tước," Giám mục vùng Bath và Wells nói. "Hãy rộng lòng một chút nào. Nhìn thằng bé mà xem. Không biết đã bao lâu rồi nó chưa được ăn một bữa cho ra hồn."

"Ta đồng ý cho nó đi cùng," Thẩm phán Archibald Fitzhugh nói. "Ở chỗ chúng ta có nhiều thức ăn ngon lắm." Ngài vỗ vỗ bụng như để chứng tỏ thức ăn ngon đến mức nào.

"Được thôi. Cậu muốn làm một cuộc phiêu lưu mạo hiểm không?" Công tước xứ Westminster, đã bị chinh phục bởi cái ý tưởng lạ đời ấy, liền hỏi. "Hay cậu muốn bỏ phí cả đời mình ở cái nơi này?" Ngài đưa ngón tay xương xẩu chỉ khu nghĩa địa và bóng tối.

Bod nghĩ đến cô Lupescu cùng những món ăn kinh khủng, những danh sách dài dằng dặc và cái miệng mím chặt của cô.

"Tôi muốn phiêu lưu” nó nói.

Mặc dù ba người bạn mới của Bod không to lớn hơn nó là bao, nhưng chúng khỏe hơn trẻ con nhiều, và Bod thấy mình được Giám mục vùng Bath và Wells nhấc bổng lên cao quá đầu, trong khi Công tước xứ Westminster nắm lấy một túm cỏ xơ xác đoạn hét to mấy tiếng nghe như là "Skagh! Thegh! Khavagah!" rồi nhổ túm cỏ lên. Phiến đá phẳng nằm trên nấm mồ mở ra như một cánh cửa sập, để lộ một khoảng bóng tối đen ngòm bên dưới.

"Nhanh lên nào” Công tước giục giã, thế là ngài Giám mục vùng Bath và Wells liền quẳng Bod vào cửa hang tối mò mò ấy, rồi nhảy theo nó, tiếp đến là ngài Thẩm phán Archibald Fitzhugh, rồi cuối cùng, bằng một cú nhảy nhẹ nhàng, là Công tước xứ Westminster, vừa vào bên trong đã hét to, "Wegh Khârado!" để đóng cánh cổng của quỷ nhập tràng lại, và tảng đá sập xuống trên đầu chúng.

Bod ngã xuống, lăn lông lốc trong bóng tối như một viên sỏi, kinh ngạc đến nỗi không kịp sợ nữa, trong bụng đang băn khoăn không biết cái hố bên dưới nấm mồ này sâu tới đâu, thì bỗng có hai cánh tay khỏe khoắn túm lấy nách nó, và nó thấy mình được quăng về phía trước, xuyên qua màn đêm đen như mực.

Đã từ nhiều năm nay Bod chưa bao giờ trông thấy bóng tối thực sự. Trong nghĩa địa, nó vẫn nhìn được như những người chết khác, và đối với nó, không cái huyệt, không ngôi mộ hay cái lăng nào là hoàn toàn tăm tối cả. Thế mà giờ đây nó lại đang ở trong bóng tối sâu thẳm, cảm thấy mình bị ném về phía trước bằng một loạt những cú đẩy mạnh và những động tác đột ngột, với tiếng gió vun vút bên tai. Thật đáng sợ, nhưng cũng thật mê ly.

Thế rồi ánh sáng hiện ra, và mọi thứ đều thay đổi.

º º º

Bầu trời ở đây đỏ quạch, nhưng không phải màu đỏ ấm áp lúc mặt trời lặn. Đây là màu đỏ nhức nhối, đầy giận dữ, như màu của một vết thương bị viêm tấy. Mặt trời rất nhỏ, nom tựa một vật cổ xưa và xa vời. Không khí buốt lạnh, và chúng đang trèo xuống một bức tường. Bia mộ và đủ các loại tượng nhô ra từ bức tường này, tựa như cả một nghĩa địa khổng lồ đã bị lộn ngược, trong khi Công tước xứ Westminster, Giám mục vùng Bath và Wells, cùng Thẩm phán Archibald Fitzhugh đu mình từ bia mộ này sang bức tượng kia, chẳng khác nào ba con đười ươi nhăn nhúm trong những bộ quần áo đen rách rưới khâu túm lại sau lưng, vừa trèo vừa kéo theo Bod lơ lửng, chuyền nó từ người này sang người kia, không bao giờ để tuột tay, luôn luôn bắt được nó một cách dễ dàng mà không cần phải đưa mắt nhìn.

Bod cố ngước lên để xem có thấy nấm mồ nơi cả bọn đã chui qua để đến với cái thế giới kỳ lạ này không, nhưng nó chẳng thấy gì ngoài hằng hà sa số bia mộ.

Nó tự hỏi không biết có phải mỗi ngôi mộ kia đều là một cánh cửa cho những sinh vật như ba sinh vật đang kéo nó theo đây không...

"Chúng ta đang đi đâu đấy?" nó hỏi, nhưng tiếng nó bị gió thổi bạt đi mất.

