Một lão nông viết văn
Đối với người cầm bút, có một vùng đất gắn bó gan ruột, trở thành nguyên liệu cho cuộc đời sáng tác của mình quả là một điều may mắn. Mảnh đất đó thường là nơi mà họ được sinh ra và lớn lên, là quê hương máu thịt. Quê hương là mạch nguồn cảm xúc vô tận, cứ viết mãi viết mãi vẫn thấy chưa thỏa mãn với tình yêu họ đã dành cho mảnh đất đó. Tình yêu thì vô biên, nguyên liệu lại dồi dào, tuy nhiên để thành công không phải ai cũng làm được. Có lẽ nhà văn Ngô Ngọc Bội là một trong số ít những người cầm bút làm được điều đó.
Cả một đời viết văn, Ngô Ngọc Bội chỉ viết về đề tài nông thôn và bối cảnh cho các tác phẩm đó là mảnh đất quê hương ông. Ông sinh ra trong một gia đình trung lưu miền trung du Phú Thọ, bên hữu ngạn sông Thao. Cái mảnh đất vốn được xem là màu mỡ đó, mà đời sống người dân cũng chẳng khấm khá gì. Khi ông còn nhỏ, ngoài công việc đồng áng, bố mẹ ông còn mở một quán khâu vá để đủ tiền nuôi đàn con ăn học. Hàng ngày ông vẫn thấy mẹ thu gom những thẹo vải thừa vào bao tải để bán cho cô mua vải vụn, lông gà lông vịt, tóc rối. Rồi đến một ngày, cô chè chai tóc rối đó đi lấy chồng, không đến mua nữa. Ông vẫn thấy mẹ mình lèn từng tải vải vụn, xếp sau nhà. Thi thoảng, bà lại đem ra chắp nối lại, nhưng ông cũng không hỏi bà chắp nối những mảnh vải đó để làm gì. Sau nạn đói 1945, ông phải dang dở việc học hành để làm ruộng đỡ đần cha mẹ. Ngoài ra, ông thêm nghề trèo cọ, cắt lá cọ đem bán cho người ta lợp mái nhà. Hồi đó, ông là cao thủ trèo cọ trong vùng nên cũng có đồng ra đồng vào đỡ đần cuộc sống gia đình. Rồi, ông tham gia hoạt động cách mạng, vào Đảng, đến tuổi lấy vợ thì được bố mẹ tìm cho một cô gái ưng ý cùng làng. Ông bảo, chẳng bao giờ ông quên được hình ảnh cái giường tân hôn của vợ chồng ông. Trên chiếc giường tre trải một cặp chiếu cói mới. Đầu giường là hai chiếc gối và cái chăn được khâu bằng những thẹo vải đủ các màu xanh, nâu, đen, trắng. Mỗi thẹo vải chỉ bằng lá lúa, bao diêm, miếng nào to thì bằng bàn tay. Ông chợt bàng hoàng thương cho người mẹ tảo tần. Thì ra, cả chục năm trời, mẹ ông cóp nhặt những thẹo vải để làm thành đôi gối và cái chăn cho con trai cưới vợ. Chiếc chăn hàng ngàn thẹo vải, nặng tới sáu kilôgam. Những mép vải cộm lại phía trong ấm áp. Đêm tân hôn với ông có gì đó thật kỳ lạ. Mùi của những thẹo vải, mùi chiếu cói, mùi ẩm mốc của bức vách trát bùn đất còn chưa khô hẳn, cộng với mùi bồ kết trên tóc của người vợ trẻ cứ hòa quyện vào nhau. Những cái mùi đó cứ ám ảnh, văng vẳng suốt đời ông, đặc biệt trong những năm tháng công tác xa nhà.
