Mười năm xa, nhớ bạn!
Mùa hè 2002, thời gian cuối cùng tôi bên Bế Kiến Quốc. Không phải ở tòa soạn Văn Nghệ, cũng không phải những đêm trắng rong chơi đường phố Tết cùng Thành Chương. Gần một tháng, đó là những ngày cuối cùng bên Quốc ở bệnh viện Việt Xô.
Anh bị ung thư phổi, bệnh đã nhiễm vào gan. Nhưng Bế Kiến Quốc không biết điều đó, chỉ biết bị đau phổi. Thi thoảng vắng Mai, thèm thuốc quá, anh xin tôi một hơi thuốc và cười: Bác sĩ đồng ý, khi nào thèm quá, có thể hút một điếu.
Tôi quen rồi thân với Bế Kiến Quốc từ 1984. Bấy giờ anh trực văn xuôi dưới quyền anh Ngô Ngọc Bội. Tôi viết truyện ngắn đầu tay, muốn thử sức mình, liền đe tới báo Văn Nghệ. Vài ngày sau, tôi nhận được cú điện thoại, mời tới tòa soạn. Quốc đón tôi ở phòng khách, với cái bắt tay chặt, bàn tay dâm dấp mồ hôi, đôi mắt ân cần và cười rất tươi. Chúng tôi chuyện gần hai tiếng. Anh nhận xét truyện ngắn và hỏi tôi kỹ về giai đoạn tham gia cuộc chiến, ở hiện tại, cả việc vì sao tôi viết. Sự cởi mở ban đầu làm tôi rất vui. Hai tuần sau, thật bất ngờ, anh hẹn: “Tối thứ năm, tới nhà in Nhân Dân xem cái truyện của ông ra đời thế nào.” Quốc đưa tôi vào phòng có tiếng máy ầm ầm, có băng chuyền lướt nhanh, ùn ùn trang báo chạy. Một công nhân tay lấm lem đen sì, đưa tôi trang báo còn thơm mực. Tôi đón lấy, nhìn truyện ngắn đầu tay và bật khóc! Quốc đứng bên cạnh, cười tươi, như chính anh hạnh phúc. Anh đặt bàn tay lên vai tôi, tay kia nắm lấy một bàn tay tôi lắc lắc.
Một con người nổi tiếng từ khi còn là sinh viên với bài thơ Những dòng sông, lại cả đời làm báo, quan tâm tới bạn mới viết, từ chi tiết tâm lý tinh tế vậy và vài điều tương tự sau này khích lệ tôi rất nhiều. Quan trọng hơn, Quốc luôn đòi hỏi bạn mình lao động nghệ thuật phải hết sức nghiêm túc, tìm tới cái đích cao hơn cái đã có. Ngày tôi viết Muối mặn, sau chuyến đi đồng muối với anh và các nhà báo như Nguyễn Hoàng Sơn, Xuân Ba, Hoàng Linh và Bùi Đức Khiêm. Đọc xong bản thảo, anh đập xuống bàn và nói: Nhà văn phải dựng lại hiện thực, cố gắng giản dị sự kiện và nhân vật. Truyện này ông viết giả! Tôi ức lắm, về nhà đọc lại và tìm ra tại sao Quốc lại chê là giả. Tin bạn, tôi mạnh dạn hủy bản thảo ấy, đánh vật một tháng sống với niềm đau xót của diêm dân, cấu trúc lại và Muối mặn được chọn in đúng Đại hội Đảng. Muối mặn có tiếng vang thời ấy, không chỉ bởi tính thân phận, mà nó còn đả phá căn bệnh thành tích trong công tác Đảng. Lưu Quang Vũ chuyển thành kịch chèo Muối mặn đời em, giật giải Nhất liên hoan sân khấu năm ấy. Sau chuyện này, một tối bên nhau, Quốc nói: Kinh thánh viết, chúng ta là muối của đất. Thọ có mối đồng cảm sâu sắc với người lao khổ. Ông cũng là muối của đất. Mình gọi ông là Thọ Muối, để phân biệt với ba nhà văn khác cũng tên là Thọ. Từ đó tôi có biệt danh trong làng văn là Thọ Muối.