Chúng đi mỗi lúc một nhanh hơn. Phía trước mặt, Bod trông thấy một bức tượng mở ra, và hai sinh vật khác từ trong đó tiến vào cái thế giới với bầu trời đỏ ngầu này, trông cũng giống như ba sinh vật đang mang theo Bod. Một con mặc áo dài lụa rách bươm, trước kia có lẽ đã từng có màu trắng, con kia mặc một bộ com lê màu xám bẩn thỉu rộng thùng thình, hai ống tay chỉ còn là hai mớ giẻ tơi tả. Khi trông thấy Bod cùng ba người bạn mới của nó, chúng liền xông đến, nhảy một cú từ độ cao sáu mét mà chẳng hề hấn gì.

Công tước xứ Westminster ré lên một tiếng khàn đục, giả vờ sợ hãi, và Bod cùng ba bọn chúng lao xuống bức tường bia mộ, hai sinh vật mới đến đuổi theo sát nút. Dưới bầu trời đỏ quạch với vầng mặt trời tàn tạ rọi xuống đầu như một con mắt chết, không con nào tỏ ra mệt mỏi hay hết hơi, nhưng cuối cùng chúng cũng dừng lại bên cạnh bức tượng hình một con vật khổng lồ với bộ mặt đã biến thành một cục nấm mốc. Bod được giới thiệu với Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ và Hoàng đế Trung Hoa.

"Đây là cậu Bod," Giám mục vùng Bath và Wells nói. "Cậu ấy sẽ nhập bọn với chúng ta đấy."

"Cậu ấy đang muốn một bữa ăn ra trò” Thẩm phán Archibald Fitzhugh nói.

"Đảm bảo cậu sẽ được ăn uống thỏa thuê khi nhập bọn với chúng ta, cậu bé ạ," Hoàng đế Trung Hoa bảo.

"Chính thế” Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ đồng tình.

Bod hỏi, "Tôi nhập bọn với các ông? Ý ông là khi tôi biến thành một người như các ông ấy à?"

"Chú nhóc này láu tôm láu cá, khôn ranh lắm, muốn đánh lừa được cậu ấy không dễ đâu” Giám mục vùng Bath và Wells nói. "Đúng thế. Một người trong số chúng ta. Cũng khỏe mạnh, nhanh nhẹn, vô song, chẳng khác nào chúng ta."

"Với hàm răng khỏe đến nỗi có thể nghiền nát bất kỳ khúc xương nào, với cái lưỡi dài nhọn có thể liếm sạch tủy trong cái xương ống sâu nhất, hoặc lột sạch da thịt trên mặt một anh béo," Hoàng đế Trung Hoa nói.

"Có thể lẩn từ bóng tối này sang bóng tối khác, không bao giờ bị trông thấy, không bao giờ bị nghi ngờ. Tự do như không khí, nhanh nhẹn như ý nghĩ, lạnh lẽo như sương giá, cứng rắn như đinh sắt, nguy hiểm như, như chúng ta," Công tước Westminster nói.

Bod nhìn những sinh vật ấy. "Nhưng nếu tôi không muốn trở thành một người trong các ông thì sao?"

"Không muốn ấy à? Tất nhiên là cậu muốn chứ! Còn gì có thể tuyệt hơn được nữa? Ta không nghĩ rằng trên toàn thế vũ trụ này lại có kẻ không muốn được trở thành y hệt như chúng ta."

"Chúng ta có thành phố đẹp nhất..."

"Thành Quỷ” Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ nói.

"Cuộc đời vui thú nhất, thức ăn ngon lành nhất..”

"Cậu có biết” Giám mục vùng Bath và Wells ngắt lời, "thứ nước đen rỉ ra từ các quan tài bọc chì là thức uống ngon lành đến mức nào không? Hay cậu có thể tưởng tượng được cảm giác sẽ như thế nào khi ta trở nên quan trọng hơn cả vua chúa, hơn cả tổng thống hay thủ tướng hay các anh hùng, khi biết chắc về tầm quan trọng đó, cũng giống như tầm quan trọng của con người khi đem so sánh với cây cải mầm?"

Bod hỏi, "Nhưng các ông là loại người gì?"

"Quỷ nhập tràng," Giám mục vùng Bath và Wells đáp. "Trời ơi, có người đã, chẳng hề chú ý gì cả, phải không nào? Chúng ta,là quỷ nhập tràng."

"Nhìn kìa!"

Dưới chân chúng, cả một đoàn những sinh vật bé nhỏ đang nhảy nhót chạy tới, tiến về lối đi bên dưới và chưa kịp nói nửa lời thì Bod đã bị một đôi tay xương xẩu xốc lên, bị ném qua không trung bằng một loạt những cú nhảy và xô đẩy, trong khi các sinh vật nọ lao xuống để gặp đồng loại của chúng.

Chúng đã xuống đến gần cuối bức tường bia mộ và phía trước hiện ra một con đường, không có gì khác ngoài con đường ấy, một lối mòn đã bị không biết bao nhiêu bàn chân giẫm lên, xuyên qua một vùng đồng bằng trơ trụi, một sa mạc lởm chởm đá và xương cốt, uốn lượn dẫn đến một thành phố nằm cao tít bên trên một ngọn đồi đá đỏ, cách đó một quãng rất xa.

