Chương 9 RA ĐI VÀ TỪ BIỆT
ĐÔI LÚC, NÓ KHÔNG CÒN NHÌN THẤY những người chết được nữa. Hiện tượng đó bắt đầu từ khoảng một hai tháng trước, vào tháng Tư hoặc tháng Năm. Mới đầu thì chuyện đó chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra, nhưng dường như bây giờ nó đang xảy ra mỗi lúc một thường xuyên hơn.
Thế giới đang thay đổi.
Bod lang thang đi đến góc phía Tây Bắc của nghĩa địa, đến chỗ những dây thường xuân um tùm rủ xuống từ cành cây thủy tùng và phủ kín mất một nửa đầu bên kia của Đường Ai Cập. Nó trông thấy một con cáo màu đỏ và một con mèo đen, với một vòng lông trắng quanh cổ và những bàn chân cũng màu trắng, đang ngồi trò chuyện với nhau ở giữa đường. Khi Bod lại gần, chúng liền nhìn lên, rồi giật mình nhảy tọt vào bụi rậm, như thể nó đã bắt quả tang chúng đang âm mưu điều gì vậy. Lạ thật , nó thầm nghĩ. Nó đã quen con cáo ấy từ lúc nó mới là một con cáo con, còn con mèo thì đã lang thang quanh nghĩa địa này từ khi Bod bắt đầu biết nghĩ. Chúng biết nó rất rõ. Nếu chúng cảm thấy thân thiện thì chúng thậm chí còn cho phép nó vuốt ve chúng nữa kia.
Bod định chui qua dám dây thường xuân, nhưng nó thấy đường đã bị chặn. Nó cúi xuống, vén những dây thường xuân sang một bên, rồi lách mình qua. Nó cẩn thận bước xuôi con đường, tránh xa những vết lún và những cái hố trên đường, cho đến khi tới chỗ tảng đá lớn oai vệ đánh dấu nơi an nghỉ cuối cùng của Alonso Tomás Garcia Jones (1837-1905, Hỡi người lữ hành hãy đặt gậy xuống ).
Từ mấy tháng nay, cứ vài ngày Bod lại xuống đây một lần: Alonso Jones đã đi khắp mọi nơi trên thế giới, và ông rất vui lòng kể cho Bod nghe về những chuyến du hành của mình. Ông thường bắt đầu bằng câu, "Chẳng có chuyện gì thú vị xảy ra với tôi cả," rồi rầu rĩ nói thêm, "với lại tôi đã kể cho cậu nghe hết cả chuyện của tôi rồi," và rồi mắt ông sáng bừng lên, và ông lại nói, "Ngoại trừ... tôi đã bao giờ kể cho cậu nghe chuyện...?" Câu tiếp theo sẽ là: "Cái lần tôi phải chạy trốn khỏi Matxcơva?" hoặc là "Cái lần tôi đánh mất một mỏ vàng đáng giá cả một gia tài ở Alaska?" hoặc là "Cái lần đàn gia súc chạy loạn trên đồng cỏ ở Nam Mỹ?" Bod sẽ lắc đầu và háo hức chờ đợi, rồi chẳng mấy chốc đầu óc nó sẽ tràn ngập các câu chuyện về biết bao hành động anh hùng và những cuộc phiêu lưu mạo hiểm, chuyện về nụ hôn với cô thiếu nữ xinh đẹp, về cuộc chiến bằng súng hoặc bằng gươm với những kẻ bất lương, về những túi vàng, những viên kim cương to bằng đầu ngón tay cái, về những thành phố đã bị biến mất và những dãy núi hùng vĩ, về tàu hỏa hơi nước và thuyền vượt đại dương, về những đồng cỏ xứ Nam Mỹ, về các đại dương, các sa mạc, các lãnh nguyên băng giá.
