Không còn thời gian để yêu
Tôi đã sống nhiều năm ở thị xã Cẩm Phả, thường xuyên gặp gỡ Tô Ngọc Hiến. Vì thế chăng mà từ khi anh mất, tôi luôn nghĩ về anh.
Ngày gần đây bất chợt mở cuốn Tô Ngọc Hiến - Tác phẩm chọn lọc – nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2008, sách khổ lớn, dày 720 trang, công trình do Tập đoàn than – khoáng sản Việt Nam chu cấp toàn bộ kinh phí in ấn. Tôi đọc bài viết của cháu Bùi Thị Mỹ Hạnh – con gái anh trong phần phụ lục, có tựa đề “Cha tôi – Nhà văn Tô Ngọc Hiến”. Thật quý hóa, cả đời văn Tô Ngọc Hiến dọc ngang ở vùng đất có khía cạnh chưa kịp nói, thì nay con gái yêu của anh nói hộ cha, cảm thông với cha cả về việc manh áo miếng cơm với người cầm bút thời bao cấp: “Đôi lần cảnh nhà quá bức xúc, ông đã quát lên với chúng tôi: ‘Nếu không vì chúng mày, tao chỉ cần túp lều tranh là đủ...’ Cha tôi nói đúng. Bởi ông có thể sống hết mình cho đam mê văn chương chữ nghĩa và cho miền đất mình đang sống...” Đoạn văn xúc động khiến tôi càng biết thêm về cây bút như có lửa cháy bên trong các trang viết, cho tình yêu và đất sống. Nói thì dễ, làm đâu có dễ. Văn Tô Ngọc Hiến trần trụi đến không cãi lại được. Tính cách Tô Ngọc Hiến còn độc đáo hơn. Tôi đặc biệt quý trọng anh ở cốt cách không a dua, không bao giờ sống núp bóng người khác. Nhiều người mến mộ anh và lắm kẻ không ưa anh một phần cũng ở điểm này. Dẫu sao Tô Ngọc Hiến vẫn là Tô Ngọc Hiến. Anh đã nói với tôi một lần kiểu như dằn hắt, mà không biết dằn hắt ai: “Làm cái thằng cầm bút không phải để khác đời, chứ thật ra rất khác. Có thể túng đói, mang nợ, làm phu khuân vác nuôi con ăn học nhưng sống bợ đỡ, đòn xóc hai đầu, dối trá đáng khinh lắm, dầu có viết cả ngàn trang cũng vất...” Anh thế đấy. Hiềm nỗi, anh ra đi quá sớm, để lại niềm tiếc thương cho bao người thân và bè bạn. Nhà thơ Trần Nhuận Minh, một người gần gũi với Tô Ngọc Hiến đã viết: “Tôi tin là anh đã bắt đầu. Một cây văn chạm vào bất cứ thứ gì cũng bật lên bản sắc, giọng điệu. Cái đó là công tu luyện của anh. Cái đó cũng là trời cho anh. Vậy mà anh đã nhắm mắt rồi, anh để lại sự day dứt, dày vò trước trang viết còn trắng rợn người với bao ấp ủ, yêu thương, giận hờn, đắng cay và hy vọng...” Đây là câu nói thật lòng, tôi nghĩ thế. Cùng là bạn văn chương, cho nhau, không có gì hơn.
