← Quay lại trang sách

“Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều

Thơ Nguyễn Quang Thiều, và cả con người anh nữa, có cái gì vừa bí ẩn, vừa cuốn hút. Và lúc này thì tôi đang ngồi trong một căn phòng tĩnh lặng đối diện với anh. Không biểu lộ vẻ gì là một con người hiện đại, thậm chí trông anh còn có phần cũ kỹ, cổ xưa. Vậy mà, con người ấy đã viết nên những bài thơ hết sức mới mẻ, lạ lẫm khiến cho biết bao người phải trăn trở.

Tuyển thơ lần thứ nhất của Nguyễn Quang Thiều mang tên Châu thổ tập hợp 144 bài thơ do anh sáng tác trong gần ba mươi năm. Có thể nói tập thơ này đã chứa đựng hầu hết những thành tựu thơ của anh cho đến nay. Đọc từ những bài đầu tiên được viết trước khi Nguyễn Quang Thiều đi học ở Cuba và chưa ảnh hưởng chút gì văn hóa Mỹ La tinh, ta đã thấy nó có yếu tố mới mẻ, và nhất quán với cả một rừng thơ anh viết sau này. Vẫn cái tâm thức hướng thượng, vẫn chất giản dị không một chút màu mè, vẫn sự quyến rũ từ một nội lực cảm xúc chân thành. Càng về sau thơ anh càng trở nên rậm rạp, phong phú và nhiều bí ẩn. Nhưng trong mỗi câu từ, trong mỗi hình ảnh đều mách bảo ta, nguồn gốc thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là sự du nhập từ cõi xa lạ nào. Thơ anh sinh ra từ những dòng nham thạch nóng bỏng, ngổn ngang, hỗn độn của tâm linh. Nó phá bỏ cái khuôn thức thường thấy và mang một tiềm thức khác.

Anh chiêm nghiệm: “Tôi cho rằng quá trình sáng tạo trong thơ là quá trình phục hồi ký ức, phục hồi những phần sống từ những kiếp trước của chúng ta. Khi viết tôi chỉ dựa vào trực giác bên trong của mình.” Biết ngoài việc làm thơ, anh còn là một nhà báo danh tiếng, tôi hỏi Nguyễn Quang Thiều: “Khi làm báo, anh có thể bắt người đọc phải quan tâm đến tờ báo, với lối viết cuốn hút. Sao trong thơ anh lại chọn một lối thơ khó đọc và khó hiểu?” Nguyễn Quang Thiều nói tiếp: “Tôi muốn thơ là nơi mình được biểu lộ chính mình. Nơi ấy tôi được thả lòng mình, giống như một buổi chiều không có việc gì làm, tôi đã đi ra cánh đồng, đi mãi từ cánh đồng này sang cánh đồng khác và khi quay lại lạc mất lối về...”.

Trước sau anh vẫn chỉ muốn là một người nhà quê.

Nguyễn Quang Thiều gắn bó với quê hương một cách kỳ lạ. Anh sinh ra ở xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, Hà Tây, nơi gắn liền với dòng sông Đáy, với làng quê buồn nghèo và hồn hậu, nơi chứa đầy những huyền thoại, những nghi lễ, những tù túng và huyễn hoặc. Anh hay nhắc đến ký ức về bà nội bị liệt phải nằm bất động trong một góc nhà. Bà nằm đó, mà kể cho anh nghe những câu chuyện tưởng tượng, những ký ức huyền hoặc nhuốm màu ma quái... Và chính những điều đó, đã gieo vào tuổi thơ anh những cảm thức khác lạ. Trở thành một hành trang trong tư duy sáng tạo sau này.

