Kẻ mang gương mặt đời Đường
Tháng bảy năm nay mưa nhiều. Một chiều ngồi uống cà phê nhìn phố xá ngập nước trong mưa lại nhớ đến nhà văn Hòa Vang. Nhớ bởi truyện ngắn Sự tích ngày đẹp trời của ông. Nhớ và quả thực lúc đó chỉ muốn ông hiện ra, ngồi xuống cà phê cho đến lúc tưởng mình chìm mãi vào cơn mưa...
Có một ngày, hình như đang đi rất thong thả, tôi chợt thấy một gương mặt chầm chậm lướt qua. Mà hình như không phải lúc đang đi. Có lẽ lúc nâng chén rượu ngang mày. Mà hình như cũng không phải thế mà là lúc chợt nghe một giọng cười. Nhưng có lẽ là tất cả những khoảnh khắc như thế. Vẫn gương mặt ấy. Gương Mặt Đời Đường.
Tôi đã thốt lên như vậy.
Người mang gương mặt ấy là nhà văn Hòa Vang. Sẽ có không ít người tranh luận với tôi về cái tên gọi ấy. Gọi thế thì sang cho ông quá. Nhưng ông là một kẻ rất biết thế nào là cái sang và có không ít cái sang. Gọi thế thì ngang tàng quá. Ông vốn là một kẻ ngang tàng. Gọi thế thì phong trần quá. Ông là một kẻ phong trần. Gọi thế thì sầu vạn nỗi. Ông là kẻ sầu nhiều nỗi. Một mái tóc màu bàng bạc, những chòm râu bàng bạc. Bàng bạc chứ không phải bạc. Râu tóc ấy ánh lên màu sáng của chì. Vừa bay và vừa nặng. Tôi không rõ ông đã bao nhiêu tuổi. Có lẽ gần sáu mươi thì phải. Nhưng khi ông mang gương mặt ấy thì bốn mươi, sáu mươi hay bảy mươi cũng chỉ là một.
Tôi biết ông đã lâu lắm rồi. Lâu như đọc một cuốn sách Tàu thời niên thiếu thấy một gương mặt như thế. Tôi biết ông nhưng ít gần ông. Ông thế nào một cách rành mạch nhiều khi tôi không dám xác nhận. Tên ông bắt đầu vang lên trong đầu tôi khi tôi đọc truyện ngắn Sự tích ngày đẹp trời. Truyện ngắn ấy được giải thưởng báo Văn Nghệ có lẽ đã mười năm có lẻ. Ngày ấy, đọc xong truyện ngắn đó, tôi muốn được nhìn mặt ông. Một câu chuyện viết về sự thất bại của cả hai người anh hùng trong tình yêu: Sơn Tinh và Thủy Tinh. Đến bây giờ tôi vẫn nghĩ về câu chuyện ấy như thế. Mà tôi ngẫm thấy cuộc đời là như thế. Tình yêu mãi mãi là một bí ẩn. Ông đã viết tác phẩm đó với một ngôn ngữ quyến rũ lạ thường: buồn và lộng lẫy. Ngày nay văn chương tung hoành ngang dọc, nhiều trò lắm chiêu nhưng lại ít thấy vẻ đẹp và buồn thăm thẳm ấy.
Tôi muốn nhìn mặt ông không phải để xem cái người sinh ra triết lý: Tình yêu không bao giờ là tài sản của bạo lực và mưu mô mà là để ngắm nhìn gương mặt của người đã viết ra những câu văn đẹp. Rồi tôi gặp ông và ông làm tôi bối rối. Sau này tôi mới hiểu cái đẹp sinh ra từ một tâm hồn đẹp chứ không phải từ một khuôn mặt đẹp. Nói vậy không có nghĩa là ông xấu giai mà ngược lại. Nhưng gương mặt ông mãi mãi là gương mặt bất ổn. Sau này Hòa Vang viết Nhân Sứ và hàng chục cái khác sâu sắc hơn, lạnh lùng hơn, nghiệt ngã hơn nhưng lộng lẫy thì không hơn được Sự tích ngày đẹp trời. Nhận xét này có lẽ hơi cảm tính chăng? Nhưng tôi đang viết những dòng này không phải để lý giải hay phân tích tác phẩm. Tôi đang viết mơ hồ về một người cũng rất mơ hồ. Mơ hồ ở đây không phải là sự không hiểu biết về người mình đang viết. Tôi muốn nghĩ về ông như nghĩ về bao thân phận tôi thấy thấp thoáng đâu đó trên cõi thế này mà cụ thể ở cái thành phố thủ đô này. Có những người, có những cái chỉ thấp thoáng đâu đó mà lại ám ảnh ta, lại làm ta phải suy ngẫm không phải về phía tốt, phía chưa tốt mà là nghĩ về sự hiện diện của một cuộc đời. Bởi nhiều lúc, chính tôi cũng thấy tôi thấp thoáng đâu đó rồi lại biến mất mà lục tìm mãi cũng không thấy chính mình. Cuộc đời nhiều lúc thật kỳ lạ. Một cái thìa uống cafe bằng nhôm hơi xỉn màu nằm đâu đó trên mặt bàn loang lổ bóng tối trong một quán cafe cũ Hà Nội vào một chiều mùa đông mưa phùn xa xưa lại hiện lên lấp lánh và đẹp và thân thuộc lạ kỳ đến mức bây giờ ngồi uống cafe với cốc thìa sang trọng vẫn thấy cafe thiếu một cái gì đó thật quan trọng.