Bod đưa mắt nhìn thành phố ấy và cảm thấy kinh hoàng: bao trùm lên nó là một cảm giác pha trộn giữa ghê tởm với khiếp sợ, giữa kinh hãi với căm ghét, cùng một nỗi choáng váng khôn cùng.

Quỷ nhập tràng không biết xây dựng. Chúng chỉ là những con vật ăn bám, những kẻ bới tìm và ăn xác thối. Cái thành phố mà chúng gọi là Thành Quỷ là nơi chúng đã tìm thấy cách đây rất lâu rồi, chứ không phải do chúng xây dựng nên. Không ai biết (nếu có con người nào biết về sự tồn tại của Thành Quỷ) rằng loại sinh vật nào đã dựng nên những căn nhà ấy, đã đục vào đá những đường hầm và những tòa tháp lỗ chỗ như tổ ong, nhưng có một điều chắc chắn, đó là không ai khác ngoài bọn quỷ nhập tràng lại muốn sống ở đó, hay thậm chí là đến gần nơi đó.

Ngay từ con đường bên dưới Thành Quỷ, ngay từ khi còn ở cách một quãng xa, Bod đã nhận thấy mọi góc cạnh ở thành phố đó đều sai lệch hết - các bức tường đổ xiên đổ xẹo, dường như thành phố ấy được xây dựng nên bởi toàn bộ những cơn ác mộng mà nó từng phải chịu đựng, như một cái miệng khổng lồ với hàm răng chìa ra. Đó là một thành phố được dựng nên chỉ để rồi lại bị bỏ hoang, một thành phố nơi mọi nỗi sợ hãi, điên dại và kinh tởm của những sinh vật đã dựng nên nó đều được tạc vào đá. Bọn quỷ nhập tràng đã tìm thấy nó, thích nó, và gọi nó là quê nhà của chúng.

Quỷ nhập tràng di chuyển rất nhanh. Chúng bò dọc theo lối mòn xuyên qua sa mạc nhanh hơn cả chim kền kền bay, và Bod bị chúng kéo theo, bị xốc cao quá đầu trên những cánh tay quỷ khỏe mạnh, bị ném từ con quỷ này sang con quỷ khác, trong khi nó cảm thấy khổ sở, sợ hãi, và thất đảm, cảm thấy mình thật ngu ngốc.

Trên đầu chúng, giữa bầu trời đỏ lòm, có những sinh vật gì đó đang chao liệng trên những đôi cánh lớn màu đen.

"Cẩn thận đấy," Công tước xứ Westminster nói. "Giấu thằng bé đi. Đừng để bọn dạ điểu bắt được nó. Lũ ăn cắp chết tiệt."

"Đúng thế! Bọn ta ghét lũ ăn cắp!" Hoàng đế Trung Hoa hét lên.

Dạ điểu bay trên bầu trời đỏ rực ở Thành Quỷ... Bod hít một hơi thật sâu, rồi kêu tướng lên, giống như cô Lupescu đã dạy. Nó phát ra một tiếng kêu như tiếng đại bàng, từ sâu trong cổ họng.

Một trong những sinh vật có cánh ấy lao về phía bọn quỷ, lượn xuống thấp hơn, và Bod lại kêu lên, cho đến khi tiếng kêu của nó bị bóp nghẹt bởi một bàn tay rắn như sắt bịt lấy miệng nó. "ừ, đúng đấy, cứ gọi chúng nó xuống đi," Thẩm phán Archibald Fitzhugh nói, "nhưng tin ta đi, phải để cho chúng rữa ra vài tuần thì mới ăn được, với lại chúng chỉ gây phiền nhiễu thôi. Bọn ta và bọn chúng ghét nhau như xúc đất đổ đi ấy."

Con dạ điểu lại bay lên cao trên bầu không khí khô hanh của sa mạc, trở lại với đồng loại của nó, và Bod cảm thấy mọi hy vọng đều tan biến cả.

Lũ quỷ đi nhanh hơn về phía thành phố nằm trên núi đá, và Bod, giờ bị vắt lên vai Công tước xứ West-minster một cách không thương tiếc, bị chúng đưa đi cùng.

Vầng mặt trời đùng đục lặn xuống, và hai mặt trăng mọc lên, một mặt trăng rất lớn, trắng toát, lỗ chỗ miệng núi lửa, lúc mới mọc thì to đến nỗi nom như chiếm quá nửa đường chân trời, nhưng càng lên cao càng nhỏ dần, và một mặt trăng nhỏ hơn, có màu lục lam như màu mốc ở tảng pho mát, và khi trông thấy vầng trăng này, bọn quỷ tỏ ra hết sức vui thích. Chúng dừng chân dựng trại cạnh con đường.

Một thành viên mới nhập bọn - Bod nghĩ đó là con quỷ được giới thiệu với nó bằng cái tên "đại văn hào Victor Hugo" - lôi ra một cái túi chất đầy củi, có mấy thanh vẫn còn nguyên cả bản lề hoặc tay cầm bằng đồng, cùng với một cái bật lửa sắt, và nhanh chóng nhóm lên một đống lửa cho bọn quỷ ngồi quanh nghỉ ngơi. Chúng ngước lên ngắm vầng trăng màu lục lam, xô đẩy nhau để giành lấy những chỗ ngồi tốt nhất bên đống lửa, chửi rủa, thậm chí cào cấu, cắn xé lẫn nhau.

