← Quay lại trang sách

Lão Mai - Quế hương - Đời...

Tôi lần đầu làm quen với văn Đỗ Chu vào một đêm trong hang lưng chừng núi đại ngàn Trường Sơn. Giữa hai trận đánh, buộc phải hành quân. Khi ấy Hương cỏ mật cho tôi một cảm giác dịu dàng. Trận mạc khốn nạn, đầy hiểm nguy rình mò, lắm khó khăn mà dễ nản lòng. Hương cỏ mật, không có đùng đoàng, chẳng có kêu gọi nhập ngũ..., làm đêm chiến trận vốn căng như viên đạn vừa vút khỏi đầu súng, thoắt nhiên chùng xuống...

Hồi những năm tám mươi, loáng thoáng thấy ông ở báo Văn Nghệ, không dịp quen. Mãi tới 1996, tôi mới có dịp làm quen. Trưa, tôi mời Đỗ Chu dùng bữa. Bấy giờ, tôi còn làm ăn bên Đức, khá xông xênh, định ăn ở nơi thật sang. Đỗ Chu gạt phắt: Thôi, vào quán nhỏ nào đó! Một quán ăn bình dân ở phố Huế. Ông gọi một đĩa cơm với miếng thịt gà và ít dưa chua. Lại vài lần nữa, gặp ông với nhà thơ Hữu Việt ở quán nước kề cửa báo Tiền Phong. Quán ấy, Hữu Việt và tôi ngồi nhẵn ghế mà nào biết nhà quán đang có chuyện. Thế mà Đỗ Chu tường tận, thẽ thọt với chị, như lo việc nhà. Cái vẻ dung dị của ông, dẫu y phục tây hay ta đều chỉn chu, đồng điệu, bộ râu đến cái cặp kính nhìn hiền, hóm, là vẻ ngoài để chị hàng nước tin cậy chăng? Hay Đỗ Chu ăn nói ngoài đời có duyên? Như khi bên bè bạn văn, nhiều kẻ bị cuốn với các câu chuyện bông lơn, miên man với trí nhớ trác tuyệt, chân, giả chả khó lần. Còn nơi đây, không còn cái đùa cợt hằng ngày. Phải chăng, Đỗ Chu thấm hiểu cái cuộc sống trăm mối tơ vò, phức tạp thành thị, biến sơ thành thân, cứ hồn nhiên vào cuộc, là con người thật của Chu.

Lần nữa. Có nhà văn Nguyễn Bản, nhà thơ Nguyễn Phan Hách và tôi trên nhà xuất bản Hội Nhà văn. Đỗ Chu bàn sự viết, có chọc đùa tôi một câu, ra dáng đàn anh. Nguyễn Bản không biết anh Chu quý mến tôi, bèn mắng Chu ngay. Đỗ Chu im. Nhũn như con chi chi. Sau tôi hỏi, sao hôm ấy ngoan thế? Thường nhật, anh hoạt ngôn lắm cơ mà? Đáp: Nguyễn Bản là bậc thầy.

Tôi có ngôi nhà ở Ngọc Hà gần nhà Nguyễn Bản, thi thoảng có dùng bữa cùng. Một lần, tôi hỏi: “Anh dạy Đỗ Chu à?” Đáp: “Không! Tớ dạy ông anh Đỗ Chu. Cũng có học trò sau dạy Đỗ Chu.” À ra thế!

Đỗ Chu xuất thân từ dòng họ Chu có học ở vùng Kinh Bắc. “Từ năm bảy tuổi, các cụ trong vùng đã dạy tôi Hán Nôm. Bắt đầu phải Tam tự kinh rồi lầu lầu Tứ thư, Ngũ Kinh” – Chu từng kể. Mười tám tuổi vào quân ngũ, đã ít nhiều thông tỏ dăm bộ sách; những Lão, những Khổng, rồi các bậc thánh hiền của xứ Việt. “Đủ ít vốn còm để khai phá cái cơ bản văn hóa, triết học Á Châu.” Vào Ngọc Sơn, ông thau tháu dịch hai vế đối của thần Siêu, về sự ứng xử ở đời, sau lối cổng vào, để dặn lại cả Hữu Việt và tôi.

