Chương 8 TẤT CẢ NHỮNG KẺ TÊN JACK
SUỐT MẤY THÁNG VỪA Rồi, chú Silas rất bận. Chú rời khỏi nghĩa địa hàng bao nhiêu ngày, thậm chí là hàng tuần liền không về. Vào dịp Giáng sinh, cô Lu- pescu đến ở ba tuần thế chỗ chú, và Bod đã ăn cùng cô trong căn hộ nhỏ của cô ở khu Phố Cổ. Cô còn đưa nó đi xem bóng đá đúng như chú Silas đã hứa, nhưng rồi cô lại quay về cái nơi mà cô gọi là "Cố Hương," sau khi bẹo má Bod và gọi nó là Nimini, cái biệt danh mà cô đã âu yếm đặt cho nó.
Giờ thì chú Silas đã vắng mặt, cả cô Lupescu cũng không còn ở đây nữa. Ông bà Owens đến ngồi ở bên mộ của Josiah Worthington nói chuyện với ngài Nam tước. Cả ba người đều không vui chút nào.
Josiah Worthington hỏi, "Ông bà định nói là anh ta không cho ông bà biết anh ta đi đâu hay là ai sẽ trông nom thằng bé à?"
Hai vợ chồng nhà Owens lắc đầu, và Josiah Worthington kêu lên, "Anh ta đã biến đi đâu mới được chứ?"
Nhà Owens không biết trả lời thế nào. Ông Owens nói, "Anh ấy chưa bao giờ đi lâu đến thế này. Và anh ấy đã hứa, khi chúng tôi nhận nuôi thằng bé, anh ấy đã hứa sẽ có mặt ở đây hoặc sẽ cử ai đó đến thay để giúp chúng tôi chăm sóc nó. Anh ấy đã hứa cơ mà."
Bà Owens thì bảo, "Tôi e có chuyện xảy ra với anh ấy rồi." Bà nom như sắp khóc đến nơi, nhưng rồi những giọt nước mắt của bà chuyển thành nỗi giận dữ, và bà nói, "Anh ấy cư xử thế này thì thật quá lắm! Không có cách nào để tìm anh ấy hay gọi anh ấy về hay sao?"
"Tôi không biết cách nào cả," Josiah Worthington nói. "Nhưng tôi tin anh ta đã để lại tiền trong hầm mộ để mua thức ăn cho thằng bé."
"Tiền ấy à!" bà Owens kêu lên. "Tiền thì có ích gì cơ chứ?"
"Bod sẽ cần có tiền nếu nó định đi ra ngoài mua thức ăn," ông Owens mở miệng, nhưng bà Owens lại quay ngoắt sang trách cứ ông.
"Hai người cũng tồi tệ chẳng kém gì nhau!" bà bảo. Bà rời khỏi mộ của Nam tước Worthington đi tìm con trai. Đúng như đã đoán, bà tìm thấy nó đang ngồi trên đỉnh đồi, nhìn xuống thành phố bên dưới.
"Nếu con cho mẹ biết con đang nghĩ gì mà mê mải thế, thì mẹ sẽ cho con một xu," bà Owens nói.
"Mẹ có một xu đâu," Bod đáp. Nó đã mười bốn tuổi rồi, và cao hơn cả mẹ nó.
"Mẹ có hai xu ở trong áo quan ấy” bà Owens nói. "Có lẽ giờ đã rỉ xanh cả rồi, nhưng chúng vẫn còn đó." ( Theo phong tục thời xưa ở các nước phương Tây, người ta thường đặt haỉ đồng xu lên mắt người chết trước khi chôn, để trả tiền cho người lái đò khi đi vào âm phủ).
"Con đang nghĩ về thế giới” Bod nói. "Làm sao chúng ta có thể biết chắc kẻ đã giết gia đình con vẫn còn sống? Rằng hắn vẫn đang ở đâu đó ngoài kia?"
"Chú Silas nói hắn vẫn đang đi tìm con," bà Owens đáp.
"Nhưng chú Silas chẳng cho chúng ta biết thêm gì."
Bà Owens nói, "Chú ấy chỉ muốn điều tốt nhất cho con thôi. Con biết thế mà."
"Con biết ạ," Bod dửng dưng trả lời. "Thế chú ấy đi đâu rồi?"
Bà Owens không đáp.
Bod hỏi, "Mẹ đã nhìn thấy người giết gia đình con phải không? Vào cái hôm mẹ nhận nuôi con ấy."
Bà Owens gật đầu.
"Trông hắn như thế nào ạ?"
"Mẹ chỉ để mắt đến con thôi. Để mẹ nhớ xem nào... hắn có mái tóc sẫm màu, gần như đen. Và mẹ thấy rất sợ hắn. Hắn có bộ mặt sắc sảo. Hắn có vẻ vừa giận dữ vừa thèm khát. Chú Silas đã đuổi hắn đi."
"Tại sao chú Silas không giết hắn luôn?" Bod dữ dằn hỏi. "Lẽ ra chú ấy nên giết hắn luôn lúc ấy mới phải."
Bà Owens đặt bàn tay lạnh ngắt lên tay Bod. Bà nói, "Chú ấy không phải quỷ dữ, Bod à."
"Nếu lúc ấy chú Silas giết hắn thì giờ con đã được an toàn rồi. Con có thể đi khắp nơi tùy thích."
"Chú Silas biết về những chuyện ấy rõ hơn con, rõ hơn tất cả chúng ta nhiều. Và chú Silas biết cả về cuộc sống cũng như cái chết nữa” bà Owens nói. "Mọi việc không đơn giản như vậy đâu”
Bod hỏi, 'Tên hắn là gì? Kẻ đã giết gia đình con ấy."
"Lúc ấy hắn không nói."
Bod nghiêng đầu sang một bên và nhìn bà bằng cặp mắt xám dữ dội như một đám mây giông. "Nhưng mẹ biết tên hắn, phải không ạ?"
Bà Owens bảo, "Con không thể làm gì được đâu, Bod à."
"Có chứ ạ. Con có thể học tập. Con có thể học tất cả mọi thứ con cần biết, tất cả mọi thứ con có thể học. Con đã học về cánh cổng của quỷ nhập tràng. Con đã học cách Mộng du. Cô Lupescu đã dạy con quan sát các vì sao. Chú Silas đã dạy con cách im lặng. Con biết phép Ám ảnh. Con biết phép Tàng hình. Con biết rõ từng xen ti mét trong cái nghĩa địa này."
Bà Owens đưa tay ra chạm vào vai đứa con trai. "Một ngày kia," bà nói... rồi bà ngập ngừng. Một ngày kia bà sẽ không thể chạm vào nó được nữa. Một ngày kia nó sẽ rời bỏ họ. Một ngày kia. Và bà nói, "Chú Silas bảo với mẹ rằng kẻ đã giết gia đình con tên là Jack."
Bod không nói gì. Rồi nó gật đầu. "Mẹ ơi?"
"Gì thế, con trai?"
"Khi nào chú Silas mới quay về ạ?"
Một làn gió đêm lạnh buốt thổi từ phương Bắc tới.
Bà Owens không còn thấy giận dữ nữa. Bà thấy lo sợ cho con trai. Bà chỉ nói, "Giá mà mẹ biết được, cưng à, giá mà mẹ biết được."
º º º
Scarlett Amber Perkins đã mười lăm tuổi, và lúc này đây, khi đang ngồi ở tầng trên của chiếc xe buýt hai tầng cổ lỗ, trong lòng cô bé tràn ngập một nỗi căm ghét phẫn nộ. Cô ghét bố mẹ vì đã bỏ nhau. Cô ghét mẹ mình vì đã rời khỏi Scotland, ghét bố mình vì dường như ông chẳng thèm bận tâm đến việc cô không còn ở đó nữa.
Cô ghét cái thành phố này vì nó khác biệt quá thể - chẳng có gì giống với Glasgow, nơi cô đã lớn lên - và cô ghét nó vì thỉnh thoảng, khi vòng qua một ngả rẽ, cô lại trông thấy một cái gì đó khiến cho khung cảnh xung quanh mình trở nên quen thuộc đến se lòng, quen thuộc đến đáng sợ.
Sáng hôm đó, Scarlett không còn chịu nổi nữa và đã nổi giận với mẹ mình. "ít ra thì ở Glasgow con cũng có bạn!" cô bé nói, không hẳn là hét lên mà cũng không hẳn là nức nở. "Con sẽ không bao giờ được gặp lại các bạn ấy nữa!" Mẹ cô đã chỉ đáp lại thế này, "ít ra thì con cũng chuyển đến một nơi con đã biết từ trước. Ý mẹ là, nhà mình đã từng sống ở đây khi con còn nhỏ mà."