Cách đây dễ đến mươi năm, ông và nhà thơ người xứ Đoài Nguyễn Lương Ngọc đã làm một cuộc đi bộ dọc đất nước. Chính Hòa Vang nói với tôi làng Chùa quê tôi là lý do thôi thúc hai ông thực hiện chuyến đi ấy. Họ về làng Chùa và nghe câu chuyện về những người đã đứng lên chỉ đạo phá khu chùa cổ làng tôi. Một người sau này tuyệt tự. Ông ta nuôi mấy đứa con nuôi nhưng chúng cứ đến phá nát nhà ông rồi lại bỏ đi. Một người bị bệnh chửa bắp chân đau đớn cho đến khi chết. Ngày tiễn ông ở báo Văn Nghệ tôi cũng có mặt. Ông khoác ba lô chào tạm biệt mọi người ra đi. Chiếc ba lô to trùm kín lưng ông. Lưng ông còng xuống. Ông vốn là một người hơi thấp và hơi gù nên lúc đó nhìn ông còng hơn, như bị lún sâu trên đường giống như cái cọc bê tông bị đóng chìm dần xuống đất. Sau này gặp ông, tôi lại nhớ lại hình ảnh ngày ấy. Ông bước đi như một trong những kẻ nhẫn nại của thế gian. Hai người đi bộ thì bây giờ một người đã thiên thu. Hòa Vang vẫn còn đây. Tôi không hỏi ông nhưng tôi tin đôi lúc ông vẫn nằm mộng thấy mình đi bộ. Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ người như Hòa Vang sinh ra chỉ có thể đi bộ mà thôi. Hòa Vang đi xe máy thì trông thế nào nhỉ và ngồi ô tô Nhật thời nay thì hết sức đối nghịch. Có lẽ ông chỉ hợp với đi bộ hoặc cưỡi la. Hòa Vang mà cưỡi la với cái lưng hơi gù và râu tóc màu sáng của chì thì tuyệt đẹp. Nhất là từ khi tôi thấy ông mang một gương mặt cổ xưa. Cho dù ông là kẻ hào hoa, người Hà Nội chính gốc và sống với những tiện nghi của thời văn minh. Nhưng cổ xưa không phải là cái mà nhiều người hình dung. Tôi đã có một lần ngồi ăn trưa với ông trong một nhà hàng và tôi nhận thấy gương mặt Hòa Vang làm cho cả bữa tiệc ở nhà hàng đèn sáng tưng bừng với các cô tiếp viên mặc váy lưng đùi và tỏa mùi mỹ phẩm cao cấp cũng như bị lui về xa xưa. Tôi không bảo là tôi thích và cũng không bảo là tôi ghét gương mặt ấy mà là tôi bị ám ảnh về gương mặt mang cảm giác hoang hoang, bất ổn và đôi lúc xa xôi đến tận chân trời...
Quả thực khi viết những dòng này, tôi đã bấm máy gọi cho nhà văn Hòa Vang hai lần nhưng máy đang khóa. Ông tự khóa máy hay hết tiền quá lâu bị bưu điện khóa tôi cũng chẳng rõ. Tôi gọi để hỏi vài điều cho bài viết. Bởi tôi lại bị rơi vào cái mà tôi không muốn ngay từ đầu là viết về ông với sự mơ hồ của tôi và của chính ông. Nhưng cũng may là máy khóa. Bởi tôi không muốn viết rằng Hòa Vang đã từng chiến đấu ở chiến trường Nam bộ, từng làm việc ở Hãng phim truyện, từng đoạt nhiều giải thưởng văn chương vv... Và thế là tôi được viết về ông như viết về một kẻ hiện ra trong giấc mộng của mình. Những kẻ hiện ra trong giấc mộng lúc nào cũng ám ảnh đôi lúc đến hoảng hốt nhưng lại chẳng bao giờ cụ thể từng nét. Nhiều lúc đang viết, tôi mơ hồ đến phải tự hỏi: “Có một người là Hòa Vang như thế này thật không? Vì sao mi lại viết về một người mà có lúc mi nghĩ là không có thực, một người cứ như là mi tưởng tượng ra.” Vừa dứt câu hỏi thì Hòa Vang lại hiện ra quá rõ ràng với ngày tháng năm sinh, nghề nghiệp từng làm, nơi ở, ẩm thực, cá tính... Và ngay lúc đó tôi kêu lên: Thế mới là Hòa Vang. Hòa Vang là người mà khi tôi nghĩ ông mơ hồ thì ông vụt hiện thực có lúc đến khó chịu và khi tôi nghĩ ông hiện thực thì ông bỗng mơ hồ như không có.