Tôi từng về thăm nhà ông ở xã Phú Khê, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Một ngôi nhà hai tầng bên những tán cây hồng xiêm cổ thụ ngót cả trăm tuổi, tỏa bóng sum suê. Sau hai chục năm nghỉ hưu từ tuần báo Văn Nghệ, ông sống thanh bạch nơi chôn nhau cắt rốn cùng người vợ hiền hậu. Bà là mẫu người đặc trưng của phụ nữ nông thôn Bắc bộ. Từ ngày về làm dâu họ Ngô, bà lặng lẽ, tảo tần gánh vác gia đình nuôi đàn con khôn lớn. Còn ông Bội thì cứ công tác biền biệt cho đến ngày nghỉ hưu. Bà bảo bây giờ cuộc sống đỡ vất vả, sướng hơn trước rồi. Ông Bội thủng thẳng cười: “Vợ ông Bội thì lúc nào mà chẳng sướng.” Bà lão tỏ vẻ tự hào về ông chồng nhà văn của mình. Bà vẫn tự chăm sóc ông Bội chu đáo: cơm nước, thuốc men, giờ giấc sinh hoạt. Những lúc ông ngồi vào bàn viết, bà lặng lẽ đi đóng cổng ngoài cửa trong để đám trẻ nô đùa không ảnh hưởng đến công việc viết lách của ông. Bà bảo, ông cứ viết hết cuốn này đến quyển nọ nhưng bà chẳng đọc. Bà suốt ngày bận rộn với lợn gà, vườn tược, cơm nước, xem ông là người quan trọng, chỉ mỗi tội không có tiền bạc bao giờ. Tôi cười với bà: “Trong chiếu văn, ông nhà mình đúng là người quan trọng đấy bà ơi, chẳng gì thì cũng vừa được cái giải thưởng nhà nước đấy thôi, đâu phải ai cũng làm được điều đó.” Ông Bội cười hề hề: “Làm cái anh nhà văn quan trọng gì ba cái giải thưởng giải thiếc. Ấy nhưng mà cái giải thưởng đó họ cũng cho được khá tiền đấy cậu ạ. Thế mà bà cứ bảo chẳng có tiền bạc bao giờ.”
Có lẽ ai đã từng gặp nhà văn Ngô Ngọc Bội một lần thì chắc hẳn sẽ không bao giờ quên được gương mặt ấy, ánh mắt ấy: toát lên nét đôn hậu chất phác nhưng cũng hiện rõ vẻ rắn rỏi phong trần, từng trải. Ông ngoắt tôi: “Cậu đi theo tớ.” Bước xuống sân gạch trước nhà, ông chỉ ra cái ao cá, cách một vườn rau xanh mướt, rồi bảo: “Cách đây mấy năm, mỗi khi nhà có khách là tớ vẫn xuống ao bắt cá để nhắm rượu. Bây giờ thì chịu, đến rượu cũng chẳng uống nữa.” Tôi tò mò quan sát một cây sào to bằng bắp tay dài khoảng sáu, bảy mét, có những vấu chìa ra từ đầu đến ngọn khoảng một gang tay. Ông cười bảo: “Ngạc nhiên lắm phải không, cái này gọi là cây đà, dùng để trèo cọ. Ngày trước tớ vẫn trèo cọ bằng cây đà này đấy. Có những cây cọ cao bằng bốn đến năm lần cây đà này ý chứ. Nguy hiểm lắm. Cậu nhìn tay tớ đây này, khắp hai cánh tay đều là sẹo do trèo cọ cả đấy.” Ông kéo tay áo cho tôi xem những vết sẹo. Ông dẫn tôi đi vòng ra sau nhà, sang nhà ông anh trai để chỉ cho tôi gian nhà thờ họ. Anh trai ông đã mất, chỉ còn hai bà vợ, bà cả hơn chín mươi xem ra đã yếu và hơi lẫn, bà hai tám nhăm tuổi vẫn khỏe mạnh. Một mình bà hai làm tất cả mọi việc trong nhà và chăm sóc bà cả. Con cháu thì ở xa, một tháng về đôi ba lần. Tôi lại nhớ đến truyện ngắn Hai người đàn bà xóm trại của Nguyễn Quang Thiều. Hai người đàn bà trong truyện của Nguyễn Quang Thiều có hai ông chồng khác nhau, đều chưa có con, ở cùng nhau dưới một mái nhà nơi xóm bãi ven sông để chờ hai ông chồng bộ đội trở về. Còn hai bà lão mà tôi đang gặp đây là vợ cả vợ hai, đều có con cái, ra vào như hai cái bóng trong mấy gian nhà ngói nằm trên quả đồi bát úp miền trung du này. Họ đang đếm những năm tháng cuối cùng cuộc đời mình, và chẳng trông đợi điều gì. Có chăng họ chỉ chờ ngày con cháu về thăm, đỡ cô quạnh. Nhà văn Ngô Ngọc Bội quay sang tôi: “Văn học là đây chứ còn đâu nữa. Quê tớ có nhiều chuyện hay lắm, viết cả đời không hết được. Chính vì thế mà tớ luôn cảm thấy như người mắc nợ với quê hương, với nông thôn. Trong đầu tớ đang hình thành mấy cuốn tiểu thuyết nữa, tiếc rằng sức yếu rồi không viết được nữa. Đầu óc bây giờ không còn minh mẫn, cứ nhớ nhớ quên quên, mệt lắm.”