"Nhưng con có nhớ gì đâu” Scarlett nói. "Con chẳng quen ai ở đây cả. Mẹ có muốn con đi tìm lại những người bạn cũ từ hồi con lên năm không? Mẹ
muốn thế phải không?"
Và mẹ cô trả lời, "Mẹ có círn COÍÌ dflu«##
Cả ngày hôm ấy ở trường, Perkins đã tức giận vô cùng, và giờ cô bé vẫn còn tức giận, cô ghét trường mới, cô ghét thế giới này, và lúc này đây cô đặc biệt ghét dịch vụ xe buýt của thành phố.
Hàng ngày, sau khi tan trường, chiếc xe buýt số 97 đi về Trung tâm Thành phố sẽ đưa cô từ cổng trương về đến tận cuối con phố nơi mẹ cô đã thuê một căn hộ nhỏ. Nhưng vào cái ngày tháng Tư lồng lộng gió ấy, cô bé đã đợi ở bến xe buýt suốt gần nửa tiếng đồng hồ mà chẳng có chiếc xe số 97 nào hiện ra ả, vì thế khi trông thấy một chiếc xe số 121 với chữ Trung tâm Thành phố đề trên điểm dừng cuối cùng, cô trèo lên ngay. Nhưng ở chỗ chiếc xe buýt của cô thường rẽ phải thì chiếc này lại rẽ trái, đi vào khu Phố cổ, ngang qua công viên ở quảng trường Phố Cổ, ngang qua bức tượng Nam tước Josirth Worthington, rồi đi ngược Iên một con đường đồi uốn lượn, hai bên là những ngôi nhà hẹp cao tầng, trong khi tim Scarlett thót lại và nỗi giận dữ trong trong cô được thay thế bởi một cảm giác khó thở.
Cô đi xuống tầng dưới, cẩn thận tiến về phía trước, liếc mắt nhìn tấm biển báo rằng không được phép nói chuyện với người lái xe trong khi xe đang chạy, rồi lên tiếng, "Xin lỗi bà. Cháu muốn đi về đại lộ Acacia ạ."
Bà lái xe, một phụ nữ to béo, da còn nâu sẫm hơn cả Scarlett, nói, "Thế thì cháu phải lên xe số 97 chứ."
"Nhưng xe này đi về Trung tâm Thành phố mà."
"Đúng thế. Nhưng đến đó rồi cháu vẫn phải đi ngược trở lại." Bà ta thở dài. "Tốt hơn hết là cháu nên xuống ở đây, đi xuống chân đồi, ở trước tòa thị chính có một bến đỗ đấy. Từ đó cháu lên xe số 4 hoặc số 58, cả hai xe đó đều đưa cháu đến gần đại lộ Acacia. Cháu có thể xuống ở chỗ trung tâm thể thao, rồi đi bộ ngược lên.
Cháu nhớ được không?"
“Xe số 4 hoặc số 58 ạ."
'Ta sẽ cho cháu xuống đây." Đó là một bến nơi xe buýt chỉ đỗ lại nếu có khách, nằm gần một chiếc cổng với hai cánh cổng sắt mở toang, trông tiêu điều và thê lương vô cùng. Scarlett đứng chần chừ ở cửa xe cho đến khi bà lái xe phải giục, "Nào. Xuống đi, cháu” Cô bé bước xuống vỉa hè, và chiếc xe nhả khói đen xì rồi gầm rú lao đi.
Gió thổi xào xạc giữa những cành cây ở phía bên kia bức tường.
Scarlett bắt đầu xuống đồi - đây chính là lý do mình cần có điện thoại di động, cô tự nhủ. Chỉ cần cô bé về muộn năm phút thôi là mẹ cô đã phát hoảng lên rồi, nhưng mẹ vẫn không chịu mua cho cô một chiếc điện thoại riêng. Thôi, biết làm sao được. Cô sẽ phải chịu một trận la mắng nữa vậy. Đây đâu phải lần đầu tiên, và cũng chẳng phải là lần cuối cùng.
Giờ thì cô bé đã ở ngang tầm với hai cánh cổng để ngỏ kia. Cô liếc mắt nhìn vào, và rồi...
"Lạ thật” cô bé buột miệng nói.
Có một từ trong tiếng Pháp, déja vu , được dùng để miêu tả cái cảm giác là ta đã từng đến một nơi nào đó, bằng một cách nào đó ta đã mơ thấy nơi này, hoặc nhìn thấy ở trong tâm trí. Scarlett rất hay có cái cảm giác ấy, cảm giác khi biết rằng cô giáo sắp sửa nói với cả lớp là cô sẽ đi nghỉ ở Invernoss, hay nhận ra rằng người vừa đánh rơi cái thìa nọ trước kia đã từng đánh rơi thìa y hệt như thế, nhưng cái này lại khác hẳn. Nó không phải cảm giác trước kia cô bé đã từng đến đây. Cô đã từng đến đáy thật
Scarlett bưức qua hai cánh cổng để ngỏ, tiến vào nghĩa địa.
Một con chim ác là bay vụt lên khi cô bé bước vào, bộ lông trắng đen có ánh xanh vụt qua như một tia chớp, rồi nó đậu xuống một cành thủy tùng để quan sát cô bé.
Đằng sau góc quanh kia , cô nghĩ thầm, có một nhà thờ ; với một chiếc ghế dài đặt ở đằng tr ư ớc , rồi cô vòng qua góc quanh, và trông thấy một nhà thờ thật - nhỏ hơn nhiều so với cái nhà thờ trong trí tưởng tượng của cô, một tòa nhà nhỏ vuông vắn bằng đá xám xây theo kiến trúc Gô tích, trông rờn rợn, với một cái mái nhọn nhô lên. Đằng trước nhà thờ là một chiếc ghế băng đã cũ vì dầm mưa dãi nắng. Scarlett đi đến đó, ngồi xuống ghế và đu đưa chân như mội cô bé con.
"Xin chào. Ờ, xin lỗi cháu?" một giọng nói vang lên sau lưng cô. "Tôi biết hỏi thế này thì thật đường đột, nhưng chảu có thể giúp tôi giữ cái này được không, ờ, chỉ cần thêm một đôi tay nữa thôi, nếu không quá phiền đến cháu."
Scarlett quay lại, và nhìn thấy một người đàn ông mặc áo mưa màu vàng nâu đang quỳ lom khom trước một tấm bia mộ. Ông ta đang giữ một tờ giấy khổ rộng, bị gió thổi bạt đi. Cô bé vội chạy đến chỗ ông ta.
"Cháu giữ chắc chỗ này nhé” người đàn ông nói. "Một tay để đây, một tay để đây, đúng rồi. Tôi thật là hay đòi hỏi quá đáng phải không. Cảm ơn cháu nhiều lắm”
Bên cạnh ông có một hộp bánh quy bằng thiếc, và ông lấy từ trong hộp ra một thỏi phấn màu cỡ bằng một cây nến nhỏ. Ông dùng thỏi phấn xoa qua lại trên bề mặt tấm bia bằng những động tác thành thạo, thoải mái.
"Được rồi," ông vui vẻ reo lên. "Hiện ra rồi đây... ui. Ở dưới góc này có cái gì ngoằn ngoèo này, tôi đoán là dây thường xuân - người thời Victoria rất thích chạm trổ dây thường xuân, có rất nhiều ý nghĩa tượng trưng, cháu biết không... và xong rồi. Cháu có thể bỏ tay ra được rồi đấy."
Ông đứng dậy, đưa tay cào cào mớ tóc đã ngả bạc. "Ui da. Phải đứng lên một tí mới được. Chân tê hết cả rồi” ông nói. "Đây. Cháu thấy thế nào?"
Tấm bia mộ thật đã bị phủ đầy địa y xanh vàng, những chữ khắc trên đó bị bào mòn và mờ đi đến độ gần như không đọc nổi, nhưng hình tô lại trên tờ giấy thì nổi lên rõ ràng. "Majella Godspeed, Người phụ nữ độc thân của giáo khu, 1791-1870, Chỉ còn lại trong ký ức ," Scarlett đọc to.
"Và giờ thì có lẽ cả trong ký ức cũng không còn," người đàn ông nói. Đầu ông đã bắt đầu hói, và ông rụt rè mỉm cười rồi chớp mắt nhìn cô bé qua cặp kính tròn,
nhỏ, làm ông nom như một bác cú thân thiện.
Một giọt mưa to rơi "độp" xuống tờ giấy và người đàn ông vội vã cuộn tờ giấy lại rồi chộp lấy cái hộp thiếc dựng phấn màu của mình. Thêm mấy hạt mưa nữa, và Scarlett vội nhặt chiếc cặp giấy mà người đàn ông chỉ, đang đặt dựa vào một tấm bia gần đó, rồi chạy theo ông vào dưới hàng hiên nhỏ xíu của nhà thờ, nơi mưa không bắn tới được.