"Chúng ta sẽ ngủ một giấc, rồi khi trăng lặn sẽ lại lên đường đến Thành Quỷ," Công tước xứ Westminster nói. "Chỉ còn một đoạn đường khoảng chín hay mười giờ đồng hồ nữa thôi. Đến lần trăng mọc tiếp theo thì chúng ta sẽ đến nơi. Rồi chúng ta sẽ tổ chức liên hoan nhỉ? Để đón mừng cậu nhập bọn với chúng ta!"

"Sẽ không đau đâu," Thẩm phán Archibald Fitzhugh nói, "không đau đến mức không chịu được. Và sau đó, thử nghĩ mà xem, cậu sẽ vui thú biết bao."

Rồi chúng bắt đầu kể đủ thứ chuyện về việc làm quỷ nhập tràng thì sung sướng tuyệt vời đến mức nào, về những thứ chúng đã nhai nuốt bằng bộ răng khỏe của mình. Một con trong bọn nói chúng hoàn toàn miễn dịch với bệnh tật. Cho dù con mồi của chúng có chết vì bệnh gì thì chúng vẫn có thể nhai tuốt tuột. Chúng kể về những nơi chúng đã đến, chủ yếu là các hầm mộ và vùng có dịch bệnh. ("Ở các ổ dịch có nhiều thức ăn ngon lắm” Hoàng đế Trung Hoa nói, và cả bọn đều đồng ý). Chúng kể với Bod chúng đã lấy được tên của mình như thế nào, và nói rằng đến lượt Bod, khi đã biến thành một con quỷ nhập tràng vô danh, cũng sẽ được đặt tên như chúng.

"Nhưng tôi không muốn biến thành một người như các ông," Bod nói.

"Bằng cách này hay cách khác thì cậu cũng sẽ biến thành một người trong số chúng ta thôi," Giám mục vùng Bath và Wells vui vẻ nói. "Cách kia rắc rối hơn, vì cậu sẽ bị tiêu hóa, và cậu sẽ không thích thú chuyện ấy cho lắm đâu."

"Nhưng nói chuyện ấy thì chẳng hay ho gì", Hoàng đế Trung Hoa tiếp. "Thích nhất là làm quỷ nhập tràng. Chúng ta chẳng sợ gì hết!"

Nghe vậy, bầy quỷ ngồi quanh đống lửa nhóm bằng gỗ quan tài liền hú lên, gào thét, rú rít, tự tung hê nhau rằng bọn chúng mới thông thái làm sao, mạnh mẽ làm sao, và thật tuyệt làm sao khi không phải sợ bất kỳ điều gì.

Đúng lúc ấy một âm thanh vang lên từ phía xa trong sa mạc, một tiếng hú xa xăm khiến bọn quỷ run cầm cập và co rúm lại gần đống lửa hơn.

"Cái gì thế?" Bod hỏi.

Bầy quỷ lắc đầu. "Chỉ là một thứ trên sa mạc thôi” một con thì thào. "Im lặng! Nó nghe thấy chúng ta mất!"

Và tất cả bọn quỷ đều im lặng trong chốc lát, cho đến khi chúng quên mất con thú trên sa mạc kia, và bắt đầu hát bài ca của lũ quỷ, đầy những từ ngữ bậy bạ và những cảm nghĩ ghê tởm, mà bài chúng thích nhất chỉ là một danh sách những phần cơ thể thối rữa và thứ tự để xem nên ăn phần nào trước.

"Tôi muốn về nhà” Bod nói, khi chúng hát hết đoạn cuối. "Tôi không muốn ở đây nữa."

"Đừng có hoảng lên thế chứ” Công tước xứ West-minster nói. "Chú nhóc này, ta hứa là ngay khi trở thành một người trong bọn ta thì cậu sẽ chẳng còn nhớ là mình đã từng có nhà nữa kia."

"Ta chẳng nhớ gì về quãng thời gian trước khi ta biến thành quỷ nhập tràng” đại văn hào Victor Hugo

"Ta cũng vậy” Hoàng đế Trung Hoa tự hào nói.

"Ta cũng chẳng nhớ gì sất” Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ họa theo.

"Cậu sẽ được làm thành viên của một nhóm chọn lọc gồm những sinh vật thông thái nhất, mạnh mẽ nhất, dũng cảm nhất trên đời” Giám mục vùng Bath và Wells huênh hoang.

Bod chẳng thấy ấn tượng chút nào với lòng can đảm hay trí khôn của bọn quỷ. Nhưng đúng là chúng rất khỏe, nhanh nhẹn một cách kỳ dị, và nó đang ở giữa cả một bầy quỷ. Nó sẽ không thể chạy thoát. Chưa chạy nổi mười thước thì có thể nó đã bị chúng bắt kịp.