Tôi vẫn giữ trong lòng sự biết ơn anh và nhà văn Ngô Ngọc Bội, ở năm tháng đầu chập chững ấy đã bồi dưỡng những kiến thức cơ bản của nghề viết nhọc nhằn và tinh tế. Anh ứng xử trường hợp tôi cũng y như anh ứng xử với Nguyễn Huy Thiệp, Phùng Gia Lộc, Nguyễn Việt Chiến v.v..., hay với cả bạn thân Thành Chương, hoặc thế hệ trẻ sau này như Di Li. Với Nguyễn Huy Thiệp, anh là người đầu tiên phát hiện ra tố chất đặc biệt ở văn tài này. Năm 1985, tôi đã in ba truyện ngắn, Quốc gọi, muốn tôi quen với anh Thiệp. Tôi đến. Quốc chỉ một người, tới xin tài liệu về làm sách cho Bộ Giáo dục, đi dép nhựa, ăn mặc tuềnh toàng, gầy gò, đen đủi, “mắt hổ” to, cái nhìn thẳng, trân trọng nói: hai ông quen nhau đi. Đây là Nguyễn Huy Thiệp. Trước đổi mới, Thiệp in truyện đầu tay Vết trượt không có tiếng vang lắm, tiếp sau đổi mới anh đi Những ngọn gió Hua Táp, đặc biệt đến Tướng về hưu thì trở thành hiện tượng chấn động văn đàn. Ngay từ tết ấy, Quốc đã nói với tôi: Thiệp là một văn tài! Cái nhìn đó trước cả sự giật mình của Nguyễn Khải phát biểu sau khi đọc Tướng về hưu. Bởi khi đó trong tay Quốc đã có Tướng về hưu, Chảy đi sông ơi và dăm truyện ngắn mà Nguyễn Huy Thiệp đã viết trước đó khá lâu. Thực chất, Quốc chỉ là cán bộ trực văn xuôi dưới quyền Ngô Ngọc Bội, song tất cả các truyện của Nguyễn Huy Thiệp thời ấy in ở Văn Nghệ đều do tay Bế Kiến Quốc trực tiếp biên tập rồi thông qua Ngô Ngọc Bội. Khi biên tập Tướng về hưu, Quốc đã cắt đi một câu, đoạn mô phỏng rất cận cảnh vài bộ phận của hài nhi trong chậu cám cho lợn. Điều này khiến Nguyễn Huy Thiệp giận Quốc, tận tới năm 1996, khi tôi ở Đức về, Thiệp mới nói ra với tôi. Tôi bảo Thiệp, hai ông giận nhau làm tôi rất buồn. Song Thiệp không biết rằng, kể cả khi anh giận, Bế Kiến Quốc vẫn bảo vệ anh, phát biểu thẳng với Chủ tịch Hội: Chúng ta còn nợ Nguyễn Huy Thiệp một giải thưởng – Khi năm ấy Hội Nhà văn không trao giải thưởng hàng năm cho tập truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp.
Những ứng xử như thế, không chỉ rọi chiếu quá khứ, hàn gắn những hiểu lầm ở các nhà văn, mà nó còn có tác động tới sự sáng tạo của bạn nghệ thuật. Quốc chơi với Thành Chương rất thân. Thân tới độ Chương khi không tán thành Quốc điều gì, sẵn sàng mắng bạn rất gay gắt mà không lo Quốc giận. Nhưng sự đồng cảm về quan niệm thẩm mỹ ở Quốc với Chương cũng tạo nên những cú hích rất mạnh ở sự nghiệp sáng tạo hội họa của họa sĩ Thành Chương. Điều đó cũng diễn ra với thi sĩ Nguyễn Việt Chiến. Quốc luôn là người chia sẻ gần nhất với Chiến, ở một giai đoạn thơ, tạo cho Chiến các cú hích ngôn ngữ trong con người Tâm hồn thi sĩ thường trực Nguyễn Việt Chiến (chữ Thành Chương).
Đấy là con người Bế Kiến Quốc. Với văn chương phải công bằng, sòng phẳng và cũng ngang như một tình yêu! Tôi nhớ Tết cuối cùng với anh, khi bàn về phê bình, tôi nói, người làm phê bình khi rọi chiếu một tác phẩm nào đó, không chỉ là cái hay dở của tác phẩm ấy, mà phải đưa ra một khuynh hướng nghệ thuật mang chính Cái Tôi của tác giả. Đỗ Bạch Mai phản ứng tôi gay gắt. Tôi cứ đinh ninh Quốc về phía Mai, song sự thật trái lại, không nệ Mai là vợ, Quốc đã ủng hộ ý kiến tôi trong buổi tranh luận ấy.