À ra thế! Cái căn cơ của người, thường nhật hay bông lơn, thi thoảng tức thời tế nhị xa gần, cười nhẹ ai khọng khạnh; cứ đùa đùa mà vỗ vai phê bình cả Chủ tịch tỉnh, lẫn cả sắc chức cao hơn hàng tỉnh. Nhưng với Nguyễn Bản, một nhà văn ẩn dật ở Ngọc Hà, không có chức sắc chi, Đỗ Chu vẫn nhớ chữ “Lễ”, nhớ là thầy của bậc thầy mình thuở xưa mà nhường bước, mà cung kính.

Chuyện thứ ba. Năm ngoái, tôi được ông mời tới nhà riêng dùng cơm tối. Tôi dẫn theo một người bạn ở Đức về, vốn mến mộ văn Chu. Tới, thấy ông xắn áo, tay dao, tay thớt. Ngạc nhiên lắm! Tôi cũng biết vợ ông vừa qua hai lần trọng bệnh. Chu đôn đáo khắp nơi, sang cả Tàu mời thầy thuốc, cứu vợ qua hai cơn tai biến. Từ đó, ông chẳng để vợ làm việc nặng, cả việc nấu ăn cần kỹ lưỡng. Đỗ Chu thoăn thoắt nhặt rau, thái thịt, sắp mâm, vợ chỉ phụ, nhoang nhoáng, xong các món đãi hai đứa em ở xa về. Cơm sắp ra mâm, Đỗ Chu còn mải mê văn chương với bạn tôi. Chợt sau lưng có tiếng ai, rất thiết tha: “Chu ơi, cơm dọn rồi, ra ăn đi!” Cứ ngỡ là ai mới về. Giọng trẻ thế! Quay lại, vẫn chỉ vợ Chu. Quan sát thấy, Đỗ Chu đối xử với vợ như với em gái yếu ớt đang dưỡng sức. Khi ăn, tình già chăm nhau từ gắp cá, ngọn rau. Tôi cũng hiểu, ông thương vợ, không muốn vợ buồn. Có đồng nào, vợ biết là đưa hết, đưa sạch cho một người luôn ám ảnh sự sợ hãi neo túng khi bệnh tật. Sự vậy, nên dù viết nhiều, nhuận bút báo dành tác giả danh nổi như Chu, chả eo hẹp gì, mà túi ông luôn rỗng rễnh. Thế mà lần sang Czeck, có người yêu văn ông, biếu ông vài trăm đô la, ông đưa cho một người Việt xa xứ cùng ngồi đấy, thản nhiên bảo: “Cho tay này thì đúng hơn. Nó viết thơ, yêu văn, lại nghèo hơn tớ.” Ấy là kẻ biết giữ cái ấm áp của lửa vùi trong tro trấu ngàn đời, nết ăn thói ở gia đình Việt, từ trong nhà đi ra ngoài đường. Tối. Ra về, vợ Chu cho hai đứa em bọc trám đen sơ chế. Ông bảo, làng tớ giờ chỉ còn nhà Chu có hơn hai chục gốc trám đen cổ thụ. Ngót nghét hai, ba trăm năm. Cả vùng Kinh Bắc, phá hết, chặt trụi loài trám đen rồi.