"Cảm ơn cháu rất nhiều," người đàn ông nói. "Tôi nghĩ mưa sẽ không kéo dài đâu. Dự báo thời tiết nói chiều nay nắng mà."
Như để vặc lại lời ông, một cơn gió lạnh buốt nổi lên và mưa rào rào đổ xuống.
"Tôi biết cháu đang nghĩ gì rồi," người đàn ông tô bia mộ nói với Scarlett.
"Thật ạ?" cô bé hỏi lại. Cô vừa mới nghĩ, Mẹ sẽ giết mình mất.
"Cháu đang nghĩ, đây là nhà thờ hay là nhà tang lễ, phải không? Và câu trả lời là, theo như tôi biết, thì ở nơi này đúng là đã có một nhà thờ nhỏ, và khu nghĩa địa trước kia nằm trong sân của nhà thờ đó. Đó là từ năm 800 hoặc 900 kia. Nó đã được sửa lại và mở rộng rất nhiều lần. Nhưng vào khoảng những năm 1820, ở đây xảy ra một đám cháy, và đến lúc đó thì nhà thờ đã trở thành quá nhỏ đối với vùng này. Người dân quanh đây dùng nhà thờ Thánh Dunstan ở dưới quảng trường làng làm nhà thờ cho giáo xứ, vì vậy sau khi sửa lại nhà thờ này, họ liền dùng nó làm nhà tang lễ, và giữ lại khá nhiều nét kiến trúc cũ. Người ta nói những cửa sổ kính màu ở bức tường đằng kia đã có từ khi nhà thờ mới được xây cơ đấy..."
'Thật ra, cháu đang nghĩ là mẹ sẽ giết cháu mất” Scarlett nói. "Cháu đã lên nhầm xe buýt, và đã bị muộn giờ về nhà lắm rồi..."
"Chúa ơi, tội nghiệp cháu” người đàn ông nói. "Nghe này, nhà tôi ở ngay dưới kia thôi. Cháu đợi ở đây nhé..." Nói đoạn ông giúi chiếc cặp giấy, hộp phấn màu cùng với tờ giấy cuộn tròn vào tay cô bé, rồi chạy xuống chỗ cánh cổng, hai vai so lại bên dưới màn mưa nặng hạt. Mấy phút sau, Scarlett nhìn thấy ánh đèn ô tô và nghe tiếng còi xe vang lên.
Scarlett chạy xuống chỗ cổng và trông thấy chiếc xe, một chiếc Mini màu xanh lục cũ kỹ. Người đàn ông mà cô bé vừa trò chuyện đang ngồi trên ghế tài xế. Ông hạ cửa sổ xuống.
"Cháu vào đi," ông nói. "Nhà cháu ở đâu?"
Scarlett đứng đó, nước mưa chảy ròng ròng xuống cổ. "Cháu không đi nhờ xe người lạ," cô bé đáp.
"Cháu làm thế là rất đúng” người đàn ông nói. "Nhưng làm ơn thì phải được đền đáp, hay đại loại như thế. Đây, cháu bỏ các thứ đó vào ghế sau này, không thì ướt hết mất." Ông mở cửa sau ra, và Scarlett cố nhoài người vào để đặt các dụng cụ tô bia mộ của ông lên ghế sau. "Hay là thế này nhé” ông nói. "Sao cháu không gọi điện cho mẹ cháu - cháu có thể dùng điện thoại của tôi đây - và cho mẹ cháu biết biển số xe của tôi? Cháu vào trong xe mà gọi. Cháu cứ đứng ngoài ấy, ướt hết rồi kìa."
Scarlett chần chừ. Mưa đã làm tóc cô dính bết xuống, Trời rất lạnh.
Người đàn ông chìa tay ra đưa cho cô bé chiếc điện thoại di động của mình. Scarlett nhìn cái điện thoại. Cô nhận ra rằng mình sợ phải gọi điện cho mẹ hơn là sợ phải bước vào trong chiếc xe ấy. Rồi cô hỏi, "Cháu có thể gọi cả cảnh sát nữa chứ ạ?"
"Tất nhiên là được rồi. Hoặc cháu có thể đi bộ về nhà. Hoặc cháu có thể gọi cho mẹ và bảo mẹ đến đây đón cháu."
Scarlett ngồi vào cạnh ghế tài xế và đóng cửa lại. Cô vẫn nắm chặt chiếc điện thoại của người đàn ông trong tay.
"Nhà cháu ở đâu?"
"Không cần đâu ạ. Chú cứ đưa cháu đến bến xe buýt là được rồi ạ..”
'Tôi sẽ đưa cháu về nhà. Địa chỉ là gì nào?"
"102a đại lộ Acacia ạ. Nó nằm ngoài đường chính, cách trung tâm thể thao một quãng..."
"Cháu đã đi xa thật đấy, phải không nào? Được rồi. Để tôi đưa cháu về nhà nào." Ông bỏ phanh tay xuông, vòng chiếc xe lại và lái xuống đồi.
"Cháu sống ở đây đã lâu chưa?" ông hỏi.
"Chưa ạ. Mẹ con cháu mới chuyển đến đây ngay sau Giáng sinh. Nhưng nhà cháu đã ở đây hồi cháu năm tuổi”
'Tôi nghe giọng cháu có chút giống giọng người Scotland thì phải?"
"Nhà cháu đã ở Scotland mười năm liền. Khi ở đấy, giọng cháu nghe giống như tất cả mọi người khác, thế rồi cháu chuyển xuống đây, và bây giờ thì cháu cứ nổi lên như là một ngón tay bị đau ấy." Cô muốn nói câu ấy một cách đùa cợt, nhưng khi nghe giọng mình, cô biết đó là sự thật. Giọng nói của cô chẳng có vẻ buồn cười chút nào, chỉ đầy chua chát mà thôi.
Người đàn ông lái xe đến đại lộ Acacia, đỗ lại trước cửa nhà, rồi nhất định đi cùng cô đến cửa trước. Khi cửa mở ra, ông nói, "Rất xin lỗi chị. Tôi đã mạn phép đưa cháu nhà chị về đây. Chị đã dạy cháu rất đúng, không được đi nhờ xe người lạ. Nhưng trời thì đang mưa, cháu lên nhầm xe buýt, và bị lạc đến tận đầu kia của thành phố. Quả là rắc rối vô cùng. Xin chị hãy rộng lòng tha thứ. Tha thứ cho cháu. Và, ờ, cả tôi nữa!"
Scarlett tưởng mẹ mình sẽ quát tháo cả hai người, nhưng cô bé vừa ngạc nhiên vừa nhẹ cả người khi mẹ chỉ nói rằng, "Ngày hôm nay thì không thể tỏ ra quá thận trọng được, rồi hỏi ông Ờ có phải là thầy giáo không, và ông có muốn vào nhà uống một tách trà không?
Ông Ờ đáp lại rằng tên ông là Frost, nhưng cứ gọi ông là Jay, và bà Perkins mỉm cười bảo ông cứ gọi bà là Noona, rồi bà đặt ấm đun nước.
Trong lúc uống trà, Scarlett kể cho mẹ nghe chuyện mình đã lên nhầm xe buýt, và rồi cô bé đã đi vào khu nghĩa địa và gặp ông Frost ở cạnh ngôi nhà thờ nhỏ...
Bà Perkins đánh rơi tách trà trong tay.
Họ đang ngồi quanh cái bàn trong bếp, vì vậy cái tách không rơi xa lắm, và cũng không bị vỡ, chỉ đánh đổ trà ra sàn thôi. Bà Perkins lúng túng xin lỗi, rồi đi lấy một cái giẻ từ trong bồn rửa để lau chỗ nước trà bị đổ.
Rồi bà hỏi, "Cái nghĩa địa trên đồi, gần khu Phố Cổ ấy à? Là cái nghĩa địa ấy phải không?"
"Tôi sống gần đó” ông Frost đáp. "Tôi hay lên đó tô lại bia mộ. Và chị có biết đó thực ra là một khu bảo tồn thiên nhiên không?"
Bà Perkins đáp, 'Tôi biết," qua đôi môi mím chặt. Rồi bà nói, "Cảm ơn anh vì đã đưa Scarlett về nhà, anh Frost." Mỗi lời bà thốt ra tựa như một cục băng. Bà nói tiếp, "Tôi nghĩ là anh nên về thôi."