Bod bước đến chỗ tấm bia mộ nhọn hoắt - một tảng đá cao, được khắc hình những ngọn đuốc chúc ngược xuống, và nó ngồi đợi, nhưng chẳng thấy ai cả. Nó cất tiếng gọi Alonso Jones, thậm chí còn gõ gõ lên tảng đá nữa, nhưng vẫn không có ai trả lời. Bod liền cúi xuống, định thò đầu vào trong huyệt để gọi người bạn của mình, nhưng đầu nó không xuyên qua được lớp đất đá như một cái bóng xuyên qua một cái bóng dày đặc hơn, mà lại đập vào đất đánh "thịch" một cái đau điếng. Nó gọi lại lần nữa, rồi khi không thấy ai xuất hiện, nó liền thận trọng chui ra khỏi đám cây xanh rậm rạp cùng những tấm bia mộ màu xám để quay trở lại lối đi. Ba con chim ác là đậu trên một cây táo gai bay vụt lên khi nó đi qua chỗ chúng,
Nó chẳng thấy bóng dáng một ai khác cho đến tận khi nó đi tới sườn đồi phía Tây Nam nghĩa địa, ở đó nó trông thấy cái bóng nhỏ bé quen thuộc của Má Slaughter trong chiếc mũ trùm và cái áo choàng, đang đi đi lại lại giữa các bia mộ, đầu cúi xuống ngắm mấy đóa hoa dại.
"Này, chú bé!" má gọi. "Ở đây có bao nhiêu là hoa san cạn mọc dại này. Sao cháu không hái giùm ta mấy bông rồi đem đến đặt lên mộ ta ấy."
Thế là Bod liền hái mấy bông sen cạn màu vàng và đỏ, rồi đem đến chỗ tấm bia trên mộ của Má Slaughter, tấm bia đã rạn nứt và bị mưa nắng bào mòn đến nỗi chỉ còn trơ lại một chữ, LAUGH
vốn đã làm các nhà sử gia địa phương phải đau đầu từ hơn một trăm năm. Nó thành kính đặt mấy bông hoa lên phía trước tấm bia.
Má Slaughter mỉm cười với nó. "Cháu ngoan lắm. Không biết chúng ta sẽ làm gì nếu không có cháu nhỉ."
"Cảm ơn má," Bod nói. Rồi nó hỏi, "Mọi người đâu cả rồi ạ? Má là người đầu tiên cháu nhìn thấy đêm nay đấy”
Má Slaughter chăm chú nhìn nó. "Cháu đã làm gì với cái trán của mình thế kia?"
"Cháu bị đập đầu vào mộ của ông Jones ạ. Chẳng hiểu sao nó lại cứng đặc lại..”
Nhưng Má Slaughter đã mím môi lại và nghiêng đầu sang một bên. Cặp mắt tuy già nhưng vẫn sáng ngời của má săm soi Bod từ bên dưới vành mũ. "Ta đã gọi cháu là chú bé, phải không nhỉ? Nhưng thời gian trôi qua chỉ trong nháy mắt, và giờ thì cháu đã là một chàng trai rồi, phải không? Cháu bao nhiêu tuổi?"
"Cháu đoán là gần mười lăm ạ. Nhưng cháu vẫn cảm thấy y như cũ," Bod nói, nhưng Má Slaughter ngắt lời nó, "Còn ta thì vẫn cảm thấy như khi ta còn là một cô bé con, hái hoa cúc dại tết thành vòng trên cánh đồng cỏ ngày xưa. Bản thân ta thì không bao giờ thay đổi, nhưng con người ta thì lại luôn luôn đổi thay, ta không thể làm gì về chuyện đó được."
Má ngồi xuống trên tấm bia mộ rạn nứt của mình, rồi nói, "Ta vẫn còn nhớ rõ cháu vào cái đêm cháu đến đây, chàng trai ạ. Ta đã bảo, 'Chúng ta không thể để thằng bé đi đâu khác được, và mẹ cháu cũng đồng ý với ta, rồi tất cả bọn họ cãi cọ ầm ĩ cho đến khi Phu nhân Xám cưỡi ngựa đi tới. 'Hỡi các cư dân của Nghĩa địa, phu nhân nói. 'Hãy nghe lời Má Slaughter. Các người không có chút lòng từ thiện nào hay sao?' và thế là bọn họ đã nghe theo lời ta." Giọng má kéo dài rồi nhỏ bặt lại, và má lắc lắc cái đầu nhỏ bé của mình. "Ở đây chẳng mấy khi xảy ra chuyện gì khiến cho ngày hôm nay khác ngày hôm qua. Các mùa nối tiếp nhau. Dây thường xuân mọc. Bia mộ bị đổ. Nhưng khi cháu đến đây... vậy đấy, ta rất mừng vì cháu đã đến đây."