Nói về đặc tính này, tôi phải nhắc lại việc in truyện ngắn Vườn Maria của tôi năm 1996. Số Tết năm ấy Quốc làm thư ký đã gần hoàn tất. Vườn Maria đưa muộn nên anh chưa kịp đọc. Truyện để trên bàn Quốc ở cái phòng nhỏ xíu. Bạn thân anh, nhà thơ Ngô Thế Oanh cầm lên đọc khen hay. Quốc đọc kế ngay và vui lắm. Quyết định đi số Tết. Song lẽ Vườn Maria khá dài, hơn 4500 từ, báo lại chật đất rồi. Tiếc cái truyện hay của bạn, anh bảo tự tay tôi phải cắt đi 500 từ. Tôi không chịu. Thời gian lại cận, anh cáu bảo: Ông đừng nghĩ một truyện in ở báo Tết làm nên một thương hiệu. Tôi nóng tính, cho là Quốc xúc phạm, bèn to tiếng: Tôi đ. chơi với ông nữa! Thành Chương lập tức dẫn tôi về nhà anh cho tôi hạ hỏa. Khi ấy đã 1 giờ đêm, Chương khuyên: “Ông nên quay lại báo. Quốc nó yêu ông đấy. Ông giận, nói vậy, nó buồn lắm. Không bỏ nhau được đâu!” Tôi quay lại báo. Trong cái phòng nhỏ, Quốc ngồi chìm lặng trong mù mịt khói thuốc, khuôn mặt buồn rười rượi. Cái gạt tàn ú hụ tàn thuốc. Tôi ân hận quá! Nhao lại bạn và chúng tôi ôm siết chặt nhau, đi qua nỗi sợ, chút xíu mất đi một người bạn tốt đều vì công việc chung cho tờ báo mà cả ba chúng tôi yêu mến. Ngoài cửa sổ đêm đông áp Tết năm ấy, Hà Nội cứ mưa lụt xụt và Chương tủm tỉm cười...
Quốc cũng không bảo thủ, không tự huyễn hoặc cái danh hão của một thi sĩ có giải thưởng từ rất sớm hay người có trọng trách ở tờ báo văn lớn nhất nước. Chơi với Thành Chương, Chiến và tôi, Bế Kiến Quốc rất chịu khó lắng nghe khi tụi tôi bàn về những bài thơ anh vừa viết. Đặc biệt anh quý tài Thành Chương nhặt sạn rất tinh và sửa chữa ngay khi bạn nhặt sạn trúng. Một lần đi Hòa Bình về, anh khoe viết bài tùy bút về Thủy điện Hòa Bình. Tôi đề nghị cho tôi biên tập lại. Anh đồng ý. Tôi không sửa một từ nào, vì ngôn ngữ ở bài ấy kỹ, chỉ thay đổi cách chấm phẩy, cố ý tạo ra tốc độ khác nhau ở từng đoạn, đòi hỏi cách chạy câu khác nhau, nhằm tạo ra không khí sôi động cần thiết từng cảnh chuyện. Quốc xem, đồng ý ngay. Anh không hề tự ái, lấy nê với bạn, dù khi đó Quốc đã ngồi ghế biên tập văn xuôi cả chục năm.
Quốc chính là người đôn đáo nhất khi tôi sau mười năm bỏ bút, quay lại với văn chương. Anh chọn từng bài thơ, biên tập in ba tập thơ. Anh thẩm kỹ từng truyện ngắn mới nhất. Ngày anh nằm trên giường bệnh, mệt mỏi thở, vẫn đọc hết chùm bảy truyện ngắn tôi dự thi bên Văn Nghệ Quân Đội và dặn: Lần này Thọ nhất định có giải cao! Ông đã chuyển động sau thời gian nghỉ dài. Ông đang sung lực, phải viết nữa! Nhưng nhớ, nhận giải bên quân đội xong, phải tránh xa các nhà báo, thì ông sẽ viết ào ạt và hay nữa. Sau này, anh Đỗ Chu cũng ân tình dặn như vậy, khi tôi đoạt giải Nhì tiểu thuyết Quyên. Đấy là cách các nhà văn đừng mân mê thành tích để viết nữa! Từ viện Việt – Xô ra thẳng sân bay đi Đức, tôi ôm Quốc. Nước mắt ứa ra! Đấy là vòng ôm lần cuối cùng của hai đứa.
Không phải chỉ có tôi được ứng xử như vậy. Với bạn văn như Đặng Ái, sau khi tốt nghiệp Nguyễn Du, chưa xin được việc để kiếm sống, Quốc đôn đáo khắp nơi, tìm cho Ái một ghế ở báo Nội Thương, để sinh nhai. Trường hợp nhà văn Phùng Gia Lộc đặc biệt hơn. Biên tập và đi trên Văn Nghệ bút ký: Cái đêm hôm ấy đêm gì, chấn động lương tâm xã hội, Bế Kiến Quốc còn hết lòng cưu mang Lộc sau đó. Nhà cửa chật, hơn chục mét vuông với bốn mạng người. Tài chính eo hẹp, Mai sinh cháu thứ hai, vợ chồng anh vẫn đỡ bữa Phùng Gia Lộc, lại vận động chúng tôi ủng hộ Lộc qua hạn họa bấy giờ. Kể cả 1992, khi anh Lộc qua đời, gia cảnh khó khăn, Quốc lại là trung tâm lá lành đùm lá rách.