"Tôi lại nói nhiều quá rồi” ông Frost thân mật đáp lại. "Tôi không chủ tâm làm chị phật ý. Tôi đã nói gì không phải ư? Chuyện tô bia mộ chỉ là cho một đề án về lịch sử địa phương thôi mà, tôi không, ờ, đào xương cốt gì lên đâu"
Trong một khoảnh khắc, Scarlett tưởng như mẹ mình sắp giáng một cái tát lên mặt Ông Frost, còn ông Frost thì đang tỏ ra rất lo lắng. Nhưng bà Perkins chỉ lắc đầu và nói, "Xin lỗi, đó là chuyện riêng của gia đình. Không phải lỗi của anh” Rồi, như thể phải cố gắng lắm, bà mới vui vẻ nói thêm, "Anh biết không, chính Scarlett hồi còn bé vẫn hay chơi trong cái nghĩa địa ấy đấy. Đã, bao lâu nhỉ, mười năm nay rồi. Nó còn có cả một người bạn tưởng tượng ở đó nữa. Một thằng bé tên là Không Ai Cả."
Một nụ cười hiện lên ở khoé miệng ông Frost. "Một chú ma à?"
"Không, tôi không nghĩ thế. Cậu bé chỉ sống ở đó thôi. Con bé còn chỉ ra ngôi mộ nơi cậu bé ở nữa. Tôi đoán có lẽ đó là một cậu ma thật. Con còn nhớ không,
Searlett lắc đầu. "Chắc hồi ấy con kỳ quặc lắm nhỉ," cô bé nói.
"Tôi dám chắc là cháu không như thế, ờ, không đâu” ông Frost nói. "Chị có một cô con gái rất ngoan, chi Noona ạ. Cảm ơn chị đã mời tôi uống trà. Rất vui khi được làm quen với một người bạn mới. Tôi phải đi đây. Tôi phải về nhà nấu bữa tối, để rồi còn đi họp ở Hội Lịch sử Địa phương nữa."
"Anh phải tự nấu bữa tối à?" bà Perkins hỏi.
"Vâng, tự nấu. Hay đúng hơn là làm rã đông. Tôi còn rất giỏi chế biến các món ăn liền nữa. Các món cho một người ăn ấy. Chỉ có một mình tôi thôi mà. Tôi gần như một ông già độc thân cắn cảu. Đúng ra, theo như các báo viết, thì như thế có nghĩa là người đồng tính luyến ái, phải không? Tôi không đồng tính, chỉ có điều là chưa bao giờ gặp được người phụ nữ phù hợp thôi."
Và trong một thoáng, trông ông có vẻ hơi buồn.
Bà Perkins, vốn rất ghét nấu ăn, liền tuyên bố là vào cuối tuần bà thường nấu quá nhiều thức ăn, và khi bà dẫn ông Frost ra tiền sảnh, Scarlett nghe thấy ông vui vẻ nhận lời đến ăn tối vào ngày thứ Bảy.
Khi từ tiền sảnh quay vào, bà Perkins chỉ nói với Scarlett mỗi một câu, "Mẹ hy vọng con đã làm xong bài tập về nhà."
º º º
Đến đêm, khi nằm trên giường lắng nghe tiếng xe cộ ầm ì trên con phố chính, Scarlett vẫn còn nghĩ về những chuyện đã xảy ra chiều hôm đó. Thì ra cô đã từng đến đó, đến cái nghĩa địa ấy, khi cô còn nhỏ. Thảo nào mọi thứ lại có vẻ quen thuộc đến vậy.
Mãi tưởng tượng và nhớ lại, cô bé ngủ thiếp đi lúc nào không biết, nhưng trong giấc ngủ cô vẫn đang bước đi trên những lối mòn trong nghĩa địa. Đang là đêm, nhưng cô có thể trông thấy mọi thứ rõ như ban ngày. Cô đang ở trên một sườn đồi. Có một thằng bé trạc tuổi cô đang đứng quay lưng lại, nhìn xuống ánh sáng của thành phố bên dưới.
Scarlett hỏi, "Này, cậu đang làm gì thế?"
Thằng bé quay lại, nhưng phải mất một lúc mới tập trung được. "Ai hỏi đấy?" và rồi, "Ô, tớ trông thấy cậu rồi, nhưng hơi mờ. Cậu đang Mộng du ấy à?"
"Hình như tớ đang nằm mơ thật," cô đồng tình,
"Tớ không định nói thế” thằng bé bảo. "Xin chào. Tớ là Bod."
"Tớ là Scarlett” cô nói.
Thằng bé nhìn cô như thể mới trông thấy cô lần đầu tiên vậy. "Đúng là cậu rồi! Tớ biết là trông cậu quen lắm mà. Hôm nay cậu đã có mặt ở nghĩa địa với ngtiời đàn ông đó, cái ông cầm tờ giấy ấy."
"Chú Frost," cô đáp. "Chú ấy dễ chịu lắm. Chú ấy đã chở tớ về nhà đấy” Rồi cô hỏi, "Cậu đã trông thấy tớ và chú ấy à?"
"Ừ. Tớ luôn để mắt đến mọi việc diễn ra trong nghĩa địa mà."
"Nhưng Bod là cái tên gì mà lạ thế?"
''Tên tắt của Nobody, tức là Không Ai Cả."
"Đúng rồi!" Scarlett reo lên. "Thì ra là tớ đang mơ về chuyện này. Cậu là người bạn tưởng tượng của tớ hồi tớ còn nhỏ, giờ thì cậu đã lớn lên rồi."
Thằng bé gật đầu.
Nó đã cao hơn Scarlett. Nó mặc đồ màu xám, nhưng Scarlett không thể miêu tả cụ thể đó là những thứ quần áo gì. Mái tóc của nó hơi dài quá, và Scarlett nghĩ hẳn đã lâu rồi nó chưa được cắt tóc.
Thằng bé bảo, "Hồi ấy cậu rất can đảm. Bọn mình đã trèo xuống tít sâu trong lòng đồi và trông thấy Người Da Chàm. Và bọn mình còn gặp cả các Sát thủ nữa."
Đúng lúc ấy thì có một điều gì đó xảy ra trong đầu cô bé. Một tiếng ào ào vang lên, cô có một cảm giác như bị vấp ngã, rồi bóng tối cuộn xoáy cùng một loạt những hình ảnh vụt qua bao trùm lên tất cả...
"Mình nhớ ra rồi," Scarlett nói. Nhưng cô đã thốt ra câu ấy với bóng tối trống rỗng trong phòng mình, và chẳng nghe thấy tiếng nói nào đáp lại ngoài tiếng rầm rầm xa xăm của một chiếc xe tải đang phóng qua màn đêm.
º º º
Bod có khá nhiều thức ăn dự trữ, những thức ăn có thể để lâu được, một ít cất trong hầm mộ ở nhà thờ, và chỗ còn lại thì để trong những cái huyệt, hầm mộ và lăng có nhiều hơi lạnh. Chú Silas đã lo chuyện đó. Nó có đủ thức ăn cho vài ba tháng liền. Nó sẽ không rời khỏi nghĩa địa, trừ phi chú Silas hoặc cô Lupescu có mặt ở đó.
Nó nhớ cái thế giới bên ngoài hai cánh cổng nghĩa địa, nhưng nó biết ở ngoài ấy đối với nó là không an toàn. Chưa đến lúc. Còn ở đây, nghĩa địa này là thế giới của nó, lãnh thổ của nó. Nó rất tự hào và yêu nơi này với một tình yêu mà chỉ những chú bé mười bốn tuổi mới có được.
Thế nhưng...
Trong nghĩa địa, chẳng ai thay đổi. Những đứa trẻ mà Bod đã chơi cùng khi nó còn nhỏ bây giờ vẫn là trẻ con; Fortinbra Bartleby, trước kia vốn là bạn thân nhất của nó, giờ lại bé hơn Bod bốn hay năm tuổi, và mỗi lần gặp nhau chúng nói chuyện càng ngày càng ít đi; Thack- eray Porringer thì vốn đã bằng tuổi Bod bây giờ, cao bằng nó và đối xử với nó dễ chịu hơn hẳn; cậu ta thường đi dạo với Bod vào các buổi tối và kể cho nó nghe những chuyện không may đã xảy ra với bạn bè của cậu ta. Thường thường những câu chuyện ấy kết thúc với việc người bạn đó bị treo cổ cho đến chết vì những tội họ không gây ra, hoặc vì nhầm lẫn, nhưng cũng thỉnh thoảng họ chỉ bị đày sang các thuộc địa ở châu Mỹ và sẽ không bị treo cổ trừ phi họ mò về nước Anh.