Má đứng dậy, rút một cái khăn tay cáu bẩn từ trong tay áo ra, nhổ nước bọt lên đó, và cố vươn tay lên cao hết mức để lau máu trên trán Bod. "Rồi, bây giờ thì trông cháu lại bảnh bao rồi đấy," má nghiêm khắc nói. "Vì không biết đến bao giờ ta mới được gặp lại cháu. Cẩn thận đấy nhé."
Theo như Bod nhớ được thì chưa bao giờ nó lại cảm thấy bối rối như thế này. Nó quay về ngôi mộ của gia đình Owens, và sung sướng khi thấy bố mẹ mình đang đứng đợi bên cạnh đó. Nhưng khi lại gần, thì nỗi sung sướng của nó chuyển thành lo ngại: tại sao ông bà Owens lại đứng một cách chỉnh tề ở hai bên ngôi mộ như thế, nom như hai hình vẽ trên cửa sổ kính màu vậy? Nó không thể dò nổi vẻ mặt của họ.
Bố nó bước tới trước và nói, "Chào con, Bod. Bố mong là con đang thấy dễ chịu đấy chứ."
"Cũng tạm ổn ạ," Bod nói, đó là câu ông Owens thường dùng để trả lời bạn bè mỗi khi họ hỏi thăm ông.
Ông Owens nói, "Cả đời mình, mẹ con và bố đã luôn mong ước có một đứa con. Bố không tin là bố mẹ có thể có được đứa con nào ngoan ngoãn hơn con, Bod ạ." Ông tự hào ngước lên nhìn con trai mình.
Bod nói, "Vâng ạ, con cảm ơn bố, nhưng mà..." Nó quay sang nhìn mẹ, đoan chắc rằng nó có thể bắt bà giải thích xem chuyện gì đang xảy ra, nhưng mẹ nó không còn đứng đó nữa. "Mẹ đi đâu rồi ạ?"
"À. ừ." Ông Owens có vẻ lúng túng. "À, con biết mẹ Betsy của con rồi mà. Có những chuyện, có những lúc. Mà, ờ, khi ấy con không biết phải nói gì. Con có hiểu không?"
"Không ạ," Bod đáp.
"Bố đoán là chú Silas đang đợi con đấy," bố nó bảo, rồi biến mất.
Đã quá nửa đêm rồi. Bod liền tìm đường đi xuống ngôi nhà thờ cũ. Cái cây mọc trên ống máng ở mái nhà thờ đã bị đổ xuống sau trận bão vừa rồi, kéo theo một loạt những viên ngói bằng đá đen.
Bod ngồi đợi trên cái ghế dài bằng gỗ xám, nhưng chẳng thấy bóng dáng chú Silas đâu.
Gió nổi mạnh hơn. Đó là một đêm hè muộn, khi ánh chiều chạng vạng kéo dài tưởng chừng không bao giờ tắt, và trời rất ấm, nhưng Bod vẫn cảm thấy tay mình nổi da gà.
Một giọng nói vang lên bên tai nó, "Hãy hứa là cậu sẽ nhớ tôi đi, đồ hậu đậu."
"Chị Liza đấy à?" Bod hỏi. Đã hơn một năm nay rồi, nó chưa hề nhìn thấy hay nghe thấy cô phù thủy đó - kể từ sau cái đêm với hội Jack Đủ Nghề. "Chị đã đi đâu thế?"
"Tôi chỉ theo dõi thôi” cô nói. "Một cô gái phải cho cậu biết mọi việc cô ấy làm hay sao?"