Trong gian nhà thờ họ, ông ngồi gác cả hai chân lên thành ghế, đầu đội chiếc mũ nồi, trông vẻ rất lãng tử, ông say sưa kể cho tôi nghe những câu chuyện của quê ông, những câu chuyện về gia đình và cuộc đời ông. Đang trò chuyện bỗng ông dừng lại và bảo: “Thôi chết cái thanh xà này bị mọt rồi cậu ơi. Đấy, cậu có thấy mọt nó ăn, rơi đầy cái phản kia không.” Rồi ông nói vọng với bà chị dâu thứ hai đang lúi húi trong bếp: “Bà ơi cái thanh này bị mọt ăn hỏng hết cả rồi. Thôi chết. Thế này thì bỏ mẹ.” Bà lão lật đật chạy từ dưới bếp lên xem, cầm cái chổi quét cứt mọt xuống nền nhà, rồi quét ra sân. Ông Bội lại ngoắt tay tôi: “Thôi ta lại về bên nhà đi cậu.” Vừa đi ông vừa bảo: “Ở cái xóm này, bây giờ toàn ông bà già với nhau. Con cháu kéo ra thành phố hết cả rồi. Buồn thì cũng có buồn. Ấy thế mà cũng quen đấy cậu ạ. Cứ như tớ, mấy chục năm làm việc dưới Hà Nội, nhưng bây giờ cho về Hà Nội ở với con cháu khoảng một tuần mà cũng không thể ở được. Nó ngột ngạt tù túng lắm cậu ạ. Ngày xưa ở Hà Nội, tớ cũng ít giao đãi bạn bè, cứ lặng lẽ viết lách là chính. Về đây gần gũi với thiên nhiên sướng hơn.”
Tôi cũng đã được nghe nhiều người kể, ông là người ít giao du với bạn bè văn chương. Đặc biệt với các tên tuổi lớn, những nhân vật quan trọng hoặc những ông nhà văn hay tỏ vẻ khụng khiệng, ông lại càng tránh. Ông bảo mỗi người có một công việc riêng, suy nghĩ riêng, một cách viết riêng, vậy thì cứ làm tròn bổn phận của mình đi. Với ông, ông đã chọn cho mình một cách sống, một cách viết rất Ngô Ngọc Bội.
Trong giới văn chương, người viết về đề tài nông thôn cũng nhiều nhưng viết để cho ra hồn cốt của nông thôn Việt Nam thì lại ít. Ngô Ngọc Bội đã làm được điều đó. Ngô Ngọc Bội như thể một ông nông dân vừa chân đất kéo cày vừa cầm bút viết văn. Tác phẩm của ông thấm chất chân quê để đến được cái chân thực của văn chương. Ông viết về đời sống, những vui buồn, đau khổ, hạnh phúc, diễn biến tâm lý của người nông dân như viết về chính con người mình vậy, làm toát lên rõ nét tinh thần nhà quê. Ông có cách miêu tả tâm lý con trâu trong từng hoàn cảnh khác nhau khiến người đọc thấy bỡ ngỡ, lý thú rồi bị hút vào theo. Hay ông miêu tả những cảnh yêu đương của trai gái nông thôn chân thực đến thế, vừa vụng về, vừa mộc mạc lại có duyên tinh tế. Tác phẩm của Ngô Ngọc Bội bám sát hình tượng người nông dân suốt một thời đoạn lịch sử, từ trong cách mạng, tham gia giải phóng, được giải phóng và xây dựng kinh tế. Cuộc sống nông dân trong văn Ngô Ngọc Bội sống động, có xung đột và hàn gắn, có nước mắt và nụ cười, có cái chung và cái riêng.