Liza Hempstock, vốn đã là bạn của Bod suốt sáu năm qua, cũng thay đổi, nhưng theo một cách khác; cô rất ít khi có mặt ở khoảng đất đầy cây tầm ma mỗi khi Bod đi xuống đó để thăm cô; và trong những dịp hiếm hoi khi cô có ở đó thì thường tỏ ra cáu bẳn, nói chuyện như muốn cãi nhau, và nhiều khi cực kỳ bất lịch sự.
Bod kể chuyện ấy cho bố mình nghe, và sau một hồi ngẫm nghĩ, ông Owens nói, "Bố đoán đó chỉ là tâm tính phụ nữ thôi. Cô ấy đã quý mến con khi con còn là một chú nhóc, nhưng giờ con là một chàng trai rồi, nên có lẽ cô ấy không biết con đã trở thành người như thế nào. Hồi trước bố vẫn ngày ngày chơi đùa dưới ao với một cô bé con, cho đến khi cô bé khoảng bằng tuổi con bây giờ ấy, và rồi cô bé ném một quả táo vào đầu bố và không chịu nói với bố một câu nào cho đến tận khi bố mười bảy tuổi."
Bà Owens khịt mũi. "Tôi ném một quả lê đấy chứ” bà đanh đá đốp lại, "và tôi cũng chẳng đợi lâu đến thế để nói chuyện lại với ông, vì chúng mình đã nhảy với nhau một điệu ở đám cưới ông anh họ Ned của ông, và hôm ấy thì ông mới tròn mười sáu tuổi hai ngày."
Ông Owens đáp, 'Tất nhiên là bà nói đúng rồi, bà thân yêu ạ." Ông nháy mắt với Bod, ý bảo nó rằng chuyện này chẳng có gì là nghiêm trọng cả. Rồi ông thì thào "Mười bảy tuổi” để chứng tỏ rằng đó mới là sự thật.
Bod không cho phép mình có người bạn nào trong số những người sống cả. Trong những ngày đến trường ngắn ngủi của mình, nó đã học được rằng điều đó chỉ đem lại rắc rối mà thôi. Thế nhưng nó vẫn không quên Scarlett, hàng bao nhiêu năm sau khi cô bé chuyển đi nó vẫn nhớ cô bé, và từ lâu đã đối mặt với sự thật là nó sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa. Vậy mà giờ đây, khi cô bé xuất hiện trong khu nghĩa địa của nó, nó lại không nhận ra cô...
Nó đang đi lang thang sâu hơn trong khoảng bụi rậm đầy cây cối và dây thường xuân vô cùng nguy hiểm ở góc Tây Bắc của nghĩa địa. Ở đó có những tấm biển cảnh báo người qua lại hãy tránh xa nơi đó, nhưng những tấm biển ấy là không cần thiết. Một khi đã đi quá đám dây thường xuân đánh dấu đoạn cuối Đường Ai Cập cùng những cánh cửa màu đen trên bức tường giả Ai Cập dẫn đến nơi an nghỉ cuối cùng của mọi người, ta sẽ lạc vào một vùng hoang vu rợn người. Ở phía Tây Bắc này, từ gần một trăm năm nay thiên nhiên đã giành lại đất của nghĩa địa, các tấm bia đã bị lật đổ, những ngôi mộ bị quên lãng hoặc đơn giản là bị phủ lấp bởi những dây thường xuân xanh rì cùng lớp lá đã rụng xuống suốt năm mươi năm. Các lối mòn cũng đã bị phủ kín và không thể đi qua được.
Bod bước đi hết sức cẩn thận. Nó biết rõ nơi này và nó cũng biết rõ nơi này nguy hiểm đến mức nào.
Năm Bod lên chín, nó đang thám hiểm ở đúng chỗ này thì mặt đất sụt xuống dưới chân, làm nó ngã nhào xuống một cái hố sâu gần sáu mét. Cái huyệt đã được đào sâu như vậy để giành chỗ cho nhiều cỗ quan tài, nhưng ở đó không có tấm bia nào, mà chỉ có một cỗ quan tài duy nhất ở dưới đáy huyệt; trong quan tài là một quý ông thích y học, lại dễ bị kích động, tên là Carstairs, ông ta có vẻ rất phấn khởi khi thấy Bod và cứ nằng nặc đòi khám cổ tay của nó (vì Bod lúc ngã xuống đã bám vào một rễ cây và bị trẹo tay), phải mất một lúc nó mới thuyết phục được ông ta gọi người đến giúp.
Bod đang tìm đường xuyên qua góc nghĩa địa phía Tây Bắc này, khoảng đất đầy lá rụng trơn trượt, dây thường xuân phủ dày, nơi đàn cáo đã kéo đến sinh sống, nơi những bức tượng thiên thần bị đổ đang nhìn lên bằng cặp mắt mờ đục, bởi vì nó muốn được nói chuyện với chàng Thi sĩ.
Tên của chàng Thi sĩ là Nehemiah Trot, và tấm bia trên mộ của chàng, nằm dưới lớp lá xanh, có khắc những chữ như sau:
Nơi đây an nghỉ thi hài của NEHEMIAH TROT THI SĨ 1741-1774 (THIÊN NGA CẤT TIẾNG HÁT TRƯỚC KHI CHẾT) Bod gọi, "Anh Trot ơi? Em xin anh một lời khuyên được không?"
Nehemiah Trot uể oải mỉm cười. "Tất nhiên rồi, cậu bé can đảm. Lời khuyên của các thi sĩ cũng giống như ơn huệ của các vị vua vậy! Tôi có thể bôi thuốc, không, không phải là bôi thuốc, tôi có thể xức đầu cho nỗi đau của cậu bằng cách nào đây?"
"Em không đau đớn gì đâu. Em chỉ - là thế này, có một cô bé em quen hồi trước, nhưng em không biết mình nên đi tìm và nói chuyện với bạn ấy, hay là nên quên chuyện này đi."
Nehemiah Trot đứng thẳng lên, vươn hết chiều cao của mình, nhưng vẫn thấp hơn Bod, xúc động đưa tay lên ngực, và nói, "Ôi! Cậu phải tìm gặp nàng, van xin nàng. Cậu phải gọi nàng là nữ thần Terpsichore, là nàng tiên Echo, là nàng Clytemnestra của cậu. Cậu phải làm thơ tặng nàng, phải sáng tác những bài tụng ca hoành tráng - tôi sẽ giúp cậu - và bằng cách ấy - chỉ bằng cách ấy mà thôi, cậu mới có thể đoạt được trái tim người yêu đích thực của mình."
"Thật ra em không muốn đoạt được trái tim của bạn ấy. Bạn ấy cũng không phải là người yêu đích thực của em," Bod đáp. "Em chỉ muốn nói chuyện với bạn ấy thôi."
"Trong mọi cơ quan trên cơ thể," Nehemiah Trot nói, "thì cái lưỡi là cơ quan kỳ diệu nhất. Bởi chúng ta dùng nó để nếm thứ rượu vang ngọt ngào cũng như thứ thuốc độc cay đắng, vì thế chúng ta cũng dùng nó để thốt lên những lời dịu dàng cũng như chua chát. Hãy đến với nàng đi! Hãy trò chuyện với nàng!"
"Em không nên thì hơn."
"Cậu nên chứ! Cậu phải làm vậy! Tôi sẽ ghi chép lại, khi trận chiến này đã kết thúc."
"Nhưng nếu em hiện hình lên với một người, thì những người khác cũng sẽ dễ nhìn thấy em hơn..."
Nehemiah Trot nói, "A, xin hãy lắng nghe lời tôi, hỡi chàng Leander và nàng Hero, hỡi chàng Alexander trẻ tuổi. Nếu cậu không dám liều lĩnh, thì cuối cùng, cậu sẽ chẳng đạt được điều gì hết." !
"Anh nói phải đấy” Bod thấy hài lòng với mình, và rất mừng vì nó đã nghĩ ra việc xin lời khuyên của chàng Thi sĩ. Đúng như vậy , nó tự nhủ, nếu mình không thể tin rằng một thi sĩ có thể cho mình những lời khuyên chí lý thì mình còn có thể tin ai được nữa? Nghĩ như vậy nó mới sực nhớ ra...
"Anh Trot ơi?" Bod hỏi, "Anh hãy cho em biết về việc trả thù đi."
"Đó là một món tốt nhất là nên ăn nguội" Nihemiah Trot đáp. "Đừng tìm cách trả thù trong lúc nóng nảy giận giữ. Hãy đợi đến thời điểm thích hợp. Có một lão nhà văn chuyên viết mướn ở phố Grub tên là O'Leary - một lão người Ailen, tôi xin nói thêm như vậỵ - đã trơ tráo, đã táo gan vô cùng, khi dám nhận xét rằng tập thơ ngắn đầu tay của tôi, một bó hoa thơm tươi đẹp dành cho các quý ông thượng lưu , là một tập thơ hạ cấp dở ẹc không có chút giá trị gì, và những tờ giấy dùng để viết các bài thơ ấy sẽ có ích hơn nếu được dùng để, không, tôi không thể nói ra được. Chỉ xỉn thưa với cậu rằng đó là một lời nhận xét hết sức tục tĩu."