"Theo dõi em ấy à?" Bod hỏi.
Giọng Liza vang lên sát tai cậu, "Thật thà mà nói thì tôi thấy rằng sự sống dành cho người sống thật phí phạm, Nobody Owens ạ. Bởi vì một người trong số chúng ta đây quá ngốc nghếch để sống được, và người đó không phải là tôi đâu. Hãy hứa là cậu sẽ nhớ tôi đi."
"Chi sắp đi đâu à?" Bod hỏi. Rồi nó nói, "Tất nhiên là em sẽ nhớ chị, cho dù chị có đi đâu chăng nữa..."
"Ngốc quá” Liza Hempstock thì thầm, và nó cảm thấy tay cô chạm vào tay nó. "Quá ngốc nghếch để được sống." Cô khẽ chạm môi vào má nó, vào khóe miệng nó. Cô hôn nó một cách dịu dàng, còn nó thì lại quá bối rối, quá bất ngờ, nên chẳng biết phải làm gì.
Giọng của cô khẽ bảo, "Tôi cũng sẽ nhớ cậu. Mãi mãi." Một hơi gió thổi tung tóc nó, đó cũng có thể là do bàn tay của cô lùa qua, rồi nó biết nó chỉ còn lại một mình trên chiếc ghế dàỉ.
Nó đứng dậy.
Bod đi đến chỗ cửa nhà thờ, nhấc hòn đá bên cạnh hàng hiên lên và lấy chiếc chìa khóa phụ mà một người bõ nhà thờ đã chết từ lâu giấu bên dưới. Nó mở cánh cửa gỗ lớn ra mà không cần thử xem nó có thể lách mình xuyên qua cánh cửa được không. Cánh cửa kẽo kẹt mở ra một cách khó khăn.
Bên trong nhà thờ tối om, và Bod phải nheo mắt lại cố nhòm vào bóng tối.
"Vào đây, Bod." Đó là giọng chú Silas.
"Cháu chẳng nhìn thấy gì cả” Bod nói. "Tối quá."
"Đã nhanh đến thế rồi ư?" chú Silas nói. Chú thở dài. Bod nghe có tiếng nhung sột soạt, rồi một que diêm được bật lên, bắt lửa, và được dùng để châm hai cây nến lớn cắm trên hai giá nến bằng gỗ chạm trổ đặt cuối phòng. Trong ánh nến, Bod có thể nhìn thấy người bảo trợ của mình đang đứng bên cạnh một cái hòm lớn bọc da, loại hòm được gọi là rương lớn - đủ rộng cho một người lớn to cao nằm cuộn tròn ở trong. Bên cạnh đó là chiếc túi da của chú Silas, cái túi mà Bod đã trông thấy vài lần, nhưng nó vẫn thấy cái túi oai vệ vô cùng.
Cái rương được lót bằng vải trắng. Bod đưa tay vào trong rương, lướt tay qua lớp lụa lót, và sờ thấy đất khô.
"Đây có phải là chỗ chú ngủ không ạ?" nó hỏi.
"Khi chú đã phải rời xa mái nhà của mình, đúng vậy” chú Silas đáp.
Bod hết sức kinh ngạc: từ khi nó biết nghĩ, và cả trước đó nữa, chú Silas đã luôn có mặt ở đây. "Đây không phải nhà của chú hay sao ạ?"
Chú Silas lắc đầu. "Nhà của chú nằm ở một nơi cách đây rất, rất xa” chú đáp. "Nếu nó vẫn còn ở được. Ở quê hương chú đã xảy ra một số chuyện rắc rối, và chú không biết chú sẽ tìm thấy gì nếu quay lại đó."
"Chú định quay lại đó ạ?" Bod hỏi. Những điều không bao giờ thay đổi đã bắt đầu thay đổi. "Chú định đi thật ạ? Nhưng mà. Chú là người bảo trợ của cháu cơ mà?".
"Chú đã là người bảo trợ của cháu. Nhưng giờ thì cháu đã đủ lớn để tự chăm lo cho bản thân. Chú còn nhiều thứ khác phải bảo vệ."