Về Đỗ Chu đã có vài người viết, tả cái chân quê, bỗ bã. Ai nói ông dại, chỉ nói ông khôn. Khôn thì rõ rồi, nhưng không khôn lỏi, khôn ranh. Tôi chụp những bức ảnh ông hút thuốc lào, chén trà bên hè; không chụp được lời xởi lởi của mấy bà chị đường phố Hà Nội quanh quanh Hội, nhận ra nhà văn, đon đả mang ghế mời ngồi, thăm hỏi Chu như một người thân. Không chụp được lời tâm tình của một trí thức gốc Hà Nội, ngồi bệt xuống cùng, phút bất chợt bên hè Hà Nội sớm Thu. Còn nhận ra Đỗ Chu ngậm xì gà Bolivar, phì phào bàn về văn hóa Tây Âu. Hay khi ông ngậm tẩu nhồi thuốc sợi Tobacco, nheo mắt nói về bề dày của văn hóa vùng Kinh Bắc, hoặc về cái lớn, cái hay, rực rỡ của nền văn hóa Hoa Hạ, cả cái dã man trong thói xưa, mưu nay ở Tàu... Những khi ấy, tôi ước có phép lạ, bưng anh Chu tới giữa Paris, đàng hoàng mồi xì gà Bolivar, uống cà phê bên bờ sông Seine, nói chuyện với mấy trí thức gộc người Việt ở Pháp.

Đấy là dăm cái võ vẽ, bóc tách ra, nhận biết đế cốt cho Con người văn Đỗ Chu?

Xuân tới, nhà văn Đỗ Chu vừa tròn bảy mươi. Cuộc đời làm văn chương của ông thế là tới năm mươi hai năm. Tính từ khi còn là cậu học sinh mười tám tuổi, trình làng đoản văn Ao làng, trên Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Năm kia, Đỗ Chu cho xuất bản Tổng thành truyện ngắn, hai tập, dày cả hơn ngàn trang, bao gồm 35 truyện ngắn. Cuối 2011, ông lại vừa ra mắt Tổng thành tùy bút bút ký và tản văn. Hai tập: Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người, 800 trang. Sắp tới ông sẽ cho ra mắt nốt cuốn Đường xa. Đường xa là bao thân phận người Việt tỏa ra khắp thế giới. Những loài chim ngụp trôi trên sóng nước, dòng đời. Những câu chuyện tưởng như hoang đường mà có thật. Thế là đóng lại toàn bộ văn xuôi của Đỗ Chu! Có thể nhìn, suốt chiều dài văn chương Đỗ Chu bằng chính cái tên của hai tập tổng thành truyện ngắn. Đấy là đường văn khởi đã như chàng trai sức vóc gió mưa Mùa hạ, sau năm mươi năm trở thành Lão Mai, lừng lững trên văn đàn. Văn chương Việt Nam không thể thiếu ông, nhất là khi nói một nền văn học hiện đại, đồng hành với từng bước đi của nhân dân. Nói như thế không có nghĩa văn Đỗ Chu phỏng hiện thực, mà là văn ông không tách rời đời sống dân tộc, có trách nhiệm với các cuộc xoay đổi lịch sử cách mạng. Lại một cách chả giống ai, có sắc diện đặc biệt.

Trước hết, nói về mảng truyện ngắn. Nhân vật của ông đa phần xoay quanh người lính và con người sống ở nông thôn, gốc gác nông dân. Nhưng đọc cho kỹ, thì mới nhận ra, ông viết về nông thôn mà không bàn chuyện cày cuốc, lúa giống phân gio, việc ra hay vào hợp tác, lợi hại thế nào. Viết về người lính, ông tránh tiếng ùng oàng bom đạn. Ngay từ truyện đầu tiên Hương cỏ mật, áng văn đậm hương của những người tha thiết với quê hương mà nhập ngũ. Về nông dân và nông thôn, hay chiến tranh, những trang văn của Đỗ Chu đều đi sâu vào tâm lý và thân phận con người trong những cảnh huống nhất định. Bám vào chiến cuộc trong Mùa hạ, hay hậu chiến ở tổng tập Lão Mai, truyện Đỗ Chu đi sâu vào tâm tình của con người trong chiến tranh, sau chiến tranh. Những hành xử của họ trong gia đình, ngoài xã hội. Vậy là, Chu đem đến cho người đọc nhiều suy ngẫm rốt ráo về tình người và trách nhiệm làm Con Người. Đấy là vấn đề muôn đời của văn học. Đỗ Chu như cây mai già tới độ mãn khai, cho Văn chương Việt những áng văn khó trộn vào bất cứ tác giả nào.

