Bóng mây qua đỉnh Việt
Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt
Mà như lau sậy có linh hồn!
(Pha Đin Q.D.)
I - Hành trang Quang Dũng, đã hết những tồn nghi?Mục tiểu sử, ở cả hai tuyển tập Quang Dũng Tác phẩm chọn lọc (nhà xuất bản Văn Học,1988) và Tuyển tập Quang Dũng (nhà xuất bản Văn Học, 1999), nhà thơ Trần Lê Văn, trong lời đầu sách, sau khi đưa sơ yếu lý lịch Quang Dũng như trên, đã kể tiếp: “...Khoảng đầu những năm 1940, Quang Dũng thường giao du với những người bạn cùng lứa tuổi, có chí khí, có tinh thần yêu nước, đang cùng nhau ‘tìm đường’... Gặp và yêu cô Thạch ở Yên Bái, Dũng nhận làm thư ký ga Thị Cầu để được gần người yêu. Nhưng chẳng bao lâu anh lại ‘Nhẹ nhàng thân gửi kiếp ra đi’. Nhân có người bạn làm công nhân trên tuyến tàu chạy Vân Nam của công ty Hỏa xa Vân Nam, anh làm một chuyến viễn hành sang đấy, cũng là để đi cho biết đó biết đây và để vẽ những cảnh đẹp mà anh vẫn thấy trong tưởng tượng qua thơ Đường, thơ Tống.” Đoạn kể của Trần Lê Văn hoàn toàn đúng với con người, tính khí Quang Dũng, nhưng đã có một dư luận xấu sau này nhân khi Quang Dũng bị ảnh hưởng vụ Nhân văn – Giai phẩm đã làm thương tổn hành trình của ông (dường như trong chuyến sang Vân Nam ấy, Quang Dũng đã gia nhập Đảng Việt Nam Cách mạng đồng minh hội của Nguyễn Hải Thần!) kèm theo là sự suy diễn của một số người hiếu sự. Sinh thời đôi bạn Quang Dũng, Trần Lê Văn rất buồn, rất đau về những điều suy diễn này. Quang Dũng không thể tự biện minh cho mình, Trần Lê Văn thì không có cơ sở gì để thanh minh cho bạn. May thay, sau khi hai ông qua đời, tôi có dịp phỏng vấn nhà văn Tô Hoài nhân đến đặt bài Tết cho tờ Sức Khỏe và Đời Sống tôi cộng tác. Tôi trò chuyện với nhà văn Tô Hoài: “Nhờ lấy tư liệu viết về trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, tôi mới biết nhà văn Nhất Linh đã đỗ đầu trong kỳ thi vào trường này ngay khóa đầu tiên, năm 1925...” Cụ Tô Hoài rất minh mẫn, đáp: “Còn tôi thì biết Nguyễn Tường Tam hồi ấy còn ký tên Đông Sơn khi minh họa cho các báo Phong Hóa, Ngày Nay.” Cụ còn kể thêm: “Quang Dũng hồi lãng du ở Quảng Châu, họp ở Liễu Châu với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam. Ông Dũng mê Nguyễn Tường Tam lắm! Sau thấy họ Nguyễn chỉ uống rượu khỏe, ông chán, về đến Hà Nội là bỏ hẳn đám này về Sơn Tây học trường võ bị của ta.”