Chú Silas đóng nắp chiếc rương bọc da nâu lại, buộc các dây chằng và cài hết các khóa.
"Cháu không được ở lại đây hay sao ạ? Ở lại nghĩa địa ấy ạ?"
"Cháu không thể," chú Silas nói, Bod chưa bao giờ thấy chú nói một cách nhẹ nhàng như thế. "Tất cả mọi người ở đây đã sống hết cuộc đời mình, Bod ạ, cho dù đó là một cuộc đời ngắn ngủi đi chăng nữa. Giờ thì đã đến lượt cháu. Cháu cần phải sống."
"Cháu đi cùng chú được không ạ?"
Chú Silas lắc đầu.
"Cháu sẽ gặp lại chú chứ ạ?"
"Có lẽ." Giọng chú Silas rất dịu dàng, và còn có một vẻ gì khác nữa. "Và cho dù cháu có nhìn thấy chú hay không, thì chú dám chắc là chú sẽ nhìn thấy cháu." Chú đặt cái rương tựa vào tường, rồi đi đến cánh cửa ở đầu kia nhà thờ. "Đi theo chú." Bod đi đằng sau chú Silas, bám theo chú xuống cái cầu thang xoáy trôn ốc dẫn vào hầm mộ. "Chú đã xếp riêng một cái rương cho cháu," chú Silas giải thích khi hai chú cháu xuống đến hầm mộ.
Trên nắp cái hộp đựng những cuốn sách thánh ca ẩm mốc là một cái va li da, giống hệt chiếc rương của chú Silas, chỉ có điều nhỏ hơn. "Tất cả của cải của cháu nằm trong đó," chú Silas nói.
Bod hỏi, "Cho cháu biết về đội Hộ vệ Danh dự đi, chú Silas. Chú là một thành viên trong đó. Cả cô Lupescu nữa. Còn ai khác nữa ạ? Có nhiều người trong đội Hộ vệ không ạ? Các chú làm những gì?"
"Những điều bọn chú làm vẫn chưa đủ," chú Silas đáp. "Chủ yếu là bọn chú canh giữ những vùng ranh giới. Bọn chú bảo vệ ranh giới của mọi vật."
"Những vùng ranh giới gì ạ?"
Chú Silas không đáp lại.
"Ý chú là những việc kiểu như ngăn chặn tên Jack cùng đồng bọn của hắn ấy ạ?"
Chú Silas nói, "Bọn chú chỉ làm những điều bọn chú phải làm." Giọng chú có vẻ mệt mỏi vô cùng.
"Nhưng chú đã làm đúng mà. Ý cháu là ngăn chặn bọn Jack ấy ạ. Chúng là những kẻ thật khủng khiếp. Chúng là lũ quỷ dữ."
Chú Silas tiến một bước lại gần Bod, làm thằng bé phải ngửa đầu lên để nhìn vào khuôn mặt tai tái của chú. Chú Silas nói, "Không phải lúc nào chú cũng làm điều đúng. Khi còn trẻ... chú đã làm những điều còn khủng khiếp hơn cả bọn Jack. Khủng khiếp hơn bất kỳ kẻ nào trong số bọn chúng. Khi ấy chính chú mới là con quỷ, Bod ạ, và còn khủng khiếp hơn bất kỳ con quỷ nào”
Bod không hề phải băn khoăn xem người bảo trợ của nó đang nói dối hay là nói đùa. Nó biết mình đang được nghe sự thật. Nó nói, "Nhưng chú không còn như thế nữa, phải không ạ?"
Chú Silas đáp, "Người ta có thể thay đổi," rồi im bặt. Bod tự hỏi không biết có phải người bảo trợ của nó - chú Silas - đang nhớ lại điều gì không. Rồi chú nói, "Rất vinh hạnh đã được làm người bảo trợ của cháu, chàng trai ạ." Chú thò tay vào chiếc áo choàng rồi lôi ra một cái ví cũ kỹ. "Của cháu đấy. Cầm lấy đi."