Có người ví đại ý, Văn như loài cây. Có loại gỗ như đinh, lim, sến, táu. Gỗ nó làm đủ vật dụng trên đời. Còn loại gỗ xôm xốp chả thể làm nhà, đóng đồ, đóng thuyền, nhưng lại tỏa ra mùi hương quyến rũ làm người ta ngây ngất. Văn Đỗ Chu thuộc loài cây thứ hai, lõi mềm vô tích sự, vỏ thì sực hương như loài quế. Gỗ đóng thuyền thì di chuyển được, song hương của cỏ cây có khi bay xa hơn, sâu hơn, ngấm khẳm vào lòng người đeo đẳng mãi. Nên văn của Đỗ Chu, dù không có cốt truyện, ít chi tiết ám ảnh dữ dội, người ta vẫn nhớ lâu là như thế chăng? Sự ví von này làm Đỗ Chu giật thột và Trần Đăng Khoa thán phục. Tôi rất đồng cảm với nhận xét tinh tế này. Đỗ Chu là một văn tài có cái đại khí mà nhà văn cần có. Văn Đỗ Chu là thứ bền lâu, thứ trầm tư để suy ngẫm; đẹp mà không mong manh, hay ồn ào. Nói chung, văn Đỗ Chu mang dáng dấp tự sự, dù ở truyện hay ký, cũng gửi gắm vào đó cái nhìn và thái độ dứt khoát của Đỗ Chu với thời cuộc, với dân tộc, và cốt tử là những vấn đề thuộc tính của con người Việt. Cái hương quế: Con người Việt là trung tâm, văn hóa Việt là cái sắc diện bao trùm.

Còn hai tháng nữa Tết. Chu và tôi ngồi ăn trưa, ông trao cho tôi tập bản thảo 27 bài thơ, nhan đề là Thương Hạ, sắp xuất bản. Nói với tôi: Thi sĩ bây giờ nhan nhản. Anh chỉ là kẻ làm thơ không chuyên nghiệp, không đua tranh với ai.

Tôi đón Thương Hạ. Không ngạc nghiên gì khi ông dở dói thơ ca. Bởi vì, tạng ông, ở văn xuôi kể vật hay người, đều có phấn hương, lộ ra cái tâm hồn thi sĩ. Chu viết nhiều, xong đầu còn xăm xắp bao suy nghĩ miên man, nên thơ viết đều đều hơn năm, ra ngót nghét ba chục bài, có gì mà lạ!

Tôi hình dung một người đi trên đường phố Hà Nội sớm hôm. Áo quần bay phơ phất và chòm râu trắng phất phơ theo gió. Khuôn mặt thanh tao, đôi mắt tinh, hóm hỉnh... Đỗ Chu của tôi đấy! Với cuộc hành trình năm mươi năm, một đời văn, là Cây mai già mãn khai, cười trong gió đông Hà Nội.

Nguyễn Văn Thọ

Nhà văn Đỗ Chu

• Tên khai sinh: Chu Bá Bình

• Sinh năm 1944

• Quê quán: xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

• Học trung học tại trường cấp 3 Hàn Thuyên tỉnh Bắc Ninh, nhập ngũ tháng 7 năm 1963, 12 năm phục vụ tại Cục Chính trị Quân chủng phòng không – không quân. Chuyển về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam năm 1975.

• Các tác phẩm chính: Hương cỏ mật (tập truyện ngắn, 1963); Phù sa (tập truyện ngắn, 1966); Tháng Hai (tập truyện ngắn, 1969); Trung du (truyện ngắn, 1967); Gió qua thung lũng (truyện ngắn, 1971); Vòm trời quen thuộc (truyện ngắn, 1969); Đám cháy trước mặt (truyện ngắn, 1970); Những chân trời của các anh (tùy bút, 1990); Mảnh vườn xưa hoang vắng (truyện ngắn, 1989); Một loài chim trên sóng (truyện ngắn, 2001); Đỗ Chu truyện ngắn tuyển tập (2003); Tản mạn trước đèn (2004).

• Giải thưởng: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 1963; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2002; Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, đợt I năm 2001. Giải thưởng ASEAN năm 2004; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005.