← Quay lại trang sách

“Sáu mặt đời lắc cắc tiếng thơ anh”

Lúc nào cũng có vẻ vội vàng, tất bật. Bây giờ đang lặng lẽ đấy, có thể mấy giây sau đã bùng nổ. Khi đi ngoài đường, quần áo xộc xệch, trên chiếc xe máy cũ, anh như người vô danh. Có khi đang ngồi quán bia hơi giữa ồn ào, náo nhiệt, anh lặng lẽ khóc. Hoàng Nhuận Cầm là vậy đấy. Nhưng khi lên sân khấu đọc thơ, khi phát biểu tham luận trong hội thảo, anh có thể làm cho cả một rừng người kinh ngạc, ngơ ngác, và thậm chí không nhịn được cười, không dừng được lệ. Trong con người Hoàng Nhuận Cầm có đủ cả sự giản dị bừng sáng. Đào hoa lắm. Khổ đau nhiều. Can trường và mơ mộng. Những phẩm chất tưởng chừng trái ngược lại song hành trong con người anh.

Hoàng Nhuận Cầm là nhà thơ tài năng thiên bẩm, với giọng thơ đẹp, như tiếng hót của một loài chim quý. Một khi giọng thơ ấy vút lên, lập tức được chú ý. Lần đầu tiên xuất hiện cách đây vừa tròn bốn mươi năm, với chùm thơ đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ trên báo Văn Nghệ (năm 1972-1973), Hoàng Nhuận Cầm đã gây ấn tượng với những câu thơ đầy nhạc tính, vang vọng, óng ả.

Toàn bộ thơ của Hoàng Nhuận Cầm (được in trong bốn tập: Thơ tuổi 20, Những câu thơ viết đợi mặt trời, Xúc xắc mùa thu, Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến, gồm hơn trăm bài), có thể chia thành hai mảng lớn: thơ về chiến tranh và thơ tình yêu. Mảng thơ tình yêu của Hoàng Nhuận Cầm được chú ý hơn, nhưng mảng thơ chiến tranh cũng rất độc đáo. Và với cả hai mảng thơ này, chất trẻ trung, tươi mới, hào hoa thấm đẫm trong từng câu thơ, từng hình ảnh, khiến thơ anh lung linh, được giới trẻ đặc biệt yêu thích.

Gần hai mươi năm cùng công tác với Hoàng Nhuận Cầm trong ngành điện ảnh, tôi có điều kiện được tiếp xúc với anh nhiều trong các liên hoan phim, các hội thảo hoặc các buổi ra mắt phim. Nhưng có lẽ kỷ niệm đáng nhớ nhất với Hoàng Nhuận Cầm là lúc chúng tôi cùng trở lại thăm thành cổ Quảng Trị, nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9. Tôi đã chứng kiến cảnh Hoàng Nhuận Cầm như lạc giữa hàng ngàn nấm mộ. Lúc ấy anh cứ bước đi như trong mơ. Thỉnh thoảng anh lại giơ tay chào trước những hàng bia im lặng và thút thít khóc, đôi mắt đỏ hoe, gương mặt tràn lệ. Bao nhiêu đồng đội của anh nằm ở đây. Có lúc Hoàng Nhuận Cầm tựa như lạc bước vào dĩ vãng, anh bần thần như nhìn thấy gương mặt, giọng nói của bao đồng đội còn ngân lên xung quanh, những trận bom cày xới mặt đất...

Tình yêu đồng đội, những day dứt khôn nguôi của một người lính bao nhiêu năm đắm trong hoài niệm là cội nguồn những trăn trở để anh viết nên kịch bản phim Mùi cỏ cháy đã “bóp nát trái tim” của biết bao những người đang sống trong thời bình. Đó cũng là cội nguồn của những bài thơ chiến tranh độc đáo người học trò mặc áo lính, mộng mơ, hào hoa, sang trọng:

Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu

Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ

Trong những ba lô kia ai dám bảo là không có

Một hai ba giọng hát tiếng ve kim

(Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu)

Chính những câu thơ thế này của Hoàng Nhuận Cầm đã khiến nhà thơ Xuân Diệu đương thời thốt lên: “Tôi cảm thấy mến thương các chú lính vô hạn, ra trận mà trong ba lô vẫn có những con ve, những hòn bi.”