Chưa đến hai mươi tuổi, rời quê, Nguyễn Quang Thiều ra Hà Nội, học ở một trường văn hóa và ngoại ngữ của ngành công an. Rồi đi làm. Hàng đêm anh ngồi đọc thơ. Tình yêu thơ kỳ lạ đã thôi thúc anh đọc đến thuộc làu thơ của hàng trăm nhà thơ. Và anh bắt đầu làm thơ như một sự đòi hỏi của vô thức, của bản năng. Đó là những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Ngày ấy anh đâu dám nghĩ mình sẽ trở thành một nhà thơ... Nhưng rồi những bài thơ ra đời ngày một nhiều, anh tập hợp lại thành tập thơ Ngôi nhà tuổi 17. Đó là những cảm xúc đẹp đẽ, trong sáng buổi ban đầu, nhưng sau khi tập thơ ra đời, Nguyễn Quang Thiều nhanh chóng nhận ra, hình như trong giọng thơ của mình có lẫn với giọng một ai đó. Anh không bằng lòng với mình.

Tập thơ thứ hai Sự mất ngủ của lửa ra đời sau đó không lâu... Với tập thơ này Nguyễn Quang Thiều đã lần đầu tiên mang đến một thứ thơ khác, một thứ thơ khởi phát từ nội lực mạnh mẽ chất chứa những trầm tích bí mật, những huyền thoại bị vùi lấp, những gấp khúc của tư duy và sự hoang thẳm của những cơn mơ... Tựa như một cảnh giới kỳ dị, vừa ảo huyền, sương khói, vừa mộng mị lại vừa trần trụi, bộn bừa, không màu mè; vừa đơn sơ, vừa quen thuộc lại vừa ẩn chứa vẻ xa lạ...

Nguyễn Quang Thiều bảo, thật oan cho anh nếu nghĩ rằng anh cố tình du nhập vào trong nước một lối thơ nào đó ở nước ngoài. Không phải vậy đâu. Hồi viết Sự mất ngủ của lửa anh viết gần như bằng bản năng. Và đó là những dòng thơ tuôn chảy từ trong tâm hồn, từ cội nguồn của tâm tư, từ mạch ngầm của ký ức bao đời dồn tụ lại. Dù có năm năm học ở Cuba, nhưng Nguyễn Quang Thiều kể, anh chỉ được học tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh và những tác phẩm kinh điển của thế giới. Lúc ấy anh không hiểu nhiều văn học hiện đại của Mỹ La tinh và cũng chưa có một ý thức đầy đủ về sứ mệnh đổi mới trong thơ hiện đại. Với anh, làm thơ lúc ấy thật hồn nhiên và nó như một nhu cầu tự thân nhằm giải thoát mình.

Và như một định mệnh, Nguyễn Quang Thiều đã dấn thân vào con đường lẻ loi của thơ ca hồi bấy giờ. Sau giải thưởng của Hội Nhà văn, anh gặp không ít sự đắng đót. Những năm 1994-1995 đã bùng lên một cuộc tranh luận về thơ kéo dài và dữ dội.

Sau khi học ở Cu Ba từ 1984-1989, anh về nước và công tác ở Bộ Công an. Vì những lần tham gia phiên dịch cho Hội Nhà văn, anh được các nhà văn lãnh đạo Hội để ý. Đầu những năm 1990 anh được nhà văn Hữu Mai sang xin về công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Lẽ ra anh được bố trí làm ở bộ phận đối ngoại, nhưng anh lại thích làm báo. Đó cũng là lý do anh gắn bó với báo Văn Nghệ một thời gian dài trước khi chuyển sang công tác ở Vietnamnet.

Sự nghiệp báo chí của Nguyễn Quang Thiều còn được đánh dấu bởi việc đã giúp nhà văn Hữu Ước sáng lập ra tờ An Ninh Thế Giới cuối tháng vào giữa thập niên chín mươi thế kỷ trước. Tờ báo ấy trong khoảng mười năm liền luôn giữ một lượng ấn bản trong top đầu các báo lớn trong nước. Và mấy năm gần đây, anh cũng là người tham gia sáng lập và thực hiện tờ Cảnh Sát Toàn Cầu được đông đảo bạn đọc quan tâm. Không dừng lại ở đó, anh tham gia sáng lập tờ Nghệ Thuật Mới, một tờ báo ngay từ buổi đầu đã có lượng ấn bản ấn tượng hơn bất kỳ một tờ báo văn học nào khác.