Những ân tình của con người Bế Kiến Quốc được anh lý giải giản đơn: “Thọ ạ, văn chương là con đường khổ nhọc. Mình xưa được các anh như Xuân Diệu, Huy Cận giúp đỡ rất nhiều. Nên mình cũng phải quan tâm tới các bạn viết!”
Con người Bế Kiến Quốc ở sinh hoạt đôi khi tuềnh toàng, có thể do hệ lụy của cả quá trình khó khăn bao cấp, mọi thứ tạm bợ. Song với nghệ thuật ngôn ngữ thì Quốc rất khó tính, riết róng. Có thể chính vì thế mà ở thơ Quốc, nhất là ở tập thơ Cuối rễ đầu cành, không chỉ có sự tài hoa ở chữ nghĩa, giỏi giang nắm vững mẹo luật, ăm ắp tính nhạc điệu, mà còn có cái sâu thẳm về văn hóa ở thi pháp, ít ai yêu nghề, say nghề, nghiêm túc với nghề có được.
Bế Kiến Quốc là con người trong sáng, sống rất có lý tưởng, mặc dù qua nhiều phong ba, anh vẫn luôn hy vọng về cái thiện, về cái tử tế của cuộc đời. Sự công bằng thẳng thắn của anh không từ ai cả, kể cả với lãnh đạo, với bạn thân. Có phải chăng vì thế với ba bốn đời Tổng biên tập báo Văn Nghệ, anh luôn được chọn là người của công việc, song không ai cất nhắc một vị trí xứng với khả năng của anh!? Hai mươi năm làm công tác ở báo Văn Nghệ, rồi sang làm Tổng biên tập Người Hà Nội, anh để lại biết bao ân tình cho bạn văn. Tôi xin mượn lời thi sĩ Hữu Thỉnh, một thời trực tiếp là thủ trưởng của anh: Bế Kiến Quốc là một con người trung thực, nhất quán, đòi hỏi rất cao ở mình và bạn bè, đồng nghiệp (trích Nguyễn Việt Chiến).
Mười năm tôi bên Đức, xa anh, cộng với mười năm Quốc đã đi xa... mà tôi chưa khi nào quên người bạn văn luôn hướng cả đời, lẫn thơ về những vùng sáng của cuộc đời.
Thi thoảng lên thăm mộ cha tôi ở Thanh Tước, tôi vẫn ghé bên anh và đốt một điếu thuốc đặt bên di ảnh người bạn thi sĩ có lọn tóc trắng xóa như những vần thơ bay theo tôi suốt cả những tháng năm ly hương, như mây trắng ở thi đàn Việt Nam, bắt đầu: Từ nguồn nào, sông cũng nặng phù sa.
Nguyễn Văn Thọ
Nhà văn Bế Kiến Quốc
• Tên khai sinh: Bế Kiến Quốc
• Ngày sinh 19-5-1949 (ngày mất: 25-6-2002)
• Quê quán: Hà Nội
• Đời hoạt động: Tốt nghiệp đại học về làm cán bộ văn hóa – thông tin tại tỉnh Hà Tây (cũ); biên tập viên Tuần báo Văn Nghệ; học khóa bồi dưỡng tại Học viện Văn học M.Gorki (Liên Xô cũ); trưởng ban Ban Thơ, báo Văn Nghệ; Tổng biên tập báo Người Hà Nội.
• Các tác phẩm chính: Những dòng sông (1979, thơ, in chung); Chú ngựa mã sao (1971, truyện thơ thiếu nhi); Dòng suối thần kỳ (1984, truyện thơ thiếu nhi); Cuối rễ đầu cành (1994, thơ); Mãi mãi ngày đầu tiên (2002, thơ); Đất hứa (2003, thơ).
• Các giải thưởng: giải nhì cuộc thi thơ Tuần báo Văn Nghệ năm 1969; giải thưởng cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi năm 1979 và năm 1985; giải thưởng cuộc thi viết về tài trí Việt Nam của tạp chí Thế giới mới, 1995-1996; giải thưởng các cuộc thi ký của báo Sài Gòn Giải phóng, năm 1985, của Đài Tiếng nói Việt Nam, năm 1986; Giải A giải thưởng ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật, năm 2002.