← Quay lại trang sách

Viết vì nợ người, nợ nước

Gặp rồi quen, thành bạn vong niên với anh từ lúc nào tôi chẳng nhớ. Chiến tranh kết thúc, anh chọn Thừa Thiên Huế – miền đất một thời máu lửa – để trú ngụ, dấn thân hành nghiệp viết trả nợ đời. Tháng năm trôi qua, là một câu chuyện dài nhiều mất mát và có những nỗi buồn chát đắng. Vậy mà thấy anh vẫn giữ được nét sôi nổi, hồn hậu, yêu đời, vẻ an nhiên tự tại.

Cuối mùa thu 1959, Nguyễn Quang Hà có giấy báo đỗ đại học nhưng anh không được tựu trường. Lý do vì ông bà nội, ông bà ngoại anh đều thuộc thành phần địa chủ (dù ruộng đất thừa kế, không bóc lột và là địa chủ kháng chiến), còn ông thân sinh ra anh có một thời gian trước Cách mạng đi lính cho Pháp, hàm sĩ quan. Hồi tháng Tám 1945, ông đã vận động lôi kéo cả đội quân mình chỉ huy về theo cách mạng tham gia cướp chính quyền. Sau đó ông được cử làm Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang.

Tuy nhiên, mớ công lênh chiến tích của gia đình, của người cha sớm thức tỉnh cũng không xóa nổi những định kiến nặng nề buổi ấy. Thế là cậu Tú đành xếp bút nghiên xuống thuyền làm “chân sào” chở hàng thuê ngược xuôi nay đây mai đó khắp các dòng sông vùng châu thổ sông Hồng. Anh bảo đời mình tưởng rồi sẽ gắn mãi với nghề phu thuyền lênh đênh khắp nẻo. Nhưng rồi đến một ngày Nguyễn Quang Hà được bố gọi về, vì ông có một người bạn thân đang thời chức sắc nể tình nhận anh vào dạy học ở một huyện xa.

Nguyễn Quang Hà được giao làm giáo viên dạy cấp II mà chưa học qua chương trình sư phạm một ngày nào. Thời đó người tốt nghiệp cấp III như anh còn hiếm lắm. Nhưng Nguyễn Quang Hà cũng chỉ làm thầy dạy được ngót bảy khóa học. Đến đầu năm 1967 anh giã từ bục giảng, cùng 155 giáo viên và giáo sinh trường Sư Phạm tỉnh Hà Bắc lên đường nhập ngũ đi chiến đấu ở chiến trường Thừa Thiên Huế.

Trước khi làm “anh chân sào” cho một thuyền buôn; trước khi thành một anh giáo làng bất đắc dĩ, Nguyễn Quang Hà từng là một sinh viên văn khoa hụt, sẵn năng khiếu văn chương và một tâm hồn đa cảm. Vì thế mà ngay từ những ngày đầu cùng đồng đội chiến đấu trên đất Huế, trải qua những cam go gian khổ, đói khát ác liệt, chứng kiến cảnh đồng bào vì hết lòng bảo vệ các anh mà bị kẻ thù giết hại; những đồng đội sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình không chút từ nan do dự, thì Nguyễn Quang Hà nghĩ ngay đến việc cầm bút. Anh tự nhủ: nhất định phải ghi lại những hành động dũng cảm, tấm lòng kiên trung, đức hy sinh cao cả của đồng bào, đồng chí xứ Huế trong tháng năm rất đỗi hào hùng nhưng cũng vô cùng bi tráng này.

Và, để tưởng nhớ nơi mình sinh ra, anh đã lấy chữ cái đầu địa danh quê hương mình ghép thành bút danh Nguyễn Quang Hà, rồi lặng lẽ cầm bút gửi hồn mình vào những bài thơ, bài báo viết về vùng đất, con người nơi anh đang sống và chiến đấu.

Ở chiến trường Thừa Thiên Huế những năm đánh Mỹ, các chiến binh có mặt trên vùng đất ngùn ngụt bom đạn, khói lửa này dường như ai cũng biết Công Trường 5, một đơn vị vũ trang rất nổi tiếng của Thành đội Huế. Ngày đó vì giữ bí mật nên gọi là “công trường” vậy, chứ phiên ra thì ngang cấp Trung đoàn bộ binh cỡ trên dưới hai nghìn cán bộ, chiến sĩ. Ông Thân Trọng Một là chỉ huy trưởng của đơn vị ấy. Dạo đó ông Một và Công trường 5 không chỉ nổi tiếng đánh giỏi ở Thừa Thiên Huế, mà tiếng tăm còn lừng lẫy cả Mặt trận Trị Thiên. Nguyễn Quang Hà là lính Công Trường 5, là quân của ông Một. Sau mỗi trận đi chiến đấu trở về căn cứ, lúc rảnh anh lại lặng lẽ kiếm vỏ bao thuốc lá, những mảnh giấy khả dĩ cặm cụi làm thơ, viết báo.