Tôi suýt reo lên vì mừng cho ông Quang Dũng, bởi chỉ duy nhất một người có thẩm quyền nói sự thật lý lịch nhà văn mà ai cũng phải tin là cụ Tô Hoài, nguyên bí thư Đảng ủy Hội Nhà văn Việt Nam thời Nhân văn – Giai phẩm, khi lý lịch nhà văn ít nhiều “có vấn đề” hồi đó được soi lên từng sợi tóc... Tôi chưa yên tâm, gặng hỏi lại: “Thưa bác, sự dính líu của ông Quang Dũng với nhóm đó đúng là chỉ thế thôi?” Tôi nhấn mạnh: “Bác cho phép tôi đưa in đúng câu này trong một bài viết để xóa bỏ những đồn thổi không đâu về ông Quang Dũng nhé!” Sau đó tôi đưa in lên báo Sức Khỏe và Đời Sống Xuân Kỷ Sửu (2009) bài báo Nhà văn Tô Hoài bơi giữa dòng đời ở tuổi 90. Tất nhiên tôi phải mang báo biếu đến vì cụ cũng có bài. Tôi đề nghị cụ xem lại câu cụ nói xem có sai chữ nào không. Cụ liếc qua rồi cười xòa: “Ông này quá cẩn thận!” Sau đó, tôi còn đưa in lại câu này nằm trong một bài báo khác “cho chắc ăn”: Nhà văn Tô Hoài – Trang viết lớn từ những chuyện nhỏ trên Sài Gòn Giải Phóng ngày 6-6-2010. Vậy là sự xác nhận của cụ Tô Hoài hai lần được in lên báo như trên cùng với Giải thưởng Nhà nước Quang Dũng được truy tặng năm 2001 phải chăng đã đánh dấu chấm hết, xua tan đám mây mù nếu còn lởn vởn đâu đó về cuộc đời nhà thơ Quang Dũng?
Quang Dũng tham gia cách mạng đúng ngày 19 tháng 8 năm 1945, tham gia đại đội vệ binh khu II ở Hà Nội, ông được cử làm chính trị viên phó đại đội. Tôi được biết khi nhóm Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam về nước, Quang Dũng có ý lo Nguyễn Tường Tam sẽ tìm cách bắt mối với ông, lúc này ông mới thấy rõ bộ mặt thật của nhóm này, còn khi Cách mạng chưa thành công, ông lang thang ở Liễu Châu, thì đảng cách mạng nào chả là của người yêu nước! Một vị có trách nhiệm ở Bắc bộ phủ được Quang Dũng tâm sự liền nghĩ cách tách ông xa khỏi Hà Nội. Thế là chàng được cử làm phái viên Phòng Quân vụ Bắc bộ, về vùng Sơn Tây tìm mua, thu thập những vũ khí quân đội Nhật đầu hàng, quân Tàu phù lén bán... Hồi tôi làm việc ở Phòng Văn nghệ Sở Văn hóa Hà Tây, được trò chuyện với cụ Nghĩa móm, nguyên chủ tịch huyện Ba Vì, cụ kể nhà thơ Quang Dũng gặp cụ từ năm đó, đã nhờ cụ giúp cất giấu một bộ phận quan trọng của chiếc máy bay trinh sát lấy được của quân đội Nhật. Sau đợt công tác đó, Quang Dũng được cử đi học lớp bổ túc quân sự ở Tổng Sơn Tây.
II – Tây Tiến đoàn binh không mọc tócSau những hoạt động kể trên, cuối xuân 1947, Quang Dũng gia nhập trung đoàn Tây Tiến với cấp bậc đại đội trưởng. Nhiệm vụ của đoàn quân là hành quân lên phía Tây, phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Lào – Việt đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào. Lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, đủ các thành phần: công nhân, trí thức, dân nghèo thành thị, binh sĩ chế độ cũ, có nhà sư, có cả những cô đầu Khâm Thiên, đoàn quân phần lớn nguyên là học sinh của các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long, những tiểu trí thức Hà Nội mang sẵn trong tâm hồn hạt giống tài hoa và hào hoa đất Thăng Long, chờ bật mầm thành những cây đa, cây đề của giới văn nghệ sau này (các họa sĩ Văn Đa, Quang Thọ, nhà thơ Quang Dũng, nhạc sĩ Doãn Quang Khải, tác giả Vì nhân dân quên mình)...
Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng: từ Mai Châu, Mộc Châu sang Sầm Nưa, cùng bộ đội Lào bảo vệ Sầm Nưa, chống hành động tái chiếm của quân đội Pháp, rồi vòng về qua phía Tây Thanh Hóa. Tinh thần đánh địch càng cao thì gian khổ, thiếu thốn như càng ghê gớm để thử thách ý chí của họ: Nhiều trận đánh phục kích, giáp lá cà làm giặc Pháp kinh hồn như trận Dốc Đẹt (trên đường từ Phố Vãng sang Mường Bi), trận chiến khốc liệt ở Xóm Trại, Bãi Sang, Chiềng Sại... có những chiến sĩ bị sốt rét, run cầm cập vẫn không rời trận địa. Không còn sức vần đá lăn xuống thì ném lựu đạn, không còn sức ném lựu đạn thì nằm nguyên chỗ, bóp cò chặn địch cho đồng đội lao xuống đánh giáp lá cà. Đoàn quân không mọc tóc vì sốt rét tóc không mọc được, quân xanh màu lá không chỉ vì lá ngụy trang xanh hay màu quân phục mà còn vì nước da tái mét vì sốt rét, thiếu thuốc, thiếu ăn. Đóng quân trong rừng, ở làng bản ven rừng thì sốt rét hoành hành, thuốc men cạn kiệt. Mỗi sáng, cô y tá bỏ được vài viên ký ninh vàng vào bình nước lớn, mỗi bệnh nhân được uống một hai chén làm phép. Số người chết bệnh do thiếu thuốc men, thiếu dinh dưỡng nhiều hơn chết trận. Khu đóng quân tản mát các xóm nên khi có người qua đời, phải lấy tiếng cồng làm hiệu, để bà con trong xóm đến giúp đỡ chôn cất, để những chiến sĩ còn khỏe về lán quân y tiễn đưa đồng đội. Giữa đêm vắng nghe hiệu cồng không khỏi có người tự hỏi: bao giờ thì đến tiếng cồng báo tử của mình? Đại đội trưởng Như Trang nằm bệnh xá, sáng tác bài Tiếng cồng quân y. Đài tưởng niệm ở Châu Trang hiện nay, bên cạnh lư hương có hình chiếc cồng. Những chiếc cồng di sản văn hóa dân tộc trở thành đồ tế khí với các liệt sĩ Tây Tiến, sau khi chúng đi vào thơ, nhạc, vào hội họa, điêu khắc của những đồng đội sống sót... Gỗ lạt đóng quan tài vừa rất thiếu vừa không đóng kịp, đành bó chiếu đem chôn. Rồi đến chiếu cũng thiếu, anh em có sáng kiến chẻ tre buộc bó thân liệt sĩ. Hội mẹ chiến sĩ thị trấn Vụ Bản, Lạc Sơn quyên góp được trăm đôi chiếu, đem đến. Phát biểu trước hàng quân, khi bà mẹ đại diện nói đến câu: bà con gom góp chiếu tặng lại đơn vị để... để... - thì khóc òa, không cần nói hết mà ai cũng hiểu! Đài tưởng niệm đặt ở Châu Trang, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn Hòa Bình, bên quả đồi cạnh quân y xá năm nào đã phủ kín gần hai trăm ngôi mộ những chiến sĩ trẻ áo bào thay chiếu anh về đất... (tư liệu: Tây Tiến, một thời và mãi mãi, nhà xuất bản Hà Nội, 2008. Thành ủy Hà Nội – Ban Tuyên giáo, Ban liên lạc cựu chiến binh Tây Tiến chịu trách nhiệm xuất bản).
Với bao kỷ niệm Tây Tiến bi tráng người sống có, người chết có, Quang Dũng cùng đơn vị làm xong nhiệm vụ những chiến sĩ quốc tế đầu tiên của Quân đội nhân dân ở biên giới Việt – Lào trở về Hòa Bình chấn chỉnh lại đội ngũ. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi chuyển về đơn vị khác. Về đến Phù Lưu Chanh, Quang Dũng bần thần ngồi nhớ đồng đội, bồi hồi bao cảm xúc, ông viết một mạch bài thơ Nhớ Tây Tiến (sau Quang Dũng đổi là Tây Tiến). Sau đó, ông về Bộ tư lệnh Liên khu III làm trưởng tiểu ban Văn nghệ thuộc phòng Chính trị Liên khu cho đến ngày tiếp quản thủ đô 10-10-1954.