"Nhưng anh đã trả thù lão ta chứ ạ?" Bod tò mò hỏi.
"Trả thù lão và toàn thể cái giống nhà văn dịch hạch như lão nữa! Ôi, tôi đã trả thù, cậu Owens ạ, đã trả thù một cách gớm ghê vô cùng. Tôi đã viết và cho in một bức thư mà tôi đóng đinh lên cửa tất cả các quán rượu của London, nơi những tên văn sĩ hạng bét ấy thường lui tới. Và tôi đã giải thích rằng, vì thiên tài của một đại thi hào là rất mong manh, từ giờ trở đi tôi sẽ không làm thơ cho chúng nữa mà chỉ làm thơ cho bản thân tôi và cho các thế hệ sau, rằng từ giờ cho đến lúc chết, tôi sẽ không xuất bản một bài thơ nào nữa - không xuất bản cho bọn chúng! Và tôi cũng để lại các chỉ dẫn rằng sau khi tôi chết, các bài thơ của tôi phải được chôn cùng với tôi, không được đem in, và chỉ khi đời sau đã nhận ra thiên tài của tôi, nhận ra rằng hàng trăm bàỉ thơ của tôi đã bị mất - bị mất! - chỉ đến khi đó thì quan tài của tôi mới được phép khai quật lên, chỉ đến khi đó thì những bài thơ của tôi mới được rời khỏi hai bàn tay giá lạnh của tôi, và được đem xuất bản trong sự ca ngợi và sung sướng của tất thảy mọi người. Có những tư tưởng vượt quá thời đại của mình quả là một điều bất hạnh."
"Thế sau khi anh chết, người ta đã đào anh lên và xuất bản các bài thơ đó ạ?"
"Chưa, họ chưa làm thế. Nhưng vẫn còn nhiều thời gian mà. Các thế hệ sau kéo dài lắm."
"Tức là... đấy là cách trả thù của anh ạ?"
"Chính thế. Một cách trả thù vô cùng hiệu quả và khéo léo nữa chứ!"
"Vâ-âng” Bod trả lời vẻ hoài nghi.
"Tốt. Nhất. Nên. Ăn. Nguội” Nehemiah Trot kiêu hãnh nói.
Bod rời khỏi góc Tây Bắc của nghĩa địa, men theo Đường Ai Cập quay về những con đường chỉn chu hơn, những lối mòn không bị phủ lấp, và khi bóng chiều buông xuống, nó lang thang quay lại chỗ ngôi nhà thờ cũ - không phải nó hy vọng chú Silas đã trở về mà bởi vì cả đời mình nó đã luôn đến nhà thờ vào lúc hoàng hôn, nên giữ cái thói quen ấy khiến nó cảm thấy dễ chịu.
Hơn nữa, nó cũng thấy đói rồi.
Bod chui qua cửa hầm mộ và đi xuống dưới. Nó bỏ sang một bên cái hộp các tông chất đầy giấy má cũ của giáo khu, giờ đã ngấm nước quăn cả lại, và lấy ra một
hộp nước cam, một quả táo, một hộp bánh mì que và một tảng pho mát, rồi vừa ăn vừa nghĩ xem nó sẽ đến gặp Scarlett kiểu gì - có lẽ nó nên thử Mộng du, bởi vì cô bé đã gặp được nó theo cách ấy...
Nó đi ra ngoài, định lên ngồi ở chỗ chiếc ghế gỗ màu xám, thì bỗng nhìn thấy một cái gì đó khiến nó ngần ngừ dừng bước. Đã có một người đang ngồi trên chiếc ghế của nó. Cô đang đọc một cuốn tạp chí.
Bod tàng hình thêm chút nữa, biến thành một phần của nghĩa địa, chẳng đáng chú ý gì hơn một cái bóng hay một cành cây khô.
Nhưng cô bé vẫn ngẩng đầu lên. Cô nhìn thẳng vào nó và hỏi, "Bod? Có phải cậu đấy không?"
Bod không đáp lại. Rồi nó hỏi, "Sao cậu vẫn nhìn thấy tớ?"
"Tớ gần như không nhìn được. Mới đầu tớ tưởng cậu chỉ là một cái bóng hay là cái gì đại loại thế. Nhưng trông cậu giống như trong giấc mơ của tớ. Trông như cậu đang dần dần hiện hình lên rõ ràng hơn ấy."
Nó liền đi đến bốn cạnh chiếc ghế. Nó hói, "Cậu vẫn đọc được cơ à? Cậu không thấy trời tối quá sao?"
Scarlett gập cuốn tạp chí lại. Cô đáp, "Lạ thật. Tớ cũng tưởng là ánh sáng thế này thì tối quá, nhưng tớ vẫn đọc được, chẳng sao cả."
"Cậu..." Giọng nó kéo dài rồi im bặt, vì nó không biết chắc mình định hỏi cô bé cái gì nữa. "Cậu ở đây có một mình thôi à?"
Cô gật đầu. "Sau giờ học tớ đến đây giúp chú Frost tô lại mấy tấm bia. Rồi tớ bảo chú ấy là tớ muốn ngồi đây suy nghĩ một lát. Tớ đã hứa khi nào xong sẽ xuống uống trà với chú ấy, rồi chú ấy sẽ chở tớ về nhà. Chú ấy thậm chí còn không hỏi tại sao tớ muốn ngồi đây nữa. Chú ấy bảo chú ấy cũng thích ngồi trong các nghĩa địa, và chú ấy nghĩ rằng nghĩa địa là một nơi yên bình nhất trên đời” Rồi cô hỏi, "tớ ôm cậu một cái được không?"
"Cậu muốn ôm tớ à?" Bod hỏi lại.
"Ừ"
"Thế thì được thôi." Nó ngẫm nghĩ một lát. "Tớ cũng không thấy phiền gì đâu."
"Tay tớ sẽ không xuyên qua người cậu chứ? Cậu đang ở đây thật đấy chứ?"
"Cậu sẽ không xuyên qua người tớ đâu," nó bảo; và cô bé liền vòng tay ôm lấy người nó, ôm chặt đến nỗi nó gần như nghẹt thở. Nó thốt lên, "Đau quá!"
Scarlett vội buông nó ra. "Xin lỗi”
"Không đâu. Tớ thấy dễ chịu lắm. Tớ chỉ định nói là, cậu ôm chặt hơn là tớ tưởng”
"Tớ chỉ muốn biết xem cậu có thật hay không. Suốt bao nhiêu năm nay tớ cứ tưởng cậu chỉ là do tớ nghĩ ra. Rồi tớ quên bẵng mất cậu. Nhưng tớ đã không tưởng tượng ra cậu, và cậu đã quay lại, quay lại trong đầu tớ và quay lại đây nữa."
Bod mỉm cười. Nó nói, "Hồi ấy cậu thường mặc một cái áo khoác màu da cam, và khi nào nhìn thấy màu da cam giống như thế, tớ lại nghĩ đến cậu. Chắc cậu không còn giữ cái áo ấy đâu nhỉ."
"Không," cô bé đáp. "Tớ vứt nó từ lâu rồi. Bây giờ mà tớ mặc nó thì chắc sẽ hơi chật”
"Ừ," Bod trả lời. "Tất nhiên rồi”
"Tớ nên về thôi” Scarlett nói. "Nhưng có lẽ đến cuối tuần tớ sẽ quay lại." Rồi, khi thấy vẻ mặt của Bod, cô nói thêm, "Hôm nay là thứ Tư."
"Tớ sẽ rất vui nếu cậu quay lại."
Cô quay người định đi. Rồi cô hỏi, "Làm sao tớ tìm lại cậu được?"
Bod đáp, "Tớ sẽ tìm được cậu. Đừng lo. Cậu cứ ngồi một mình là tớ sẽ tìm được cậu”
Cô gật đầu, rồi chay biến đi.
Bod quay trở lại nghĩa địa và đi ngược lên đồi cho đến khi tới lăng của dòng họ Frobisher. Nó không bước vào. Nó trèo lên tường lăng, dùng những dây thường xuân làm chỗ bám, và đu người lên cái mái bằng đá, rồi nó ngồi đó suy nghĩ trong lúc ngắm nhìn cái thế giới đang chuyển động bên ngoài nghĩa địa, nó nhớ lại cái ôm của Scarlett, nhớ lại nó đã cảm thấy an toàn như thế nào, và nghĩ rằng sẽ thật tuyệt biết bao nếu được đi lại một cách bình thường ở thế giới bên ngoài nghĩa địa, nhưng cũng thật thích thú biết bao khi được làm chủ cái thế giới nhỏ bé của riêng mình.