Rồi việc Nguyễn Quang Hà đang làm, ông Một biết. Ông bảo: “Hà về làm báo nhé?” Không đắn đo, anh gật đầu trong nỗi mừng vui khôn tả. Anh cảm ơn người thủ trưởng tài danh thao lược đã cho anh một cơ hội “vàng” là được cầm bút. Sau này trở thành nhà văn, năm 2002 Nguyễn Quang Hà đã viết cuốn truyện ký Thân Trọng Một – con người huyền thoại, nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân ấn hành. Đó cũng là một việc anh tri ân với ân nhân của mình.

Nguyễn Quang Hà được điều về làm phóng viên báo Cờ Giải Phóng – Cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Thừa Thiên Huế vào năm 1970. Từ đó anh mê mải đi đến khắp nẻo đường mặt trận Thừa Thiên Huế. Khi cùng cán bộ, du kích xuống nằm vùng bám trụ dưới các ấp vùng sâu. Lúc lên rừng thâm nhập vào các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương vừa chiến đấu trở về căn cứ, lấy tài liệu viết bài.

Nguyễn Quang Hà có thơ đăng báo Cờ Giải Phóng vào năm 1968, tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, 1969. Những bài thơ anh viết nóng hổi không khí chiến đấu từ những quan sát trực diện, cảm xúc trào sôi chân thành của người trong cuộc. Những thi khúc hồn nhiên chân thực xúc động ấy được anh viết ngay dưới chiến hào, trong hầm chốt, đã làm lay động lòng người trong cuộc đã đành, mà cả những người ở hậu phương.

Đầu mùa hè năm 1974, Nguyễn Quang Hà bị thương lần thứ năm. Vết thương không nặng. Nhưng đã sáu bảy năm trời anh lăn lộn ở chiến trường, sức khỏe đã hao kiệt trầm trọng vì vết thương và sốt rét. Nguyễn Quang Hà được cấp trên cho ra Bắc điều dưỡng. Trong thời gian trên đất Bắc, anh tham dự lớp bồi dưỡng viết văn ở Quảng Bá của Hội Nhà văn Việt Nam, anh được hai bậc cao niên uy tín trong làng văn nước Việt là nhà văn Đoàn Giỏi, và nhà thơ Xuân Diệu trực tiếp kèm cặp. Thật là một cơ hội hiếm hoi được gần gũi các bậc thầy văn chương. Nguyễn Quang Hà tranh thủ đưa những bản thảo viết ở chiến trường cho hai thầy thẩm định. Sau khi đọc những bài thơ của Nguyễn Quang Hà, nhà thơ Xuân Diệu bảo: “Thơ của cậu in được, đủ một tập rồi đấy, cho in ngay đi.” Vui sướng nữa là tên tập thơ Tiếng gà trên điểm chốt đầu tay này của anh cũng là do nhà thơ Xuân Diệu đặt cho. Tập thơ do nhà xuất bản Giải Phóng ấn hành năm 1974. Rồi một hôm nhà văn Đoàn Giỏi rủ Nguyễn Quang Hà: “Cậu thử viết văn xuôi xem.” Vài ngày sau anh đưa cho nhà văn Đoàn Giỏi truyện ký viết về một đơn vị bộ binh Quân Giải phóng bám trụ giữ đất ở vùng tranh chấp khốc liệt hồi sau Mậu Thân. Đọc xong truyện ký đó, nhà văn Đoàn Giỏi bảo Nguyễn Quang Hà: “Chất của cậu là chất văn xuôi, không phải thơ.” Đến lượt nhà thơ Xuân Diệu cũng bảo anh: “Thơ của cậu Hà cũng là thơ văn xuôi.” Hai bậc thầy thơ văn không ai bảo ai mà đều phán, cũng có ý khuyên Nguyễn Quang Hà nên chọn đúng khả năng của mình. Từ đó Nguyễn Quang Hà dành nhiều thời gian, trí lực cho sáng tác văn xuôi. Còn với thơ, anh chỉ làm mỗi khi không thể lạnh lùng trước những đòi hỏi của cảm xúc.

Sau hơn bốn mươi năm mê mải đi, mê mải viết, đến nay Nguyễn Quang Hà đã cho xuất bản nhiều đầu sách, gồm hai tập thơ, mười tập truyện ngắn và ký sự, mười lăm tiểu thuyết. Nhưng anh bảo anh hiện vẫn còn cả ngàn trang bản thảo chưa đưa nhà in. Hầu hết những tác phẩm của Nguyễn Quang Hà đều viết về chiến tranh, viết về miền đất và con người xứ Huế – nơi anh đã sống, chiến đấu thời tuổi trẻ và bây giờ Huế đã là quê hương thứ hai của anh.

Cuối thế kỷ trước, Nguyễn Quang Hà từng có mười sáu mười bảy năm làm biên tập viên. Rồi thêm ba bốn năm đảm trách chức Tổng biên tập tạp chí Sông Hương. Công việc bù đầu, không biết anh kiếm đâu ra thời gian, sức lực mà viết được nhiều tác phẩm đến vậy. Mà Nguyễn Quang Hà đâu chỉ có viết văn, làm thơ, anh còn viết nhiều bài bút ký ca ngợi đất trời quê hương tổ quốc, viết nhiều thiên phóng sự đấu tranh với những ngang trái cuộc đời, bất công xã hội, được dư luận quan tâm và đánh giá cao phẩm chất, bản lĩnh của người cầm bút dám nói thẳng nói thật.