Về nghiệp văn Tô Ngọc Hiến để lại khá nhiều. Ở đây không đề cập số trang. Phép đếm cùng các hàng chữ số đâu có nghĩa gì với tác phẩm văn học. Những cái nhà văn để lại nằm ngoài trang viết, thấm vào đất, thấm vào lòng người. Rồi người đời sẽ còn nhớ mãi các nhà văn suốt trong các năm dài phải bươn chải để sống để viết, đã bán báo, bán lịch, chạy quảng cáo để tồn tại... Có lần tôi đã viết: Con người ta ai cũng cần cơm ăn, áo mặc, cần cho con cái học hành. Nhà văn, nhà báo cũng là người, không phải là thánh nhân quân tử... Tô Ngọc Hiến cũng trong bối cảnh đó, anh đã vượt lên với các trang viết miêu tả nỗi niềm cùng số phận con người sống trên cả miền đất, từ tầng mỏ, biển khơi, biên giới: Anh có mặt trên khắp nẻo đường, tung bút trong nhiều thể loại. Một cuốn tiểu thuyết dày anh đã in: Hãy cho tôi sống lại. Sau khi anh mất, gia đình tập hợp di cảo cho in tiểu thuyết Ngôi nhà rắn rết. Trước đó anh có ba tập truyện vừa, một kịch bản phim chuyển thể từ truyện Giọt lệ Hạ Long đã dựng phim. Sức viết cùng sức vóc con người anh thật đáng nể. Tuy nhiên, như hồi sức đang trai, anh đã nói với tôi: “Mệnh tớ nặng về truyện ngắn.” Có nghĩa anh đã tự biết mình từ rất sớm. Vậy mà anh vẫn cứ lao vào tiểu thuyết, đầu tư không biết bao nhiêu thời gian, trí tuệ. Âu cũng là cái nghiệp. Tôi hiểu Tô Ngọc Hiến, biết rõ anh đam mê, trân trọng tiểu thuyết tới mức nào, không dưới ba lần được anh chia sẻ dự định cho tiểu thuyết. Ai ai cũng biết viết tiểu thuyết là khó. Nhưng viết truyện ngắn cũng đâu có dễ. Vậy mà có nhà văn thành danh ở truyện ngắn, quay sang dòng sông tiểu thuyết thấy mênh mông quá, càng bơi càng thấy xa... Đã có lần tôi kể Tô Ngọc Hiến với tiểu thuyết chỉ riêng việc đặt tên sách cũng qua ba sự thay đổi: Nhà máy không ống khói rồi Bắc cực quang nhiệt đới và cuối cùng: Hãy cho tôi sống lại. Lắm lúc tôi nghĩ trong anh pha tạp những dòng chảy, chưa đổ hẳn về ngả nào. Không phải bao biện, có lẽ nhận định trên gần đúng. Nói cách khác, tâm tư Tô Ngọc Hiến ít khi bình yên. Trăn trở tìm đề tài là một, trăn trở tìm chữ dùng là hai. Phần này càng rõ hơn, giấy trắng mực đen còn đó. Cũng có người viết truyện dài thật dễ, chữ nghĩa thánh hiền từ cha ông truyền lại, đem ra dùng quá phung phí, như gieo mạ vậy... Tô Ngọc Hiến không thế. Không gian trong truyện ngắn gò ép anh bao nhiêu năm, đến khi viết tiểu thuyết, anh mặc sức tung hoành, nhiều phen quá đà chứ không phải anh không nắm được quy cách của tiểu thuyết. Mà mê say quá cũng có hại. Cứ lấy nhân vật chính trong tiểu thuyết Hãy cho tôi sống lại – kỹ sư Hải – ra mà xét: chữ nghĩa chỉn chu, tính cách nhân vật góc cạnh, thấy rõ người viết rất am tường các lĩnh vực, nhiều lý sự, tuy vậy, điều tác giả mong đợi ở tiểu thuyết thì chưa đến... Về tiểu thuyết thứ hai gia đình cho xuất bản – Ngôi nhà rắn rết – thiết nghĩ, giá Tô Ngọc Hiến còn sống, chắc chắn anh sẽ sửa chữa nhiều, và cả tên sách anh cũng sẽ thay đổi...