Ngô Ngọc Bội không chú tâm đến phong cách văn chương, ông viết như một bản năng đã được hoàn thiện bởi phông văn hóa về nông thôn và vốn liếng văn chương chữ nghĩa. Ông bảo, người cầm bút viết văn có hai dạng. Dạng từ tâm huyết viết thành tác phẩm. Dạng này viết chậm chạp. Nhưng khi đã chạm tới đích thì thành quả thường bền chắc, sâu lắng. Dạng thứ hai thường là do bịa tạc hoặc có nơi đặt hàng, chỉ cần nghe báo cáo là có sản phẩm. Dạng này thường viết nhanh hết cuốn này đến cuốn khác, nhưng văn chỉ có cốt truyện, sự việc, thiếu tình tiết, thiếu chi tiết sống và nội tâm nhân vật. Ông tự nhận mình là người viết thuộc vào dạng thứ nhất, vì vậy mà Ngô Ngọc Bội đã có cả một sách lược lâu dài, hoạch định cho cả đời cầm bút của mình.
Năm 1960, khi truyện ngắn Bộ quần áo mới được giải nhất cuộc thi truyện ngắn của báo Văn Học thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, ông khẳng định việc cầm bút và đi vào nghiệp văn chương. Năm 1968, ông về công tác tại báo Văn Nghệ, đúng là nơi để ông thả sức học tập viết lách. Ông tranh thủ bổ sung kiến thức và tay nghề. Ông xông xáo đi viết bút ký phóng sự trên rừng dưới biển, trong nam ngoài bắc; nơi nào đặt chân đến ông đều ghi chép rất cẩn thận và viết. Những chuyến đi như thế giúp ông mở thêm tầm nhìn.
Trong những năm công tác ở báo Văn Nghệ, Ngô Ngọc Bội được anh em văn chương yêu mến và kính trọng về tài năng và đức độ. Mọi người gọi ông là “bà đỡ” cho rất nhiều cây bút. Sau này bọn họ nhiều người nổi tiếng hơn ông, nhưng họ vẫn nghĩ về ông với sự kính trọng và biết ơn. Những góp ý chân thành, những việc làm của ông khi đó giống như cái đòn bẩy, giúp họ có bài học, động lực để tiến xa hơn trong con đường văn chương đầy chông gai. Khi ông đã nghỉ hưu về quê, có nhiều người vẫn về tận nơi thăm ông như thăm một người anh, một người thầy, một vị ân nhân. Những năm ông làm trưởng ban văn xuôi ở báo Văn Nghệ là một giai đoạn hoàng kim của văn học, đặc biệt với văn xuôi. Thời kỳ đó báo Văn Nghệ tạo ra những cơn “địa chấn” với hàng loạt truyện ngắn, bút ký phóng sự. Nhà văn Nguyên Ngọc, tổng biên tập báo Văn Nghệ lúc đó, được ví như là tổng công trình sư, còn Ngô Ngọc Bội là kỹ sư thực hiện. Ông bảo, những năm biên tập văn xuôi ở báo Văn Nghệ, ông đã dùng thủ pháp “chập chờn” trên mặt báo. Lúc lảng ra, lúc lảng vào. Gọi là chiến thuật vỗ tay và tát. Một cái tát, chín cái vỗ tay. Hai cái tát, tám cái vỗ tay. Bốn cái tát, sáu cái vỗ tay. Rồi sáu cái tát, bốn cái vỗ tay. Nếu thấy anh nào nhăn mặt thì lại rút về, rồi tung ra mười cái vỗ tay. Hồi đó thấy báo Văn Nghệ mạnh dạn in những sáng tác mang tính đổi mới, đa chiều, phản biện, lập tức cộng tác viên cả nước rầm rập gửi bài tới. Văn Nghệ in từ ba vạn mỗi số, rồi lên tới năm vạn, có lúc lên đến bảy vạn tờ. Không khí đổi mới văn chương sôi động khắp cả nước.