III – Nổi chìm bài thơ Tây TiếnBài thơ Tây Tiến không chỉ là bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp thơ Quang Dũng, nó còn là niềm vinh dự, thành phiên hiệu nổi tiếng của một trung đoàn bộ đội. Bài thơ Tây Tiến đã được khắc vào bia đá, bia tưởng niệm các liệt sĩ, ghi chiến tích trung đoàn 52 Tây Tiến dựng ở Mai Châu. Từng có cuộc mít tinh kỷ niệm tuổi sáu mươi của bài thơ vào tháng 3 năm 2008 của các cựu chiến binh trung đoàn và các con, cháu, chắt, bốn thế hệ những người còn sống hay đã chết, ngồi chật hội trường trường Đại học y tế Công cộng đường Giảng Võ, Hà Nội. Bài thơ đã được giảng dạy tại các trường trung học, tác giả của nó được đúc tượng đồng.
Khi phát biểu ở cuộc mít tinh kỷ niệm tuổi sáu mươi bài thơ Tây Tiến, tôi phân tích đại ý “Bài thơ Tây Tiến hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn, nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn... Nếu cuộc chiến xảy ra giữa đôi bên ngang sức, hẳn không có trạng huống tình cảm này!... Chọi lại với đại bác, xe tăng chỉ có mấy khẩu súng trường, nhưng việc cần làm thì cứ làm và dám làm. Phố phường thân yêu với những “dáng kiều thơm” bỏ lại sau lưng, bao giờ ta gặp lại? Tương lai chưa hé ra chút gì sáng sủa, vì vậy mà nuối nhớ, mà buồn... Mọi trắc trở đã qua đi, bây giờ ta càng thấy chính bài thơ Tây Tiến chinh phục được lòng người nhờ chút buồn, chút lãng mạn đó, bởi đó là những gì chân thật nhất của con người tác giả, chưa biết đến sự ‘né tránh’, ‘dè chừng’, xuất hiện ở những giai đoạn sau này.”
Rõ ràng là, qua mỗi giai đoạn lịch sử, có sự thay đổi lớn lao của hoàn cảnh thì thơ Việt đều có những khúc ngoặt. Ở mỗi khúc ngoặt ta đều có thể kể tên vài tác phẩm làm mốc. Tôi thử đơn cử hai bài gây ấn tượng nhất với tôi: Đèo Cả của Hữu Loan và Tây Tiến của Quang Dũng. Cách cảm nghĩ, cách viết hai bài thơ này, không một tài thơ nào trước đó có thể viết được! Khi chúng đã được khí phách cả một thời đại ùa vào, chắp cánh cho chúng, gia tăng, bùng nổ nội cảm của tác giả đến mức họ tự thấy phải viết một cách mãnh liệt, khắc nghiệt thế nào đó để ngay từ nhịp điệu lẫn tu từ phải khác trước!