Thành công của Tô Ngọc Hiến trong lĩnh vực truyện ngắn là quá rõ không thể phủ nhận. Có ý kiến cho rằng các truyện ngắn của Tô Ngọc Hiến thời ấy giờ đọc ít hứng thú. Trong cuộc đời không có ai chỉ sống bằng ký ức. Những người chỉ sống bằng ký ức ở thì hiện tại là đã tự tước đi thiên bẩm trời phú... Truyện ngắn Tô Ngọc Hiến một thời góp phần quan trọng làm nên diện mạo, bản sắc văn học hiện thực của vùng đất này. Đấy chính là cái được của một nhà văn từng sống, chết với ngòi bút. Khoảng từ đầu năm 1970 tới năm 1983, 1984 Tô Ngọc Hiến chuyên tâm cho truyện ngắn. Cây bút sắc sảo của anh tung hoành và thu kết quả đáng khâm phục. Ngay từ thời gian đó, anh hầu như đã hoàn thành sứ mạng của nhà văn. Đâu phải tự nhiên mười mấy năm trước nhà văn Lý Biên Cương nói về người bạn văn thân thiết đã mấy phen hai người đi trên hai bờ sông bị che khuất: “Văn Tô Ngọc Hiến cuồn cuộn, dai dẳng không chỉ ở truyện vừa, truyện dài, đặc biệt là ở truyện ngắn... Truyện nào của anh cũng lấp lánh phẩm chất người thợ, trước máu thịt, trước ngòi bút và những con người anh viết ra không dễ dàng quên. Những truyện ngắn của Tô Ngọc Hiến rất đáng giá. Sau Võ Huy Tâm, anh là một cây bút sống trên vùng than viết về thợ mỏ với cả tấm lòng... Về nghề, anh xứng đáng là nhà văn viết hoa...” (Tô Ngọc Hiến - Tác phẩm chọn lọc trang 696).
Tiếp theo ý của nhà văn Lý Biên Cương, nói cho công bằng, tôi thấy những truyện ngắn của Tô Ngọc Hiến viết trong thời gian dài được sàng lọc, in thành ba tập: Người Kiểm Tu – 1974; Mùa hoa sim cuối cùng – 1978; Mùa than trôi – 1982 thật sự đã đưa tên tuổi Tô Ngọc Hiến đứng ngang cùng các nhà văn Việt Nam tiêu biểu đương đại xuất hiện giai đoạn sau năm 1975. Việc anh được trao giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tuần báo Văn Nghệ và trúng cử vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam là bằng chứng xác thực.
Đôi khi tự dưng tôi có ý nghĩ ngồ ngộ thấy Tô Ngọc Hiến nhà văn – con người có nét tinh thần hao hao giống Antatôli Kim nhà văn Nga gốc Triều Tiên. Tôi cứ mường tượng cái dáng cao lớn, rắn rỏi lẫn vào tốp người luồn lách giữa các bờ lau đường hẻm ngoằn ngoèo khô cằn trên vách núi cao lưng đeo túi đựng các củ sâm cao ly hiếm hoi mới đào nơi biên giới Nga – Triều để cho ra mắt bạn đọc những tác phẩm độc đáo đậm sắc thái dân tộc hòa quyện vào đời sống người dân vùng biên viễn như các truyện ngắn: Báo thù, Tình yêu và lòng ngay thẳng, Ngày ngày qua núi Đa Sa... Đương nhiên Antatôli Kim là nhà văn Nga – người dân tộc xuất sắc, các trang văn của ông mới vượt qua các biên giới, vượt qua thời gian... Tô Ngọc Hiến cũng có những truyện ngắn xuất sắc mô tả đời sống cùng thân phận con người vùng mỏ, cả vùng biên thùy. Năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, từng đoàn quân rùng rùng ra trận xe tăng, đại bác, lương thảo, đạn dược, chông tre và cả đội văn nghệ xung kích. Có đợt Tô Ngọc Hiến và tôi đi cùng một mũi. Anh đã có mặt tại điểm chốt Cao Ba Lanh cao ngất ngưởng, Pò Hèn, Thán Phún len lỏi rừng quế, rừng hồi, rừng pơmu để có truyện Cây pơmu ra biển, anh có truyện ngắn Làng Cá, báo Văn Nghệ in trân trọng, minh họa màu của Văn Cao thể hiện ông già nghề cá cụt cả hai bàn tay, người gân guốc, trên chiếc thuyền nhỏ mong manh đương đầu cùng sóng dữ... Tô Ngọc Hiến cắt tấm minh họa lồng khung kính, đặt trước bàn làm việc. Mỗi lần tới nhà Tô Ngọc Hiến nhìn bức họa khác thường, tôi lại bị ám ảnh về chuyện đời, ám ảnh về bức minh họa có thần bút. Đoạn văn tả hai ông già nghề biển dưới đây (một người cụt hai tay, một người mất một con mắt) mang đậm văn phong Tô Ngọc Hiến: “Rít xong một hơi thuốc thật sâu và thật kêu, ông già Khuổi mới ngửa mặt lên, nhểu mồm ra, thở từng cuộn khói dày đặc. Hai cùi tay vẫn trân trân như những con mắt thịt câm lặng. Cả hai con mắt thật đỏ nọc, cũng câm lặng. Trước vầng lửa, vồng ngực trần của Bằng Khuổi dồ lên tựa một con sóng lớn. Và hình thể của người ngư dân ấy, phảng phất một pho tượng còn tạc dở, thiếu cả hai bàn tay. Ông lão ngồi xế bên bắp vế Bằng Khuổi, con mắt còn lại xếch lên như mắt cá vược, chốc chốc lại chớp liền mấy cái như bù đắp sự thiếu hụt của con mắt kia. Hai bàn tay còn nguyên vẹn và khỏe mạnh của ông già này, không lúc nào yên; cời những nhánh củi ra hoặc nhém thêm củi vào đống lửa...”