Bod nhận chiếc ví, nhưng không mở ra.
"Trong đó có tiền. Đủ cho cháu bắt đầu một cuộc sống mới, nhưng không có gì hơn cả."
Bod nói, "Hôm nay cháu đi tìm Alonso Jones, nhưng ông ấy không có ở đó, hoặc là ông ấy có đó nhưng cháu không nhìn thấy. Cháu muốn được nghe ông ấy kể về những nơi xa xôi mà ông ấy đã đến thăm. Những hòn đảo, cá voi, dòng sông băng và những dãy núi. Những nơi mà người ta ăn mặc một cách kỳ lạ nhất trên đời." Bod ngần ngừ. Rồi nó nói, "Những nơi ấy. Chúng vẫn còn ở nguyên chỗ cũ. Cháu muốn nói là, ngoài kia còn có cả một thế giới rộng lớn. Cháu có thể nhìn ngắm thế giới ấy không ạ? Cháu có thể đi đến những nơi ấy không ạ?"
Chú Silas gật đầu. "Ngoài kia còn có cả một thế giới rộng lớn, đúng vậy. Ở ngăn trong va li của cháu có một tấm hộ chiếu, mang tên Nobody Owens. Để kiếm được tấm hộ chiếu ấy không phải dễ dàng đâu”
Bod hỏi, "Nếu cháu đổi ý thì cháu có thể quay lại đây không ạ?" Rồi nó lại tự trả lời câu hỏi của mình, "Nếu cháu quay lại, thì nơi này sẽ là một chỗ dừng chân, nhưng sẽ không còn là nhà cháu nữa."
Chú Silas nói, "Cháu có muốn chú tiễn cháu đến cổng nghĩa địa không?"
Bod lắc đầu. "Tốt hơn hết là cháu đi một mình ạ. Ừm, chú Silas này. Nếu khi nào chú gặp rắc rối, thì chú hãy gọi cháu nhé. Cháu sẽ đến giúp chú."
"Chú không bao giờ gặp rắc rối," chú Silas đáp.
"Không. Cháu đoán là chú không gặp rắc rối. Nhưng dù sao thì chú cũng cứ nhớ như thế."
Trong hầm mộ tối như mực, không khí bốc lên mùi nấm mốc ẩm ướt, mùi những phiến đá cũ, và lần đầu tiên Bod thấy hầm mộ mới nhỏ hẹp làm sao.
Bod nói, "Cháu muốn được thấy cuộc sống. Cháu muốn được nắm cuộc sống trong tay. Cháu muốn để lại dấu chân trên nền cát ở một hòn đảo hoang. Cháu muốn được đá bóng với những người khác. Cháu muốn..," nó cất tiếng, rồi ngưng lại ngẫm nghĩ. "Cháu muốn tất cả mọi thứ "
"Tốt” chú Silas nói. Rồi chú đưa tay lên như để gạt một sợi tóc vương vào mắt - một cử chỉ không giống chú chút nào. Chú nói, "Nếu có khi nào chú cảm thấy mình đang gặp rắc rối, thì chú sẽ gọi cháu."
"Mặc dù chú không bao giờ gặp rắc rối?"
"Như cháu đã nói đấy."
Trên khóe môi chú Silas có một cái gì đó có thể là một nụ cười, cũng có thể là sự tiếc nuối, hoặc chỉ là ảo ảnh do những cái bóng gây ra.
"Thế thì chú cháu mình phải tạm biệt nhau thôi, chú Silas." Bod chìa tay ra, như nó đã làm khi còn nhỏ, và chú Silas nắm lấy bàn tay ấy trong bàn tay lạnh giá với làn da màu ngà voi cổ của mình, rồi nghiêm trang bắt tay nó.
"Tạm biệt, Nobody Owens."
Bod xách chiếc va li nhỏ lên. Nó tự mở cửa ra khỏi hầm mộ rồi trèo ngược lên sườn đồi thoai thoải, không hề ngoái nhìn lại.