Đang ngồi bàn nước, ông lại kéo tôi vào gian nhà trong. Căn phòng khoảng mười mét vuông, chỉ có cái tủ quần áo, cái giường, cái bàn viết và cái ghế đẩu, tất cả đều đã ngả màu đen bóng. Ông bảo mấy thứ đồ gỗ này là cùng một bộ, ông mua chúng từ tiền nhuận bút của cuốn Ao làng, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông. Đó là cuốn tiểu thuyết góp phần làm nên tên tuổi Ngô Ngọc Bội, nhưng cũng phải lận đận hơn mười ba năm mới đem in được. Ông lúi húi tìm chìa khóa để mở cánh bên phải của cái tủ gỗ, rồi từ đó mở chốt của cánh cửa tủ bên trái. Từ trong khoang tủ tối om, ông bê ra mấy chồng sách vở, toàn là những bản thảo, sổ tay ghi chép, và những bài báo ông cắt ra dán vào thành một quyển. Những cuốn sổ tay ghi chép ngay ngắn từ trang đầu đến trang cuối, đánh số từng quyển rất cẩn thận. Rồi ông lại khệ nệ bê ra một chồng sách, đó là những tác phẩm của ông đã xuất bản, cuốn nào ông cũng ghi vào trang đầu, dòng chữ: “Bản lưu trữ của tác giả”. Ông bảo, cả một đời sống chết với văn chương, bây giờ nằm gọn trong cái tủ này, tính ra gần hai chục tác phẩm: tiểu thuyết và truyện ngắn, đấy là chưa kể cả trăm cái bút ký mà ông chưa tập hợp in thành sách.
Tôi nói với ông: “Khi nào lên Hà Nội, ông ghé vào báo Văn Nghệ chơi với bọn con cho vui”. Ông lại cười tít mắt mà rằng: “Vui gì. Bây giờ có ai biết mình là ai, chỉ tổ làm mất thời gian của mọi người.” Ông tiễn tôi ra tận đầu làng. Nói là ra tận đầu làng nhưng cũng chỉ có mấy bước chân, bởi nhà ông nằm ngay đầu làng nhìn ra đồng lúa thẳng cánh cò bay. Nhìn từ xa ngôi nhà của ông nằm lúp xúp bên sườn một quả đồi bát úp, lác đác vài cây cọ cao. Bóng nhà văn Ngô Ngọc Bội, nhác trông cũng như một lão nông ra thăm đồng.
Trần Vũ Long
Nhà văn Ngô Ngọc Bội
• Ngày sinh 14-4-1928
• Quê quán: Xã Phú Khê, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ
• Đời hoạt động: Từ năm 1945-1948: Thanh niên cứu quốc xã. 1948-1949: Cán sự huyện đội Cẩm Khê. 1949-1957: Cán bộ thông tin tuyên truyền huyện Đà Bắc, rồi tỉnh Hòa Bình. 1957-1968: Ty văn hóa Phú Thọ rồi Vĩnh Phú. 1968-1993: Trưởng ban biên tập văn xuôi báo Văn Nghệ. Năm 1994 nghỉ hưu.
• Các tác phẩm chính: Chị Cả Phây (tập truyện, 1963); Đất bỏng (ký sự, 1968); Ao làng (tiểu thuyết, 1975); Nợ đồi (tập truyện, 1984); Lá non (tiểu thuyết); Ác mộng (tiểu thuyết, 1990); Mênh mang cổng trời (tiểu thuyết, 1992); Gió đưa cành trúc (tiểu thuyết, 1994); Những mảnh vụn (tập truyện, 1996); Tơ vương (tiểu thuyết, 2000); Đường trường (tiểu thuyết, 2001); Đường trường khuất khúc (tiểu thuyết, 2003); Ẩm ương đi lấy chồng (tập truyện, 2005), và 67 bút ký, phóng sự phần lớn in trên báo Văn Nghệ chưa tập hợp thành sách. Kịch bản phim chân dung: Nhà văn Trung du (xưởng phim Hội Nhà văn Việt Nam sản xuất năm 2001).
• Giải thưởng văn học: Giải nhất truyện ngắn Bộ quần áo mới báo Văn Học năm 1960. Giải thưởng Ủy ban nông nghiệp Trung ương năm 1976, tiểu thuyết Ao làng. Giải thưởng văn học Hùng Vương tỉnh Vĩnh Phú, tiểu thuyết Ác mộng. Giải thưởng Côn Sơn tỉnh Hải Dương, tiểu thuyết Gió đưa cành trúc, 1991-1995. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2012).