Mãi nhiều năm sau Hoàng Nhuận Cầm vẫn theo đuổi cái giọng thơ về chiến tranh không trộn lẫn ấy và đã để lại những câu thơ khoáng đạt nhạc điệu và những hình ảnh ngời sáng.

Đêm trong suốt áp ngực vào phương ấy

Nhớ lại mùi cỏ cháy suốt thời trai

Ngôi sao rơi trên dãy kẽm gai dài

Một vùng đất không tiếng gà cất gáy

Bao hăng nồng cỏ cháy rát hoàng hôn.

(Phương ấy)

Hơn hai mươi tuổi, Hoàng Nhuận Cầm đã có một giọng thơ độc đáo, hấp dẫn như có ma lực. Thơ anh là tiếng lòng của những người lính trẻ hào hoa, gác bút nghiên ra trận, vẫn thấy hoa phượng đỏ gắn với một trời kỷ niệm tuổi học trò “rơi như mưa, như máu ở bên đường”.

Sinh ra trong một gia đình nghệ sĩ Hà Nội, cha là nhạc sĩ Hoàng Giác, Hoàng Nhuận Cầm trở thành sinh viên văn khoa Đại học Tổng Hợp Hà Nội, rồi khi mới học xong năm thứ nhất, anh nhận lệnh nhập ngũ và sau đó được điều vào thành cổ Quảng Trị, nơi được mệnh danh là cái “cối xay thịt”. Trong nhiều đồng đội thân thiết cùng nhập ngũ hồi đó, Hoàng Nhuận Cầm may mắn đi đến tận cùng cuộc chiến và được hưởng niềm vui chiến thắng. Hết chiến tranh, trở về, anh tiếp tục theo học những năm còn lại ở khoa ngữ văn Đại học Tổng Hợp Hà Nội rồi công tác ở Hãng phim truyện Việt Nam.

Anh bảo, anh yêu điện ảnh đến phát mệt. Mấy chục năm làm biên kịch, anh có nhiều tác phẩm thành công như Đêm hội Long Trì, Hà Nội mùa đông năm 1946, Mùi cỏ cháy... Nhưng tình yêu với thơ của anh còn lớn hơn nhiều: “Với Cầm, không còn làm thơ được nữa tức là không thể thở, là sẽ chết dần, chết mòn, héo úa hết màu xanh”. Anh được đánh giá cao trong biên kịch điện ảnh, nhưng có lẽ điều ghim lại hình ảnh anh trong cuộc đời, làm nên diện mạo anh trước công chúng, là thơ.

Có một dạo, tình hình điện ảnh khó khăn, anh sang Hãng phim truyền hình. Anh làm nhiều việc, từ biên kịch đến diễn viên. Và, người xem còn biết đến anh với biệt danh “Bác sĩ Hoa Súng”. Tôi hỏi anh làm truyền hình bận thế, có thời gian cho thơ nữa không? Anh bảo: “Không, đến hãng, vừa mở trang thơ ra xem, ông quản lý bảo, anh đọc thơ làm gì? Đọc truyện tìm cái hay mà chuyển thể chứ sao lại đọc thơ?” Hoàng Nhuận Cầm rời Hãng phim truyền hình trở lại với Hãng phim truyện. Khi nhà nước cho phép lập hãng phim tư nhân, anh cũng nằm trong số những nghệ sĩ tiên phong đứng ra lập hãng phim Điệp Vân với mong muốn tìm một con đường mới cho công việc của mình. Nhưng cuối cùng, anh chẳng thâm nhập được vào cái nháo nhào của thời kinh tế thị trường. Trong cái cảnh đời náo động ấy, nhiều lúc anh ngơ ngác.

Hoàng Nhuận Cầm trước sau vẫn là người của mộng mơ và hoài niệm. Có khác chăng, anh đã trải qua những trận bão máu thời chiến tranh, và mang thêm những vết thương của hòa bình. Qua một thời cả nước đói nghèo, khổ cực, anh mất đi nhiều mộng mơ. Những mối tình đổ vỡ, những ký ức từng gìn giữ nâng niu đến một ngày tan nát. Đời anh có lúc bơ vơ, chao đảo. Những trắc trở ấy, đau thương ấy, một lần nữa, lại biến thành thơ. Càng về sau, thơ tình của Hoàng Nhuận Cầm càng dữ dội, nhưng cũng sâu lắng, day dứt và quyến rũ thêm.