º º º
Scarlett nói cảm ơn, nhưng cô bé không muốn uống trà. Cô cũng không muốn ăn một cái bánh quy sô cô la. Ông Frost có vẻ lo lắng.
'Thật thà mà nói thì trông cháu cứ như vừa gặp ma ấy", ông bảo. "Gặp ma trong nghĩa địa thì cũng chẳng có gì là lạ, nếu cháu muốn gặp ma thật, ờ, chú có một bà cô cứ khăng khăng nói rằng con vẹt của bà ấy bị ma ám. Một con đuôi dài lông đỏ. Ý chú là con vẹt ấy. Còn bà cô của chú thì là kiến trúc sư. Chú chưa bao giờ biết hết tình tiết câu chuyện."
"Cháu không sao đâu ạ," Scarlett nói. "Chỉ hơi mệt thôi."
"Thế thì để chú đưa cháu về nhà. Cháu có đọc được chữ khắc trên tấm bia này không? Chú đã loay hoay hơn nửa tiếng rồi mà vẫn chưa dò ra được." Ông chỉ vào tấm giấy tô trên cái bàn nhỏ, mỗi góc có đặt một lọ mứt để giữ cho tờ giấy nằm phẳng. "Cháu nghĩ cái tên ấy có phải là Gladstone không? Có thể là họ hàng của thủ tướng cũng nên. Nhưng chú chẳng đọc được thêm gì nữa cả."
"Cháu nghĩ là không phải đâu ạ," Scarlett đáp. "Nhưng đến thứ Bảy, lúc quay lại đây, cháu sẽ nhìn lại lần nữa."
"Mẹ cháu có định xuất hiện không đấy?"
"Mẹ bảo sẽ thả cháu xuống đây vào buổi sáng. Rồi mẹ phải đi mua thức ăn cho bữa tối để mời chú. Mẹ sẽ làm một con gà quay đấy ạ."
"Cháu có nghĩ là sẽ có cả khoai tây bỏ lò nữa không?" ông Frost khấp khởi hỏi.
"Cháu nghĩ là có ạ."
Ông Frost có vẻ rất vui. Rồi ông nói, "Nhưng chú không muốn phiền đến mẹ cháu đâu."
"Mẹ cháu rất vui được mời chú đến ăn mà” Scarlett thành thật bảo. "Cảm ơn chú cho cháu đi nhờ xe về nhà."
"Không có gì," ông Frost nói. Họ cùng nhau bước xuống cái cầu thang trong ngôi nhà cao tầng nhỏ hẹp của ông Frost để đi vào tiền sảnh bé xíu ở chân cầu thang.
º º º
Ở thành phố Krakow của Ba Lan, trong đồi Wawel, có những cái hang gọi là Hang Rồng, được đặt theo tên một con rồng đã chết từ lâu. Đó là những cái hang được các du khách biết tới. Nhưng còn có những cái hang khác bên dưới những cái hang này mà các du khách không biết đến và không bao giờ ghé thăm. Những cái hang ấy rất sâu và có những sinh vật sống trong đó.
Silas đi trước, theo sau là cái bóng màu xám khổng lồ của cô Lupescu, bước đi lặng lẽ trên bốn bàn chân.
Đằng sau họ là Kandar, một xác ướp xứ Assyri người quấn đầy băng, với đôi cánh đại bàng rất khỏe và cặp mắt đỏ như hồng ngọc, trong tay ôm một con lợn nhỏ.
Mới đầu họ có cả thảy bốn người, nhưng họ đã mất Haroun ở một cái hang xa tít bên trên, khi vị thần Ifrit đó, thường tỏ ra quá tự tin như những đồng loại khác của mình, bước vào một khoảng trống bao quanh là ba tấm gương bằng đồng thau, và bị nuốt chửng trong một quầng sáng màu đồng chói lòa. Trong thoáng chốc, họ chỉ trông thấy vị thần Ifrit trong những chiếc gương, chứ không còn trong thực tại nữa. Trong những chiếc gương, cặp mắt đỏ rực của thần mở lớn, miệng thần mở ra như thể đang gào thét bảo họ hãy chạy đi, hãy bảo trọng, rồi thần mờ đi và biến mất.
Silas, vốn chẳng sợ gì gương, đã dùng áo choàng của mình che phủ một tấm gương, khiến cho cái bẫy ấy mất tác dụng.
"Thế đó," Silas nói. "Giờ thì chỉ còn ba chúng ta."
"Và con lợn”, Kandar nói.
"Tại sao?" cô Lupescu hỏi bằng cái lưỡi sói, qua hàm răng sói. "Tại sao lại phải mang theo con lợn?"
"Nó đem vận may đến” Kandar đáp.
Cô Lupescu gầm gừ vẻ ngờ vực.
"Haroun có đem theo con lợn nào không?" Kandar chỉ hỏi vậy.
"Suỵt” Silas lên tiếng. "Chúng đang đến đấy. Căn cứ vào âm thanh thì bọn chúng rất đông."
"Cứ để chúng đến” Kandar thì thầm.
Cỗ bờm trên gáy cô Lupescu dựng đứng lên. Cô không nói gì, nhưng cô đã sẵn sàng đợi chúng đến, và phải cố gắng lắm cô mới ngăn được mình ngửa đầu về phía sau rồi tru lên một tiếng dài.
º º º
“Ở trên này cảnh đẹp thật" Scarlett nói.
"Ừ!". Bod đáp.
"Thế gia đình cậu đã bị giết hết thật sao?" Scarlett hỏi. "Có ai biết thủ phạm không?"
"Không. Mà có thì tớ cũng không biết. Người bảo trợ của tớ chỉ nói rằng thủ phạm vẫn còn sống, và một ngày kia chú ấy sẽ kể cho tớ tất cả những gì chú ấy biết".
"Một ngày kia à?"
"Khi nào tớ đã sẵn sàng.”
"Chú ấy sợ cái gì chứ? Sợ cậu sẽ đeo súng vào rồi lên ngựa đi tìm kẻ đã sát hại gia đình cậu để trả thù à?"
Bod nghiêm nghị nhìn cô bé. "Thì rõ rồi," nó nói. "Tất nhiên tớ không có súng. Nhưng đúng thế. Chú ấy sợ tớ sẽ làm một điều gì đó đại loại như vậy."
"Cậu đùa đấy à."
Bod không nói gì. Nó mím chặt môi. Nó lắc đầu.
Rồi nó lên tiếng, "Tớ không đùa đâu."
Đó là một buổi sớm thứ Bảy rạng rỡ ánh nắng. Hai đứa vừa đi quá cổng vào Đường Ai Cập, men theo lối đi bên dưới rặng thông và những cái cây gai bò ngổn ngang, tránh ánh mặt trời chiếu thẳng xuống.
"Người bảo trợ của cậu ấy, chú ấy cũng là người à?”
Bod đáp, "Tớ không thể nói về chú ấy."
Scarlett có vẻ phật ý. "Ngay cả với tớ?"
"Ngay cả với cậu”
"Cũng được thôi” cô bé bảo. "Cậu cứ thế đi."
Bod đang nói, "Nghe này, tớ xin lỗi, tớ không có ý..." thì Scarlett cũng lên tiếng, “Tớ đã hứa với chú Frost là tớ sẽ không đi lâu quá. Có lẽ tớ nên quay lại thôi”
"Thôi được” Bod nói, chỉ sợ là nó đã làm cô bé bực mình, và không biết mình nên nói gì để làm lành với cô.
Nó nhìn theo Scarlett trong khi cô bé đi xuống lối mòn uốn lượn dẫn về nhà thờ. Một giọng con gái quen thuộc vang lên đầy chế nhạo, "Nhìn cô ả kìa! Vênh vang làm sao chứ!" nhưng nó chẳng trông thấy ai cả.
Bod, cảm thấy lúng túng ngượng nghịu, liền quay lại Đường Ai Cập. Cô Lillibet và cô Violet đã cho nó cất nhờ một hộp các tông đầy sách bìa mềm trong hầm mộ của họ, và nó muốn tìm một quyển để đọc.
º º º
giúp ông Frost tô mấy tấm bia mộ cho đến giữa trưa, rồi họ cùng nghỉ tay để ăn trưa. Ông muốn mua món cá rán với khoai tây chiên mời cô bé, gọi là để cảm ơn, và hai chú cháu cùng đi xuống cửa hàng bán cá rán và khoai tây chiên ở chân đồi, rồi sau đó họ trèo lại lên đồi, vừa đi vừa ăn món cá và khoai tây nóng hổi rắc muối, rưới đầy dấm, dựng trong túi giấy.