Đâu đó xa xa trong màn đêm, một con gì đó lại hú lên, và bầy quỷ nhích đến gần đống lửa hơn. Bod nghe thấy chúng khịt khịt mũi và chửi thề. Nó nhắm nghiền mắt lại, cảm thấy vô cùng khổ sở và nhớ nhà: nó không muốn bị biến thành quỷ nhập tràng. Nó không hiểu làm sao mình có thể ngủ được trong cảnh tuyệt vọng khôn cùng như thế này, thế nhưng, nó ngạc nhiên khi thấy mình vẫn ngủ thiếp đi được khoảng hai, ba tiếng.

Một tiếng động làm nó thức dậy - một tiếng động mạnh, sát gần, có vẻ hoảng sợ. Ai đó đang hỏi, "Thế nào, chúng nó biến đi đâu rồi? Hử?" Nó mở mắt ra, trông thấy Giám mục vùng Bath và Wells đang quát mắng Hoàng đế Trung Hoa. Có vẻ như trong đêm, một vài tên trong bầy quỷ đã biến mất không một dấu vết, và không con quỷ nào có thể giải thích được tại sao.

Những con quỷ còn lại đều hết sức căng thẳng. Chúng nhanh chóng nhổ trại, và Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ xốc Bod lên, ném nó lên vai mình.

Bọn quỷ loạng choạng đi xuống vách đá để quay lại con đường, bên dưới bầu trời đỏ ngầu màu máu bị nhiễm độc, và tiến về phía Thành Quỷ. Sáng nay chúng có vẻ kém vui hơn hẳn. Giờ đây chúng dường như đang chạy trốn một cái gì đó - ít ra là Bod thấy thế, khi nó bị vác lắc lư trên vai tên quỷ.

Giữa trưa, khi vầng mặt trời mờ đục đã lên đến đỉnh đầu, bọn quỷ liền dừng chân co cụm lại với nhau. Trước mặt chúng, chao liệng trên luồng hơi nóng, là một bầy dạ điểu hơn chục con, đang bay lượn trong làn không khí ấm.

Bọn quỷ liền chia thành hai phe: một phe nghĩ rằng việc đồng bọn của chúng biến mất chẳng có ý nghĩa gì, một phe thì lại cho rằng một thứ gì đó, có lẽ là bọn dạ điểu kia, đang bám theo hòng tiêu diệt chúng. Bọn quỷ không đi đến một kết luận chung nào, chỉ nhất trí rằng chúng nên nhặt đá làm vũ khí để ném nếu bầy dạ điểu hạ cánh xuống, và chúng liền nhặt sỏi đá trên sa mạc nhét đầy túi áo.

Một thứ gì đó lại cất tiếng hú ở khoảng sa mạc phía bên trái chúng, và bọn quỷ đưa mắt nhìn nhau. Tiếng hú này vang to hơn tiếng hú đêm qua, nghe có vẻ gần hơn, một tiếng hú trầm trầm như tiếng chó sói.

"Mày có nghe thấy gì không?" Thị trưởng thành London hỏi.

"Chẳng nghe thấy gì sất” Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ đáp.

"Tao cũng không," Thẩm phán Archibald Fitzhugh nói.

Tiếng hú lại vang lên.

"Chúng ta phải về nhà thôi," Công tước xứ West-minster vừa nói vừa nhấc một tảng đá lớn lên.

Thành phố Quỷ đáng sợ vươn lên trên một gờ đá cao trước mặt chúng, và bọn quỷ lao về phía đó.

"Bọn dạ điểu đang đến đấy!" Giám mục vùng Bath và Wells kêu lên. "Ném đá vào lũ chết giẫm ấy đi!"

Lúc này trong mắt Bod mọi thứ đều lộn ngược, trong khi nó nảy lên nảy xuống trên lưng Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ và bị cát sỏi trên đường bắn đầy vào mặt. Nhưng nó nghe thấy những tiếng kêu giống tiếng đại bàng, và Bod lại dùng tiếng dạ điểu để kêu cứu. Lần này thì không con quỷ nào bịt miệng nó lại nữa, nhưng nó không chắc ai đó có thể nghe thấy tiếng nó kêu giữa tiếng gào thét của bầy dạ điểu và tiếng chửi rủa của lũ quỷ trong khi chúng ném đá tới tấp lên không trung.

Bod lại nghe thấy tiếng hú nọ: bây giờ tiếng hú vang lên từ phía bên phải.

"Có đến hàng chục con dạ điểu chết tiệt ấy," Công tước xứ Westminster rầu rĩ nói.

Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ trao Bod cho đại văn hào Victor Hugo, con quỷ này tống thằng bé vào cái túi của mình rồi vắt cái túi lên vai. Bod chỉ có thể lấy làm mừng là cái túi không có mùi gì khác ngoài mùi gỗ bụi bặm.

"Chúng đang rút lui đấy!" một tên quỷ kêu lên. "Nhìn chúng kìa!"

"Cậu đừng có lo nhé," một giọng nói vang lên bên cạnh cái túi, nghe giống giọng Giám mục vùng Bath và Wells. "Một khi chúng ta đã đưa cậu đến được Thành Quỷ thì sẽ không còn những chuyện vớ vẩn này nữa đâu. Thành Quỷ là một thành phố bất khả xâm phạm."

Bod không biết có con quỷ nào bị giết hay bị thương trong lúc đánh nhau với bầy dạ điểu hay không. Bằng vào những lời chửi rủa của Giám mục vùng Bath và Wells, nó đoán là có thêm vài con quỷ nữa đã chạy mất.