Thơ tình Hoàng Nhuận Cầm từng đi vào sổ tay của mấy thế hệ học trò. Những bài thơ Chiếc lá đầu tiên, Xúc xắc mùa thu, Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến, Mây rất thờ ơ... có thể coi là những bài thơ vào loại hay nhất cho lứa tuổi học sinh, sinh viên. Hoàng Nhuận Cầm trở thành thần tượng cho nhiều người trẻ yêu thơ, và họ tìm thấy trong thơ anh những hình ảnh mê hồn, những ám ảnh không dứt...

Em thấy không tất cả đã xa rồi

Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ

Tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế

Hoa súng tím vào trong mắt lắm say mê

Chùm phượng hồng yêu dấu ấy rời tay

Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước

Tiếng ve tiên tri vô tâm báo trước

Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu

(Chiếc lá đầu tiên)

Và đây nữa, những câu thơ gây ấn tượng day dứt bởi âm điệu và hình ảnh:

Sẽ tan đi những thành phố bảy màu

Đôi trái cấm trong vườn đời em anh làm vỡ

Nhưng giọt mực thứ ba em ơi không thể lỡ

Xin trải lòng ta đón chấm xanh rơi

(Xúc xắc mùa thu)

Thơ anh từng được bao nhiêu người chuyền tay nhau, chép tặng nhau trong sổ tay, thành hành trang theo mãi trong đời. Thiết nghĩ, không nhiều nhà thơ trong chúng ta có được vinh hạnh đó. Nhiều lúc, anh cố tình lẩn vào đám đông, nhưng khi tên anh được xướng lên, lập tức có hàng trăm đôi mắt hướng về trầm trồ, ngưỡng mộ.

Hoàng Nhuận Cầm đã bước vào tuổi sáu mươi. Hơn mười năm nay anh không có thêm tập thơ nào. Một lần anh bảo, tập thơ mới của anh sẽ mang tên Tôi có đủ nỗi buồn để sống. Nhưng tập thơ mới chưa ai thấy đó vẫn là một bí mật mà lúc này anh chưa muốn nói đến nhiều.

Thơ ca đang gặp những thách thức gay gắt, độc giả ngày nay đã khác trước nhiều, nhưng Hoàng Nhuận Cầm vẫn là một thi sĩ được các thế hệ người đọc trẻ tuổi hôm nay và sau này yêu mến, mặc cho những trào lưu mới không ngừng sinh ra.

Thiên Sơn

&&&

Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm

• Ngày sinh: Sinh ngày 7 tháng 2 năm 1952

• Quê quán: Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội

• Đời hoạt động: Năm 1969, học trường Đại học Tổng Hợp. Năm 1971 tình nguyện nhập ngũ vào Binh chủng Phòng không – Không quân. Đã chiến đấu tại các mặt trận Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế cho đến khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Năm 1976, giải ngũ trở về trường cũ tiếp tục học. Năm 1981 về công tác tại Hãng Phim truyện Việt Nam, rồi làm việc tại Đài Truyền hình Việt Nam. Năm 2005 trở lại làm việc tại Hãng Phim truyện Việt Nam.

• Các tác phẩm chính: Thơ tuổi 20 (thơ, in chung, 1974); Những câu thơ viết đợi mặt trời (thơ, 1983); Xúc xắc mùa thu (thơ, 1992); Thơ với tuổi thơ (2004); Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến (thơ, 2007); 36 bài thơ tuyển chọn (thơ, 2008). Một số kịch bản phim: Lầm lỗi, Đằng sau cánh cửa, Đêm hội Long Trì, Hà Nội – Mùa đông năm 46, Pháp trường trắng, Ai lên xứ hoa đào, Đoạn trường chiêm bao, Nhà tiên tri, Mùi cỏ cháy...

• Các giải thưởng: Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ 1972-1973. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1993 (tập thơ Xúc xắc mùa thu). Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2012).