Là người viết nhiều thể loại, những năm qua trên báo chí, đã xuất hiện khoảng trên ba trăm bài ký, phóng sự, nghị luận, tản văn của Nguyễn Quang Thiều. Anh cũng viết nhiều kịch bản phim, vẽ tranh và tiểu thuyết, truyện ngắn... Hiện anh đã xuất bản mười tập thơ, mười sáu tập văn xuôi, ba tập sách dịch.

Ngoài thơ, có lẽ ở thể loại truyện ngắn anh gây được nhiều ấn tượng hơn cả. Truyện ngắn của anh hấp dẫn bởi chất thơ, bởi những chi tiết độc đáo và cả sắc màu kỳ ảo, chiều sâu nhân văn và triết lý. Anh thường tạo được những chi tiết đắt đầy bất ngờ cuối mỗi truyện, gây được ấn tượng sau mỗi cái kết. Với một người chuyên viết văn xuôi, nếu vươn đến tầm truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều chắc hẳn đã là một sự nghiệp vinh quang. Dù vậy, khi nói về truyện ngắn của mình anh vẫn chỉ nhận mình là “người kể chuyện” với những câu chuyện có cốt truyện mạch lạc, đề cập những vấn đề rất thực của đời sống con người, chứ không hẳn là người sáng tạo trong hình thức kể chuyện.

Tất cả bùng nổ của Nguyễn Quang Thiều là ở thơ của anh.

Đó là phần tinh túy nhất, thành công nhất, lạ lùng nhất ở con người sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều.

Cảm giác như thơ Nguyễn Quang Thiều là một thứ hóa chất, ngay lập tức khi tiếp xúc với nó, người đọc đã phải trăn trở, vật vã với những ngẫm suy miên man không dứt. Vậy nên, thậm chí người đọc không cần hiểu hết điều Nguyễn Quang Thiều nói trong thơ mà hiệu quả của những bài thơ ấy vẫn có. Nguyễn Quang Thiều chủ trương một lối thơ mà với mỗi người đọc, tùy theo cảm nhận và trình độ, sẽ hình thành trong họ “một văn bản khác”. Anh bảo, đấy mới là đích đến của anh.

Một nhà thơ phương Tây đã nói đại ý rằng Nguyễn Quang Thiều là một nhà thơ đích thực “vì không ai biết trước trong mỗi bài thơ anh sẽ đưa người đọc đến đâu và điều gì sẽ diễn ra ngay tức thì.” Có vẻ như mỗi chữ với Nguyễn Quang Thiều đều hàm chứa một bí mật. Cả bài thơ là một thế giới với những cánh cửa bí ẩn đóng kín không biết đâu mà dò. Đặc điểm này nảy sinh từ việc các ý tưởng rất khác nhau, biên độ của tưởng tượng được mở rất rộng giữa những câu thơ đặt cạnh nhau. Và vì thế, để đi từ câu thơ này sang câu thơ khác, người đọc phải dò dẫm qua những khoảng mờ, những khúc gãy.

Nguyễn Quang Thiều như được sinh ra để ngập chìm trong dòng chảy cuộn xiết gập ghềnh của dòng thơ hiện đại. Sau sự bừng lóe của tài năng bẩm sinh là hành trình tìm kiếm không ngừng và khổ cực. Tôi hiểu, Nguyễn Quang Thiều là người cô đơn. Cái thế giới tâm hồn anh, cái thế giới thơ anh không dễ bước vào. Vậy nên, anh vẫn thường lắng tai nghe một tiếng nói chân thành, mở hồn đón đợi những tiếng vọng của yêu thương, đồng điệu.

“Tôi có một cảm giác rất lạ... Đó là sự gắn bó với những ngôi mộ của những người thân đã mất. Năm nào tôi cũng về quê và đưa những đứa con tôi đi thăm mộ ông bà...” Nguyễn Quang Thiều có cảm nhận rất rõ mối tương liên giữa người sống với người đã chết, sự gắn kết huyền bí của tâm linh giữa thế hệ này với thế hệ khác. Anh cũng cảm nhận rõ sự đồng điệu sâu xa của con người với linh hồn của đồng quê, xứ sở.