Hai cánh cổng đã bị khóa từ lâu. Khi đi tới đó, nó tự hỏi không biết chúng có cho nó chui qua không hay nó sẽ phải quay lại nhà thờ để lấy chìa khóa, nhưng khi đến nơi thì nó trông thấy cánh cổng phụ dành cho người đi bộ không bị khóa và mở rộng, như thể đang chờ đợi nó, như thể toàn thể nghĩa địa cũng đang chào tạm biệt nó.
Một dáng người phốp pháp, da tái xanh đang đứng đợi bên cạnh cánh cổng, và khi nó lại gần, bà ngước lên mỉm cười với nó, những giọt nước mắt trong mắt bà long lanh dưới ánh trăng.
"Con chào mẹ," Bod nói.
Bà Owens đưa nắm tay dụi mắt, rồi kéo tạp dề lên châm chấm vào mắt, và bà lắc đầu. "Con đã biết bây giờ con sẽ làm gì chưa?" bà hỏi.
"Con sẽ khám phá thế giới," Bod nói. "Gặp rắc rối. Rồi lại thoát khỏi những rắc rối. Đi thăm những khu rừng rậm, núi lửa, sa mạc và hoang đảo. Gặp gỡ mọi người. Con muốn được gặp thật nhiều người”
Bà Owens không đáp lại ngay. Bà ngước lên nhìn nó, rồi bà cất tiếng hát một bài hát mà Bod còn nhớ rõ, bài hát bà vẫn thường hát cho nó nghe vào thuở ấu thơ, bài hát bà dùng để hát ru cho nó ngủ khi nó còn nhỏ xíu.
" Hãy ngủ đi bé yêu của mẹ
Ngủ cho đến khi con thức dậy
Lớn lên con sẽ được thấy thế gian
Nếu mẹ không nhầm..."
"Mẹ không nhầm đâu” Bod thì thầm. "Và con sẽ làm được những điều ấy."
" Hôn một người thương
Nhảy một điệu vui
Tìm thấy tên mình
Cùng một kho báu..."
Rồi bà Owens nhớ lại những câu hát cuối cùng, và bà hát nốt cho con trai mình nghe.
Đối mặt với cuộc đời
Với niềm vui, với nỗi đau,
Không bỏ qua con đuờng nào."
"Không bỏ qua con đường nào” Bod nhắc lại. "Quả là một thách thức gian lao, nhưng con sẽ cố hết sức."
Rồi nó định vòng tay ôm mẹ như nó vẫn làm khi còn nhỏ, nhưng làm vậy cũng chẳng khác nào tìm cách ôm lấy một màn sương, bởi vì nó chỉ còn lại một mình trên lối đi.
Nó tiến một bước về phía trước, đi qua cánh cổng dẫn nó ra khỏi nghĩa địa. Nó tưởng như mình vừa nghe thấy một giọng nói lên tiếng, "Mẹ tự hào về con vô cùng, con trai ạ," nhưng cũng có lẽ là nó đã tưởng tượng như vậy.
Bầu trời mùa hè đã bắt đầu sáng lên ở đằng Đông, và Bod liền hướng về phía đó để đi xuống đồi, đi về phía những người sống, về phía thành phố, về phía bình minh.
Trong va li của nó có hộ chiếu, trong ví nó có tiền. Trên môi nó là một nụ cười, mặc dù nụ cười ấy có phần cảnh giác, bởi vì thế giới ngoài kia rộng lớn hơn nhiều so với khu nghĩa địa nhỏ trên đỉnh đồi; và trong thế giới ấy sẽ có những điều bí mật, những hiểm nguy, những người bạn mới để làm quen, những người bạn cũ cần gặp lại, những sai lầm sẽ mắc phải, và vô số con đường cho nó bước đi, trước khi nó phải quay trở lại nghĩa địa, cưỡi trên lưng con bạch mã khổng lồ cùng Phu nhân Xám.
Nhưng giữa hiện tại và lúc ấy, Cuộc sống đang chờ đợi; và Bod tiến vào đó với đôi mắt và trái tim rộng mở.