Từ ngày sang làm báo chuyên nghiệp, Tô Ngọc Hiến có điều kiện đi nhiều, thâm nhập thực tế sâu hơn ở các lĩnh vực. Vẫn cứ là việc viết báo nuôi văn, tranh luận với bạn bè, anh hay nổi quạu, đôi lông mày như hai con sâu róm cứ như muốn rụng lông vào người ta. Sau đấy làm lành ngay, lại tếu táo, ngả ngớn. Ai chưa hiểu bảo anh khó gần, này nọ. Tôi biết rõ, anh rất thực tế, đôi khi cái thực tế làm mờ người nghệ sĩ – nhà văn ở anh. Từ thái quá thành thử lắm lúc có vẻ khác đời. Tô Ngọc Hiến không có chất phiêu linh như người thơ Bùi Giáng, cũng không lầm lụi, ẩn dật như người văn Sơn Nam của đất Nam bộ. Tô Ngọc Hiến sôi động, đào hoa, đỏm dáng, kính thầy, thương bạn và cũng bạo mồm bạo miệng chưa từng. Anh hay dùng chữ bạo liệt: “Tiểu thuyết Đất Trắng của Nguyễn Trọng Oánh bạo liệt”, “Tình yêu bạo liệt.” Tô Ngọc Hiến là như vậy. Tôi thấy anh cũng có nhiều trang viết bạo liệt. Đã mười sáu năm (kể từ 1995) vắng bóng tác phẩm gây ấn tượng về miền đất xứ than này, đấy cũng là nhận định chung. Tôi đã viết bài về sự việc này. Cần có tầm nhìn rộng, cao và xa mới mong nhận biết giá trị của tác phẩm văn học, “Không còn thời gian để yêu, chỉ còn thời gian để chết”. Phải cảm thông cùng bạn văn tới mức nào, nhà thơ Trần Nhuận Minh mới đặt tên bài mình viết về Tô Ngọc Hiến như vậy...
Phan Thanh
Long Tiên Động tháng 6 năm 2001
Nhà văn Tô Ngọc Hiến
• Tên khai sinh: Bùi Thượng Hiến
• Sinh năm 1942
• Quê quán: huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định
• Trú quán: Thị xã Cẩm Phả, Quảng Ninh
• Hoạt động: Từng làm việc tại nhà máy cơ khí Cẩm Phả, học trường viết Văn Nguyễn Du, sau đi viết văn, làm báo chuyên nghiệp, vào Hội Nhà văn 1978, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn (khóa III).
• Tác phẩm chính: Người kiểm tu (tập truyện ngắn 1974); Mùa hoa sim cuối cùng (tập truyện ngắn 1978); Mùa than trôi (tập truyện ngắn 1982); Hãy cho tôi sống lại (tiểu thuyết 1988); Trên bến bờ riêng khuất (tập truyện vừa 1992); Đứa con của hồng thủy (tập truyện vừa 1996); Giọt lệ Hạ Long (kịch bản phim)...
• Giải thưởng: Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ (1971-1972). Giải thưởng văn học Tổng công đoàn - Hội Nhà văn Việt Nam (giải chính thức và khuyến khích) với hai tập Người kiểm tu, Mùa than trôi.
• Ông mất ngày 1 tháng 3 năm 1998.