Có lần tôi nói chuyện với một người bạn về Hòa Vang, ông bạn bảo: “Ông này hay gây sự lắm.” Hòa Vang ơi, ông có hay gây sự không? Hỏi thế thôi chứ tôi biết ông đã từng gây sự làm không ít người khó chịu. Bởi vì ông thẳng tính quá. Nhưng cho đến bây giờ thì tôi hiểu rằng: ông không hề gây sự với ai mà ông chỉ gây sự với chính ông mà thôi. Buồn tẻ quá thì ông gây sự phá sự buồn tẻ. Chung chung quá thì ông gây sự phá cái sự chung chung. Khách sáo quá thì ông gây sự phá cái khách sáo. Chật chội quá thì ông gây sự phá sự chật chội. Không công bằng thì ông gây sự đòi sự công bằng. Người yêu ông rất nhiều mà kẻ không thích ông cũng không ít. Chính thế mới đúng bản chất của đời sống này. Gây sự vậy thôi nhưng ông là một người đa cảm. Tôi có đọc một lá thư ông viết cho một người đã nói những điều ông thấy không đúng về ông thế mà giọng văn cứ thì thầm như viết cho tình nhân. Rồi còn mời người đó đến nhà chơi để đàm đạo cho thông tỏ những điều còn chưa thông tỏ giữa hai người. Tôi ít thấy những trường hợp như thế. Bởi quá nhiều người lỡ nói, lỡ viết đôi điều nào đó chưa thông tỏ về ai đó thì sẽ bị người đó lên báo, lên mạng chửi rủa cho chẳng còn đường sống.
Hòa Vang có cái thanh lịch của người Hà thành, có cái ngang tàng của kẻ sĩ Bắc Hà, có cái sâu sắc của kẻ thăng trầm. Nhưng có lẽ cái để lại ấn tượng cho tôi nhất chính là cái vang động kỳ lạ của văn trong Sự tích ngày đẹp trời, là một gương mặt của những kẻ sĩ đời Đường, là “Tiếu ngạo giang hồ”. Hòa Vang là một kẻ rong chơi nơi trần thế. Chỗ nào vui thì ghé, chỗ nào giận cũng qua, nghề gì cũng làm. Ông cứ đi, cứ thổn thức, cứ gây sự, cứ thở dài, cứ thanh lịch, cứ rắc rối, cứ khóc, cứ cười, cứ hiện thực, cứ mơ hồ... Ôi sống như vậy thì có một đồng trong túi cũng thấy giàu, có một ly nhỏ cũng thấy say, có một áo mỏng cũng thấy ấm, có một mình cũng thấy đông vui. Và cho đến lúc này, hình ảnh Hòa Vang hiện ra trong tôi vẫn là hình ảnh ông đang cưỡi một con la với cái lưng hơi gù đi qua thành Cửa Bắc.
Ông đi đâu thì tôi không biết.
Nguyễn Quang Thiều
Nhà văn Hòa Vang
• Tên khai sinh: Nguyễn Mạnh Hùng
• Ngày sinh: 03-11-1946 (ngày mất: 01-4-2006)
• Quê quán: Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội
• Đời hoạt động: Đi Thanh niên xung phong 1963-1968; sinh viên 1968-1971; bộ đội chiến trường Quảng Trị 1971-1974; làm giáo viên, 1974-1981; biên tập viên văn học, 1981-1990; nhà văn tự do, từ 1990.
• Các tác phẩm chính: Thầy Vũ (1982, truyện ký); Huyền thoại Rồng (1988, truyện); Tai quỷ (1993, tiểu thuyết); Sự tích những ngày đẹp trời (1996, tập truyện ngắn); Hiện tượng HVEYA (1988, tiểu thuyết).
• Các giải thưởng: Giải thưởng sáng tác Hà Nội năm 1971; giải thưởng cuộc thi viết về nhà trường, năm 1990; giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ năm 1991 và cuộc thi truyện ngắn tạp chí Thế Giới Mới năm 1993- 1994; tặng thưởng Văn học nghệ thuật của ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật năm 1996; tặng thưởng sáng tác hay của nhà xuất bản Hội Nhà văn, năm 1996.