Hôm gặp Nguyễn Quang Hà ở Đồ Sơn, tôi bày tỏ sự thán phục sức làm việc bền dai quên mình của anh dành cho cuộc đời, cho văn chương. Nguyễn Quang Hà cười tóa lóa, bộc bạch rằng: “Nào có đáng gì đâu mà. Mình viết văn, làm thơ, viết báo mấy chục năm nay về đề tài chiến tranh, về thời hậu chiến vì mình là người trong cuộc nên muốn ghi lại cho lớp con cháu sau này biết thế nào là chiến tranh và hệ lụy của nó mà thôi. Mình dốc sức vào đề tài bấy nay cũng là để góp một ít tư liệu, dữ kiện, nói cách khác là ‘một mớ quặng thô’ mong cho những tài năng văn chương sau này có thể lựa chọn được cái gì đó sáng tạo, nó viết thay mình thôi cậu ạ.”

Tôi hiểu, anh không hề phách lối, cao đạo hay khiêm tốn giả vờ, mà lời nói ấy buột ra từ suy nghĩ và tấm lòng rất thành thật của anh. Nhưng tôi biết Nguyễn Quang Hà đã nhiều lần nhận giải thưởng của các cấp địa phương trao cho những tác phẩm tiêu biểu của anh. Tác phẩm gần đây nhất là tiểu thuyết Vùng lõm đã được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải Nhì trong cuộc thi Tiểu thuyết vào mùa đông năm 2010.

Nguyễn Quang Hà là người không chỉ có tấm lòng với văn chương, với cuộc đời như chúng ta đã biết, anh còn lặng lẽ làm nhiều việc tín nghĩa với những người còn sống hay đã chết quanh mình. Với người vợ cũ đã chia tay, anh đón chị cùng đứa con riêng của chị vào Huế sinh sống cho quần tụ với các con anh. Trong khuôn viên ngôi nhà không mấy rộng rãi bên bờ sông An Cựu, nơi Nguyễn Quang Hà đang sống, anh dành ra một diện tích đủ dựng một tượng đài nho nhỏ để tưởng vọng 139 liệt sĩ đại đội Ngô Gia Tự là đồng đội của anh hy sinh trên đất Huế thời đánh Mỹ. Hơn bốn mươi năm trước, 155 giáo viên, giáo sinh miền Kinh Bắc buông bút nghiên lại quê nhà đi chiến đấu, nay chỉ còn 16 người sống sót. Nguyễn Quang Hà là một trong số 16 người may mắn đó nên anh không thể đành lòng an hưởng, lặng thinh trước những người đã khuất.

Nguyễn Quang Hà năm nay tuổi đã cận thất tuần. Thương tích chiến tranh, thương tích mấy lần phẫu thuật căn bệnh đại tràng quái ác. Cái chết luôn rình rập nhưng anh chưa một ngày bỏ viết. Năm nào anh cũng dự một vài trại sáng tác văn chương các ngành, hội, trung ương, địa phương mời. Nghĩa là cái sự viết, hay nói đúng hơn, với anh, là nghiệp viết như đã mặc định vào anh không thể khác. Chị Võ Thị Quỳnh – người bạn đời của anh, cũng là đồng nghiệp (chị Quỳnh hiện là một giáo viên văn chương, một họa sĩ), kể rằng: “Mỗi lần sau khi rong ruổi khắp các miền đất nước trở về nhà sống bên vợ con, hằng sớm hay mỗi chiều, Nguyễn Quang Hà lại ra thắp nhang cúi đầu đứng lặng trước tượng đài các liệt sĩ đại đội Ngô Gia Tự, miệng thì thầm gì đó với cõi cao xanh tịnh vắng. Rồi Nguyễn Quang Hà trở vào nhà ngồi nơi bàn viết bắt đầu một cuộc hành xác mới. Nguyễn Quang Hà lại viết. Viết như là sự sống của anh.

Vũ Quốc Văn

Nhà văn Nguyễn Quang Hà

• Tên thật: Nguyễn Mạnh Tràng

• Sinh năm 1941

• Quê quán: Xã Quang Châu, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

• Nhập ngũ năm 1967-1977. Chiến đấu và công tác ở Thừa Thiên Huế, thời chống Mỹ. Năm 1975 bị thương, ra Bắc, học lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bá, Hà Nội. Chuẩn bị giải phóng miền Nam thì trở lại chiến trường.

• Tác phẩm chính đã xuất bản: Tiếng gà trên điểm chốt (thơ, 1976); Bạn bè một thuở (truyện ngắn, 1984); Thời tôi mặc áo lính (tiểu thuyết, 1990); Sông dài như kiếm (tiểu thuyết, 2002); Thân Trọng Một – con người huyền thoại (truyện ký, 2003); Tiếng thở dài của đất (tiểu thuyết, 2006); Vùng lõm (tiểu thuyết 2009)...

• Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (2003), giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết lần thứ III Hội Nhà văn Việt Nam 2010.