Scarlett hỏi, "Nếu muốn tìm hiểu về một vụ sát nhân thì ta phải tìm ở đâu ạ? Cháu đã thử tra trên mạng rồi nhưng không được."
"Ờ. Cũng còn tùy. Cháu muốn biết về vụ sát nhân kiểu gì?"
"Cháu nghĩ là một vụ trong thành phố này ạ. Khoảng mười ba hoặc mười bốn năm trước. Cả một gia đình đã bị giết, ở đâu đó gần đây."
"Trời đất ơi," ông Frost kêu lên. "Thật thế à?"
"Vâng. Chú có sao không ạ?"
"Không. Chú hơi, ờ, thú thật là chú hơi nhát gan. Những chuyện như thế, ý chú là, người ta không muốn nghĩ về những vụ án có thật trong vùng này. Thử nghĩ xem, những chuyện như thế, xảy ra ngay tại đây. Chú không nghĩ là một cô bé tuổi cháu mà lại quan tâm đến những chuyện ấy."
"Không phải cho cháu ạ," Scarlett thừa nhận. "Là cho một người bạn của cháu”
Ông Frost nhón nốt miếng cá tuyết rán cuối cùng. "Chú đoán cháu có thể tìm ở thư viện. Nếu không có ở trên mạng thì trong các tập báo cũ của họ chắc sẽ có. Cái gì đã khiến cháu quan tâm đến chuyện này vậy?"
"Ồ." Scarlett muốn nói dối càng ít càng tốt. Cô liền đáp, "Là một cậu bạn cháu quen ạ. Cậu ấy muốn biết về chuyện đó."
"Chắc chắn ở thư viện sẽ có," ông Frost nhắc lại. "Sát nhân à. Brrrừ. Làm chú rùng cả mình."
"Cháu cũng thế” Scarlett nói. "Cháu cũng thấy hơi sợ." Rồi cô nói thêm, vẻ hy vọng, "Liệu chiều nay chú có thể thả cháu xuống thư viện được không ạ?"
Ông Frost cắn đôi một miếng khoai tây to, nhai, rồi nhìn chỗ khoai tây còn lại một cách thất vọng. "Chúng mau nguội quá phải không, khoai tây rán ấy. Phút trước chúng còn làm ta bỏng mồm bỏng miệng, phút sau ta đã phải băn khoăn không hiểu sao chúng lại nguội đi nhanh thế."
"Cháu xin lỗi” Scarlett nói. "Lẽ ra cháu không nên đòi chú đưa đi đâu cả..."
"Không sao, không sao đâu," ông Frost gạt đi. "Chú chỉ đang nghĩ xem chiều nay nên sắp xếp thế nào cho tiện, với cả không biết mẹ cháu có thích sô cô la không. Nên mua một chai rượu hay là một hộp sô cô la nhỉ? Chú không chắc lắm. Có lẽ cả hai chăng?"
"Cháu có thể tự đi bộ từ thư viện về nhà được ạ," Scarlett trả lời. "Và mẹ cháu thích sô cô la lắm. Cả cháu cũng thế."
"Thế thì là sô cô la," ông Frost nói, vẻ nhẹ nhõm hẳn. Họ đã đi đến giữa dãy nhà cao nằm liền kề nhau dọc theo sườn đồi, đến chỗ chiếc xe Mini màu xanh đỗ bên ngoài cửa nhà. "Cháu vào đi. Chú sẽ đưa cháu đến thư viện."
º º º
Thư viện là một tòa nhà vuông vắn, toàn bằng gạch và đá, xây từ đầu thế kỷ trước. Scarlett nhìn quanh, rồi đến chỗ chiếc bàn ở tiền sảnh.
Người phụ nữ ngồi ở đó hỏi, "Cháu cần gì?"
Scarlett trả lời, "Cháu muốn xem mấy bài báo cũ ạ."
"Bài tập ở trường à?"
"Để nghiên cứu về lịch sử địa phương ạ," Scarlett gật đầu đáp, rất tự hào vì đã không nói dối.
"Tất cả báo chí địa phương đều được lưu trên các tấm vi phim" người phụ nữ nói. Bà ta khá to béo, tai đeo một đôi vòng bạc lủng lẳng. Scarlett cảm thấy trống ngực đập thình thịch; cô dám chắc mình đang có vẻ thật tội lỗi, hoặc đáng nghi, nhưng người phụ nữ dẫn cô vào trong một căn phòng với những cái hộp trông như màn hình máy tính, và chỉ cho cô cách dùng chúng để chiếu từng trang báo một lên màn hình. "Đến một lúc nào đó tất cả sẽ được số hóa hết” bà ta nói. "Cháu tìm báo của ngày tháng năm nào?"
"Khoảng mười ba hoặc mười bốn năm trước ạ," Scarlett nói "Cháu không biết cụ thể hơn được. Khi nào tìm thấy thì cháu sẽ nhận ra."
Người phụ nữ đưa cho Scarlett một cái hộp nhỏ đựng những tấm vi phim chụp các trang báo của năm năm liền, "Cháu tha hồ mà tìm," bà ta bảo.
Scarlett tưởng rằng vụ án cả một gia đình bị sát hại sẽ phải được đăng ở trang đầu, thế nhưng, khi rốt cuộc cô cũng tìm được bài báo ấy, thì nó lại bị nhét xuống tận trang năm. Chuyện xảy ra vào tháng Mười, mười ba năm về trước. Bài báo không có gì là văn vẻ, không miêu tả gì, chỉ liệt kê lại sự việc một cách đơn giản: Thi thể của kiến trúc sư Ronaid Doian, 36 tuổi, cùng với vợ là Carlotta, 33 tuổi, làm việc tại nhà xuất bản, và con gái là Misty, 7 tuổi, đã được tìm thấy ở số 33 đường Dunstan, cảnh sát nghi ngờ đây là một á n mạng . Người phát ngôn của cảnh sát nói rằng vào thời điểm này cuộc điều tra còn quá sớm để có thể đưa ra bất kỳ lời bình luận nào, nhưng cũng cho biết họ đang lần theo một số đầu mối quan trọng.
Bài báo không nhắc đến gia đình ấy đã bị giết như thế nào, và cũng không nhắc gì đến một đứa bé bị mất tích. Trong những tuần sau đó, không có thêm bài báo nào tiếp tục cuộc điều tra, và cảnh sát cũng chẳng đưa ra lời bình luận nào mà Scarlett có thể tìm được cả.
Nhưng đó chính là vụ án ấy. Cô dám chắc như vậy: số 33 đường Dunstan . Cô biết rõ ngôi nhà ấy. Cô đã từng đặt chân vào đó.
Cô đem trả chiếc hộp vi phim ở chiếc bàn ngoài tiền sảnh, cảm ơn bà thủ thư, rồi đi bộ về nhà dưới ánh nắng tháng Tư. Mẹ cô đang nấu nướng trong bếp - có vẻ không thành công cho lắm, bằng chứng là cái mùi đáy-chảo-bị-cháy đang bốc lên nồng nặc khắp căn hộ. Scarlett chui vào phòng, mở toang cửa sổ cho mùi cháy bay bớt ra ngoài, rồi ngồi xuống giường và nhấc điện thoại lên.
"Alô? Chú Frost ạ?"
"Scarlett. Mọi việc tối nay vẫn như kế hoạch chứ? Mẹ cháu thế nào rồi?"
"Mẹ cháu lo liệu hết rồi ạ," Scarlett đáp, đó là câu trả lời cô nhận được khi hỏi mẹ. "Ờ, chú Frost này, chú đã sống trong căn nhà hiện nay được bao lâu rồi ạ?"
"Bao lâu ấy à? Ờ, khoảng bốn tháng rồi."
"Làm sao chú tìm được căn nhà ấy ạ?"
"Nhờ trung tâm mua bán nhà đất. Căn nhà đang để trống, và chú đủ sức mua nó. Ờ, cũng gần đủ. Chú muốn tìm một căn nhà đủ gần để có thể đi bộ đến nghĩa địa được, và căn nhà này thì thật hoàn hảo."
"Chú Frost này." Scarlett không biết nên nói thế nào, rồi quyết định cứ nói thẳng ra là hơn. "Khoảng mười ba năm trước, có ba người đã bị sát hại trong nhà của chú. Gia đình Dorian."
Đầu bên kia điện thoại im lặng như tờ.
"Chú Frost? Chú còn ở đó không ạ?"
"Ờ. Chú đây, Scarlett. Xin lỗi cháu. Đó quả không phải chuyện ta thường được nghe. Căn