IV- Bài thơ đầu tiên và bài thơ thừa ra trong hành trang Quang DũngQuang Dũng làm thơ từ bao giờ? Ông hầu như không có sổ chép thơ mình theo thứ tự ngày tháng mà chỉ viết thành những tờ rời vương vãi hoặc viết trực tiếp trong sổ tay bè bạn. Nhưng ở những mốc thời gian đặc biệt thì ông nhớ, thí dụ năm phải rời xa đồng đội Tây Tiến, hoặc bài thơ đầu tiên mình làm. Nhưng chưa bao giờ ông nói ra điều đó nên ông Trần Lê Văn cũng không biết. Nhờ sự tình cờ đi tìm xuất xứ bài thơ Dặm về ông luôn ngâm ngợi, từ Hoàng Cầm đến Nguyễn Dậu ai cũng bảo của ông, nhờ bút tích ông ghi lại trong sổ chép thơ của bác sĩ quân y trung đoàn Tây Tiến Phan Quang Chấn (Đi tìm xuất xứ một bài thơ của Vân Long, báo Văn Nghệ 37, 16-9-1989). Quang Dũng chép chùm thơ năm bài, bác sĩ Chấn còn nhớ là vào khoảng 1949-1950 tại Hang Cáy Đầm Đa, Chi Nê, nơi đóng quân y viện của Trung đoàn.
Nét chữ gọn đẹp mà vẫn phóng khoáng, chỉ qua đó đã thấy lộ rõ bản sắc Quang Dũng: bài thơ Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị chép xong ông còn vẽ một chàng tư mã áo xanh dắt ngựa xuống bến sông. Dưới thuyền, một cô ca kỹ đứng đầu thuyền đón khách. Bài Đôi mắt người Sơn Tây và Tây Tiến dưới đề hai chữ tắt QD. Riêng bài Dặm về ông rất hay đọc cho mọi người nghe và ai cũng tưởng là của ông thì đề rõ tên bài không đề, dưới bài: không tác giả. Thật là sòng phẳng, không lập lờ gì với bài thơ hay vô chủ lúc ấy. Đặc biệt, bài đầu trang sổ ông chép là bài Chiêu Quân đề cuối bài QD 1937. Trời ơi! Quang Dũng làm thơ từ lâu thế ư? (tôi thốt lên lúc ấy) Vậy là năm sinh của ông 1921, ông làm bài này năm mười sáu tuổi. Phải chăng tôi đã tìm được bài thơ đầu tiên của Quang Dũng? Cho đến nay, bạn bè và thân nhân của ông, chưa ai biết một bài thơ nào ông làm sớm hơn thế! Với Quang Dũng, người không biết lưu giữ bản thảo của mình thì phát hiện này quả là lý thú! (Bài này được giới thiệu trên báo ngay sau đó, và mười năm sau, Tuyển tập Quang Dũng, 1999, Trần Lê Văn biên soạn đã xếp bài này (lần đầu in sách) ngay trang thơ đầu.)
Vậy là cùng lúc, tôi là người may mắn, thấy được bút tích ông chép tay bài Dặm về phù hợp với cái lắc đầu kiên quyết trên giường bệnh khi ông không đồng ý đưa bài này vào tập Mây đầu ô của ông sắp đưa in, cùng lúc, tôi biết bài thơ xưa nhất ông làm là Chiêu Quân (1937). Với bút pháp, chất lượng bài này và bài Cố quận 1940 nếu ông có ý thức lưu danh đưa in từ năm đó, thì mặc nhiên ông thuộc thế hệ các nhà thơ mới, như Tế Hanh, cũng sinh 1921, 17 tuổi làm bài thơ đầu, 18 tuổi in tập đầu, 19 tuổi Giải thưởng Tự lực văn đoàn...
V - Hồn nhiên mà độc đáoNhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trời cá nước mà thành độc đáo. Một buổi sớm mùa đông lạnh đến mười độ, nghe tiếng chuông gọi cửa, tôi tỉnh giấc, nhìn đồng hồ, mới hơn năm giờ sáng. Hẳn có ông bạn nào tỉnh xa về, xuống tàu xuống ô tô bến xe Long Biên mới gọi vào cái giờ quái ác này! Nhìn xuống đường, qua làn sương mù dày tôi vẫn nhận ra tấm lưng to như lưng gấu của ông Quang Dũng, ông đang chạy tại chỗ chắc để đỡ lạnh. Xuống mở cửa, vẫn chưa hết ngạc nhiên thì ông dúi vào tay tôi cuốn sách cỡ nhỏ: “Tặng ông cuốn sách mới, nhân tập chạy, lúc khác thì lại quên!” Đó là cuốn bút ký Những chặng đường Cao Bắc. Từ nhà ông đến tôi phải năm sáu cây số. Khi đi viết về lâm nghiệp, ông cục trưởng có nhã ý tặng mỗi nhà văn một sản phẩm của rừng, ông chỉ xin một bộ đồ đi rừng gồm giày tất chống vắt để lại đi tiếp...