"Nhanh lên!" một con quỷ khác, có lẽ là Công tước xứ Westminster, kêu lên, và bọn quỷ liền lao đi. Bod nằm trong túi cảm thấy rất khó chịu vì cứ liên tục bị va vào lưng đại văn hào Victor Hugo đau điếng, thỉnh thoảng lại đập cả xuống đất nữa. Mọi sự càng tệ hơn khi ở trong túi cùng với nó vẫn còn mấy mẩu gỗ, đó là chưa kể đến những đinh vít sắc nhọn, những gì còn lại của thứ củi làm từ quan tài. Một cái đinh vít nằm ngay dưới tay Bod, đâm vào da thịt nó.

Mặc dù bị xóc nảy người, lắc mạnh và xô đẩy theo mỗi bước chạy của con quỷ đang mang nó trên lưng, Bod vẫn tìm cách nắm được cái đinh vít bằng tay phải. Nó sờ soạng cái mũi đinh nhọn hoắt. Trong thâm tâm, nó khấp khởi hy vọng. Rồi nó xuyên mũi đinh qua lớp vải túi ở sau lưng, dùng mũi đinh đâm thủng vải, đoạn rút đinh ra và đâm thêm một lỗ nhỏ nữa, bên dưới lỗ đầu tiên.

Sau lưng mình, Bod nghe thấy một tiếng hú nữa, và nó chợt nghĩ ra rằng một thứ có thể khiến bọn quỷ nhập tràng khiếp hãi đến thế thì hẳn phải đáng sợ hơn nó tưởng nhiều, và nó dừng mũi đinh lại trong chốc lát - giả thử nó thoát ra khỏi cái túi và rơi vào miệng một con quái vật khủng khiếp nào đó thì sao? Nhưng ít ra, Bod tự nhủ, nếu chết thì nó sẽ vẫn được là chính mình, cùng với mọi ký ức của nó, nhớ được bố mẹ mình, nhớ được chú Silas, thậm chí là cả nhớ được cô Lupescu nữa.

Như thế thì tốt hơn nhiều.

Nó lại dùng chiếc đinh đồng xuyên qua lớp vải túi, chọc và cào cho đến khi làm thủng một lỗ nữa.

"Tiến lên anh em!" Giám mục vùng Bath và Wells kêu lên. "Chỉ lên hết mấy bậc thang kia là chúng ta sẽ về đến Thành Quỷ an toàn!"

"Hoan hô ngài Giám mục!" một tên quỷ khác reo to, có lẽ là Thẩm phán Archibald Fitzhugh.

Bây giờ thì cử động của tên quỷ mang Bod trên lưng đã thay đổi. Nó không đi thẳng về phía trước nữa, mà đã đổi sang một loạt cử động khác, lên dốc rồi đi tới trước, lên dốc rồi lại đi tới trước.

Bod thọc tay qua túi, chọc lấy một cái lỗ đủ để nhìn qua. Nó nhìn ra ngoài, trên nó là bầu trời đỏ ngầu, u ám, còn bên dưới...

... nó có thể trông thấy sa mạc, nhưng giờ sa mạc đã nằm dưới chân nó, cách cả chục mét. Đằng sau nó là những bậc thang trải dài, nhưng đó là các bậc thang đục cho người khổng lồ, còn bên phải nó là một vách đá màu đỏ son. Từ vị trí này Bod không nhìn thấy Thành Quỷ, nhưng nó đoán hẳn thành phải đang nằm trên đầu chúng. Bên trái nó là một vực thẳm dốc đứng. Nó quyết định sẽ phải nhảy thẳng xuống những bậc thang kia, và hết lòng hy vọng rằng bọn quỷ, trong lúc sốt ruột mong sớm về đến nhà để được an toàn, sẽ không biết nó đã bỏ chạy. Cao tít bên trên, nó trông thấy bầy dạ điểu bay lùi lại một quãng, chao liệng trên bầu trời đỏ lừ.

Nó rất mừng khi thấy không có con quỷ nào khác đằng sau mình: đại văn hào Victor Hugo đi bọc hậu, và phía sau nó không có ai để đánh động cho lũ quỷ biết về cái lỗ đang to dần trên chiếc túi. Hoặc là trông thấy Bod khi nó rơi ra.

Nhưng lại có một vật khác...

Bod bị xóc nảy người sang bên, xa khỏi cái lỗ. Nhưng nó đã trông thấy một vật màu xám khổng lồ trên những bậc thang bên dưới, đang đuổi theo chúng. Nó có thể nghe thấy một tiếng gầm gừ dữ dằn.

Ông Owens có một câu ngạn ngữ dùng để chỉ hai vật cùng khó chịu như nhau. "Ta đang rơi vào cảnh tiến lên mắc núi, lùi lại mắc sông” ông thường nói vậy. Bod vẫn băn khoăn không hiểu như thế nghĩa là gì, vì cả đời sống trong nghĩa địa, nó chưa từng được nhìn thấy núi cũng như sông.

Mình đang rơi vào cảnh tiến lên mắc quỷ, lùi lại mắc quái, nó nghĩ.