Xuất phát từ cội nguồn, từ những tín ngưỡng, từ phong tục, từ những hỗn mang văn hóa Nguyễn Quang Thiều đã gặp được sự đồng điệu ở những chân trời xa. Thơ và truyện của anh đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được giới thiệu ở Mỹ, Úc, Pháp, Nhật Bản, Venezuela, Colombia, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia... Nhiều nhà văn danh tiếng đã đánh giá cao tài năng độc đáo của Nguyễn Quang Thiều.

Dù bận nhiều, nhưng Nguyễn Quang Thiều vẫn tiếp tục viết và viết rất sung sức. Anh bảo anh có tập thơ văn xuôi mang tên Ghi chép về một thành phố đã mất tái hiện những ký ức về quê hương trải qua những thăng biến hiểm nghèo trong những tháng năm qua. Anh cũng đang hoàn thiện trường ca Lò mổ gửi gắm nhiều ngẫm suy về nhân sinh và nghịch lý của kiếp người.

Sự nghiệp của Nguyễn Quang Thiều tựa như một cột mốc. Sự xuất hiện của anh trên thi đàn đã đánh dấu một dòng chảy mới của thơ hiện đại ngày một lan rộng và kéo dài. Bên cạnh lối thơ truyền thống, dòng chảy mới này làm cho thơ Việt thêm phong phú và sinh động hơn, sâu sắc hơn, nhưng cũng huyền bí, khó tiếp cận hơn.

Thiên Sơn

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều

• Tên khai sinh: Nguyễn Quang Thiều

• Ngày sinh: 13-3-1957

• Quê quán: Sơn Công, Ứng Hòa, Hà Nội

• Hoạt động: Học đại học tại Cuba; về nước phục vụ trong ngành Công an; nguyên trưởng ban Ban Thơ báo Văn Nghệ; ủy viên Ban chấp hành, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa VIII.

• Các tác phẩm chính:

Thơ: Ngôi nhà tuổi 17 (1990), Sự mất ngủ của lửa (1992), Những người đàn bà gánh nước sông (1995), Những người lính của làng (1996), Thơ Nguyễn Quang Thiều (1996), Nhịp điệu châu thổ mới (1997), Bài ca những con chim đêm (1999), Thơ tuyển cho thiếu nhi (2004), Cây ánh sáng (2009), Châu thổ (2010).

Văn xuôi: Mùa hoa cải bên sông (1989), Cái chết của bầy mối (1991), Thành phố chỉ sống 60 ngày (1991), Vòng nguyệt quế cô đơn (1991), Người đàn bà tóc trắng (1993), Tiếng gọi tình yêu (1993), Kẻ ám sát cánh đồng (1995), Đứa con hai dòng họ (1996), Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều (1998), Người cha (truyện thiếu nhi, 1998), Bí mật hồ cá thần (truyện thiếu nhi, 1998), Con quỷ gỗ (truyện thiếu nhi, 2000), Ngọn núi bà già mù (truyện thiếu nhi, 2001), Người nhìn thấy mặt trăng thật (2003), Người (chân dung văn học, 2008), Ba người (chân dung văn học - in chung, 2009), Có một kẻ rời bỏ thành phố (tiểu luận, 2010).

Dịch: Chó hoang Đingô (1995), Khoảng thời gian không ngủ (1997), Năm nhà thơ hiện đại Hàn Quốc (2002).

• Các giải thưởng: Giải thưởng thơ Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 1983-1984; giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 1989-1990; giải thưởng truyện ngắn hay Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh năm 1991; giải thưởng thơ báo Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh năm 1993; giải thưởng bút ký tuần báo Văn Nghệ năm 1991; giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 1993-1994; giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993; giải thưởng thơ Liên đoàn Thanh niên Sinh viên Đại học Tổng Hợp La Havana năm 1986; giải thưởng nhà xuất bản Kim Đồng 2001-2002.