Quang Dũng vóc dạc to lớn, đôn hậu, hóm hỉnh, nhưng có tính nhát. Ông Trần Lê Văn trêu bạn, vẫn định nghĩa: Quang Dũng là người mở cửa sổ thì sợ gió lùa, đóng cửa thì sợ thiếu không khí. Tôi chứng thực một lần ông lên căn gác phố cổ Nguyễn Siêu nhà tôi: Đó là kiểu cửa sập nằm ngang, thường ban ngày phải dùng móc sắt cố định cánh cửa mở, để lên xuống cho an toàn, đêm mới hạ xuống, gài then. Thế mà khi lên thang, ông vẫn gườm mắt nhìn cánh cửa, một cánh tay giơ lên sẵn sàng đỡ nếu cánh cửa sập xuống. Thấy chúng tôi bật cười, ông chữa ngượng: “Tôi biết không bao giờ chủ nhà để nó sập xuống đầu khách như cái bẫy chuột, nhưng... nhỡ trăm năm nó mới sập một lần, lại đúng lúc tôi lên, thì sao?”.
Liệu có phải ông rút ra kinh nghiệm từ những lần “tai bay vạ gió”?
Quang Dũng làm thơ không nhiều. Khi chuẩn bị toàn tập cho ông, chúng tôi tổng hợp số bài thơ có trong tay chỉ có bốn mươi hai bài đã in trong các tuyển tập. Thơ chưa in vào sách có hai mươi ba bài (in lẻ trên báo và mới sưu tầm được). Vậy là cả đời thơ ông (cho đến nay) chỉ có sáu mươi lăm bài. Tinh hoa thơ ông hầu như đã tập trung ở tập Mây đầu ô.
Văn xuôi của ông, chủ yếu là bút ký, có hai mươi ba bài. Ở thể dạng này, nhiều mảng có thể coi như ông làm thơ bằng văn xuôi, cũng như gần hai chục bức tranh còn lại, coi như ông làm thơ bằng cây bút vẽ...
Vân Long
Nhà thơ Quang Dũng
• Tên thật: Bùi Đình Dậu (tức Diệm)
• Sinh năm 1921
• Quê quán: Phương Trì, Đan Phượng, Hà Nội
• Mất ngày 14 tháng 10 năm 1988 tại Hà Nội.
• Hoạt động: Trước Cách mạng: Học ban trung học trường Thăng Long, tốt nghiệp, đi dạy học tư ở Sơn Tây; từ Cách mạng: vào quân đội, công tác ở phòng Quân vụ Bắc bộ, phóng viên báo Chiến Đấu khu II; năm 1947: đi học trường Bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau đó về Trung đoàn Tây Tiến, làm Đại đội trưởng, Phó đoàn võ trang tuyên truyền Lào – Việt. Tháng 8-1951: xuất ngũ; từ hòa bình lập lại làm công tác biên tập văn nghệ ở các báo, và ở nhà xuất bản Văn Học.
• Tác phẩm chính: Bài thơ sông Hồng (truyện thơ, 1956); Mây đầu ô (thơ, 1986); Mùa hoa gạo (truyện ngắn, 1950); Đường lên Thuận Châu (bút ký, 1964); Nhà đồi (truyện ngắn, 1970); Rừng về xuôi (bút ký); Một chặng đường Cao Bắc (bút ký, 1983); Thơ văn Quang Dũng (tuyển thơ văn, 1988).
• Giải thưởng: Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I, năm 2001.