Nó vừa nghĩ xong thì một hàm răng sắc nhọn như răng chó ngoạm lấy cái túi và kéo cho đến khi lớp vải túi rách ra, dọc theo những cái lỗ mà Bod đã chọc thủng, và thằng bé ngã lộn nhào xuống những bậc đá, ở đó có một con vật màu xám khổng lồ, giống như chó nhưng to lớn hơn nhiều, đang gầm gừ, miệng nhỏ nước dãi, đứng chắn lấy Bod, một con vật với cặp mắt sáng lóe, răng nanh trắng ởn, bàn chân kếch xù. Nó thở hổn hển và nhìn Bod chằm chằm.

Bọn quỷ ở phía trước đã dừng lại. "Trời đánh thánh vật!" Công tước xứ Westminster nói. "Con chó quỷ sứ ấy tóm được thằng nhóc rồi!"

"Thế thì cứ để thằng nhóc lại cho nó," Hoàng đế Trung Hoa bảo. "Chạy thôi!"

"Ui da!" Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ kêu lên.

Bọn quỷ chạy lên các bậc thang. Giờ thì Bod chắc chắn là những bậc thang đó được đẽo cho người khổng lồ, bởi vì bậc nào cũng cao hơn cả người nó. Bọn quỷ chạy bán sống bán chết, chỉ quay lại để làm mấy cử chỉ chửi rủa con thú và có lẽ là cả Bod nữa.

Con thú vẫn đứng nguyên tại chỗ.

Nó sắp ăn thịt mình, Bod cay đắng nghĩ. Mày thông minh thật đấy, Bod ạ. Nó nghĩ đến ngôi nhà của mình ở nghĩa địa, và giờ thì nó không thể nhớ nổi tại sao mình lại bỏ đi nữa. Mặc kệ con chó quỷ quái này, nó phải quay về nhà thôi. Mọi người ở đó đang đợi nó.

Nó lao qua con thú, nhảy xuống bậc thang tiếp theo nằm dưới đó chừng một mét rưỡi, rồi bị ngã, cổ chân đập xuống đất, trẹo đi đau điếng người, và nó ngã vật ra nền đá.

Khi nghe thấy tiếng con thú đang chạy và nhảy xuống chỗ nó, Bod liền cố trườn đi, cố đứng dậy, nhưng cổ chân nó bây giờ đã thành ra vô dụng, tê liệt, đau đớn, và nó không kịp ngăn một cú ngã nữa. Nó rơi ra khỏi bậc thang, xa khỏi vách đá, ngã vào khoảng không, và rơi xuống - một cú ngã khủng khiếp từ một độ cao khủng khiếp mà Bod thậm chí còn không dám tưởng tượng ra...

Lúc bị ngã, nó dám chắc mình đã nghe thấy một giọng nói vang lên từ phía con thú màu xám. Và nó nói bằng giọng của cô Lupescu, "Ôi, Bod!"

Giống như lúc bị ngã trong những giấc mơ, nó rơi qua khoảng không trong nỗi sợ hãi cuống cuồng, lao thẳng về phía mặt đất bên dưới. Bod cảm thấy trong đầu mình chỉ còn đủ chỗ cho một ý nghĩ quan trọng duy nhất, vì thế hai ý nghĩ Con chó khổng lồ ấy chính là cô Lupescu, và, Mình sắp sửa rơi bẹt xuống nền đá kia, tranh nhau chiếm chỗ trong tâm trí nó.

Một vật gì đó bao trùm lấy nó, rơi xuống cùng với nó, rồi có tiếng một cặp cánh đập mạnh, và mọi thứ bỗng chậm lại. Mặt đất không còn lao vùn vụt về phía

Đôi cánh vỗ mạnh hơn. Chúng vươn lên cao hơn và giờ thì ý nghĩ duy nhất còn lại trong đầu Bod là Mình đang bay! Và đúng như vậy. Nó quay đầu lại nhìn. Bên trên nó là một cái đầu màu nâu sẫm, nhẵn thín, với cặp mắt sâu thẳm nom như hai phiến thủy tinh đen mài bóng.

Bod kêu lên một tiếng rin rít có nghĩa là "Cứu với" theo ngôn ngữ dạ điểu, và con dạ điểu mỉm cười, khẽ hú lên một tiếng trầm trầm đáp lại. Nó có vẻ hài lòng.

Con dạ điểu chao người một cái rồi bay chậm lại, và hạ cánh xuống sa mạc với một tiếng thịch nhẹ nhàng. Bod cố đứng dậy, nhưng cổ chân của nó lại khuỵu xuống, làm nó ngã lộn nhào lên nền cát. Gió đang thổi mạnh, phả thứ cát sa mạc sắc cạnh vào da Bod rát bỏng.

Con dạ điểu đậu bên cạnh Bod, cặp cánh nhẵn bóng của nó khép lại. Bod, vốn lớn lên trong một nghĩa địa, đã quen với hình ảnh người có cánh, nhưng các thiên thần trên bia mộ trông không giống thế này chút nào.

Và kia, phóng qua sa mạc, dưới bóng của Thành Quỷ, là con thú lớn màu xám, như một con chó khổng lồ.

Con vật cất tiếng nói bằng giọng của cô Lupescu.

Cô nói, "Đây là lần thứ ba bầy dạ điểu cứu mạng trò đấy, Bod ạ. Lần thứ nhất là khi trò kêu cứu, và chúng đã nghe thấy. Chúng nhắn tin, cho ta biết trò đang ở đâu. Lần thứ hai là khi ở quanh đống lửa đêm qua, lúc trò đang ngủ: chúng đang bay lượn trong bóng tối thì nghe thấy mấy tên quỷ nhập tràng nói rằng trò sẽ đem vận rủi đến cho chúng, rằng chúng nên đập nát óc trò ra, rồi giấu trò vào một nơi dễ tìm, để khi trò đã thối rữa ra thì chúng sẽ quay lại ăn thịt. Bầy dạ điểu đã lặng lẽ lo liệu việc đó. Và giờ thì lại đến lần này nữa."

"Cô Lupescu?"

Cái đầu khổng lồ như đầu chó cúi xuống và trong một khoảnh khắc kinh hoàng, đáng sợ, Bod tưởng cô sẽ ngoạm lấy một miếng ở người nó, nhưng cô chỉ liếm nhẹ lên má nó một cách âu yếm. "Trò bị sái cổ chân hả?"

"Vâng, em không đứng dậy được”

"Chúng ta hãy đặt trò lên lưng ta đi", con vật khổng lồ màu xám, chính là cô Lupescu, nói.

Cô nói gì đó bằng thứ tiếng dạ điểu chói tai, và con dạ điểu tiến đến, đỡ Bod đứng dậy, trong lúc thằng bé vòng tay ôm lấy cổ cô Lupescu.

"Nắm lấy cỗ bờm của ta nhé” cô nói. "Giữ chắc vào. Giờ thì, trước khi chúng ta đi, hãy nói như thế này..." và cô phát lên một tiếng kêu the thé.

"Như thế có nghĩa là gì ạ?"

"Cảm ơn. Hoặc là tạm biệt. Cả hai”

Bod cố hết sức rít lên, và con dạ điểu khẽ cười vui vẻ. Nó cũng phát ra một tiếng kêu như vậy, và xòe đôi cánh khổng lồ nhẵn bóng, lao vào làn gió sa mạc, hai cánh vỗ mạnh, thế rồi làn gió đỡ lấy nó, đưa nó lên cao, giống như một chiếc diều vừa bay lên.

"Giờ thì bám cho chắc vào” con thú chính là cô Lupescu nói. Và cô lao đi.

"Chúng ta có quay lại chỗ bức tường bia mộ không ạ?"

"Quay lại cánh cổng của quỷ nhập tràng ấy à? Không. Nơi đó chỉ dành cho bọn quỷ nhập tràng thôi. Ta là Khuyển Binh của Chúa. Ta đi trên con đường của riêng mình, đi đến Địa ngục rồi lại ra khỏi đó." Và Bod thấy như cô chạy còn nhanh hơn cả lúc trước.

Vầng trăng khổng lồ mọc lên, cùng với vầng trăng có màu pho mát mốc, theo sau là một vầng trăng khác, đỏ như hồng ngọc, và dưới ánh sáng của ba vầng trăng ấy, con sói xám lao đi bằng những bước chạy nhịp nhàng, ngang qua vùng sa mạc lổn nhổn xương cốt. Cô Lupescu dừng lại bên một căn nhà bằng đất nung đổ nát nom như một cái tổ ong khổng lồ, được dựng cạnh một dòng suối nhỏ róc rách chảy ra từ lớp đá sa mạc, đổ xuống một cái vũng nhỏ xíu rồi lại tiếp tục chảy đi. Con sói xám cúi xuống uống nước, và Bod cũng vục hai bàn tay xuống cái vũng vốc nước lên uống ừng ực.

"Đây là đường ranh giới” con sói xám, chính là cô Lupescu, nói, và Bod ngẩng lên. Ba vầng trăng đã biến mất. Giờ nó có thể trông thấy dải Ngân Hà, nhưng nó chưa từng thấy dải Ngân Hà nào như vậy, như một tấm vải liệm sáng lấp lánh trải khắp bầu trời. Hằng hà sa số những ngôi sao tỏa sáng trên trời.

"Đẹp quá” Bod trầm trồ.

"Khi nào quay về nhà, ta sẽ dạy trò tên các hành tinh và các chòm sao” cô Lupescu nói.

"Em thích lắm ạ," Bod thừa nhận.

Bod lại trèo lên tấm lưng rộng màu xám, áp mặt vào bộ lông của cô rồi bám thật chắc, và dường như chỉ một thoáng sau, nó đã trở lại khu nghĩa địa, được đưa ngang qua nghĩa địa về ngôi mộ của gia đình Owens - một cách vụng về, như khi một người phụ nữ phải bế chú bé đã lên sáu.

"Thằng bé bị sái chân," cô Lupescu nói.

"Tội nghiệp con tôi," bà Owens kêu lên, đỡ lấy thằng bé từ tay cô Lupescu và nâng niu nó trong đôi tay trong suốt nhưng thành thạo của mình. "Tôi không thể nói là tôi đã khôn