← Quay lại trang sách

Người có “trái tim không ngủ”

Tôi biết Ma Trường Nguyên trước là bởi cái tên (cũng là bút danh) khá ấn tượng, chứ chưa phải bằng tác phẩm. Ngày ấy khi vào tạp chí Văn Nghệ Việt Bắc gửi bài, tôi nhìn thấy một người cao lêu đêu và gầy đến mức không thể gầy hơn. Mọi người giới thiệu với tôi đó là Ma Trường Nguyên, làm thơ, biên tập viên của tạp chí (ngày ấy người ta không có kiểu giới thiệu ai cũng “nhà thơ” như bây giờ).

Tuy đã là cộng tác viên khá thân thiết của tạp chí Văn Nghệ Việt Bắc, nhưng vì viết văn xuôi nên tôi cũng ít gặp gỡ, trò chuyện với Ma Trường Nguyên. Từ ngày anh học trường Viết văn Nguyễn Du về, cùng công tác với tôi ở phòng xuất bản thuộc Sở Văn hóa Bắc Thái, chúng tôi mới thực sự có điều kiện gần gũi và hiểu nhau nhiều hơn.

Công tác cùng anh khá lâu năm, có lúc buồn, lúc vui, lúc yêu quý nhau và cũng có lúc không hiểu hết nhau nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh thù ghét, đố kỵ với bất kỳ ai. Có người nói Ma Trường Nguyên tính hiền lành từ trong bụng mẹ, có lẽ chính xác chăng. Nhưng điều làm tôi quý trọng anh hơn cả là tinh thần làm việc quên mình. Ngày ấy kinh tế quá khó khăn. Gia đình Ma Trường Nguyên, vợ không có việc làm chính thức, bốn cô con gái, đứa đang tuổi ăn học, đứa mới sinh. Đồng lương còi cọc và nhuận bút nhẹ như lông hồng thời ấy không đủ để anh cáng đáng cuộc sống gia đình. Vì vậy, anh luôn lâm vào cảnh thiếu thốn. Nhiều lần tôi thấy trong thùng gạo nhà anh chỉ chỏng chơ vài bơ bột mì mốc mà anh vẫn điềm tĩnh ngồi viết cho xong một chương tiểu thuyết trong lời kỳ kèo của vợ, trong tiếng khóc của con nhỏ. Giăng sáng, Đời thừa... của Nam Cao từng mô tả cái khổ của nhà văn nhưng dù sao đó vẫn chỉ là tác phẩm văn chương. Còn cảnh khổ của nhà thơ Ma Trường Nguyên trong mắt tôi là bằng xương bằng thịt, bằng nỗi vất vưởng cơ cực có thật trong đời. Có một chuyện cách đây đã hơn ba chục năm mà tận bây giờ tôi vẫn nhớ không sót một chi tiết. Đó là cái lần anh ngồi miệt mài hai mươi ngày bên bàn viết để cố hoàn thành cuốn tiểu thuyết Mũi tên ám khói, người anh gầy tọp hẳn đi. Hôm ấy gặp tôi, anh vừa nhăn nhó cười vừa nói:

- Hôm nay vợ tớ đánh liều ra chợ mua hẳn... ba lạng thịt ba chỉ về bồi dưỡng cho tớ đấy. Ông có biết thế nào không? Ăn miếng thịt đầu tiên mình thấy ngay một cảm giác là các tế bào ở má như bỗng từ từ... nở ra, như miếng bánh mì khô gặp nước. Tớ nói thật đấy, không hề bịa đâu.

Tôi cũng nhăn nhó cười. Vui quá mà cũng buồn quá. Không hiểu làng văn cả nước và ở Thái Nguyên có ai như anh không?

Hồi ấy, anh đã từng tuyên bố một lời độc nhất vô nhị rằng: “Chỉ cần hai thứ: bột mì và thuốc lào là Ma Trường Nguyên có thể ngồi viết văn và làm thơ suốt đời.” Bây giờ nghĩ lại mới thấy hoảng và thấm đẫm chất bi hài.

Khi sáng tác văn chương thì Ma Trường Nguyên có vẻ xông pha hết mình như vậy. Nhưng thật lạ, trong công tác cũng như trong cuộc sống đời thường anh lại rất nhút nhát, cả nể, thích dĩ hòa vi quý. Tôi còn nhớ một lần bài thơ viết về một nhân vật anh hùng lịch sử của anh do tôi biên tập, khi đưa duyệt bị ông phó giám đốc sở văn hóa (một ông chỉ quen làm kinh doanh chứ không hề hiểu văn chương) phê câu thơ “tung cần câu vỡ nắng mưa”. Ông ta bảo sao lại “vỡ” nắng mưa? Nắng mưa có phải là cái chén cái bát đâu mà vỡ được. Tôi nói lại với anh chuyện ấy và kiên quyết “vượt quyền” giữ lại từ “vỡ” rất hay ấy. Vậy mà anh bảo: “Thôi, rách việc lắm! Ông cứ sửa lại cho tôi thế nào cũng được.”

Một chuyện nữa nói về cái tính rụt rè, lúc nào cũng mong sự bình an của anh. Đó là cái ngày anh đã trở thành phó giám đốc Sở Văn hóa kiêm chủ tịch lâm thời Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên. Ngày ấy, ban thường vụ của hội phải thường xuyên đi vận động hội viên để tiến tới đại hội chính thức. Một lần tôi và Ma Trường Nguyên có công việc phải đến nhà một hội viên nữ xinh đẹp nổi tiếng lúc bấy giờ. Đã ra khỏi phòng nhà anh hơn trăm mét, anh ngần ngừ nói với tôi đợi anh trở về lấy chiếc cặp. Quên cặp, về lấy là chuyện thường thôi, nhưng anh nói với tôi, rất thành thật:

- Thực ra cũng chẳng có việc gì phải dùng đến cặp đâu. Nhưng mình đến nhà nó tay không thế này sợ tay chồng lại tưởng mình thích vợ nó đến tán tỉnh chứ không phải là đi công tác hội.

Trời ơi! Có ai cẩn trọng như Ma Trường Nguyên của tôi nữa không?

Nhưng đúng Ma Trường Nguyên là thế. Cẩn trọng, chỉn chu, luôn sợ người khác hiểu lầm mình.

Có một chuyện nữa: Ấy là cái năm Sở Văn hóa Bắc Thái xuất bản cho Ma Trường Nguyên tập trường ca Mát xanh rừng cọ, là một tác phẩm khá tâm huyết viết về quê hương anh. Năm ấy là năm đổi tiền. Tập trường ca của Ma Trường Nguyên không may lại rơi vào đúng thời điểm giáp ranh giữa tiền cũ và tiền mới. Nếu lấy nhuận bút theo biểu tiền cũ thì việc chi tiêu lúc ấy sẽ thiệt gấp mười lần. Lúc ấy, tôi phụ trách phòng xuất bản, thấy Ma Trường Nguyên luôn khó khăn nên vẫn kê theo giá nhuận bút mới. Thực ra tập sách cũng chỉ xuất bản chậm đôi ba ngày theo quy định, nếu tính theo biểu nhuận bút cũ thì quá thiệt thòi cho anh. Vậy mà Ma Trường Nguyên kiên quyết gạt đi. Tôi còn nhớ như in câu nói của Ma Trường Nguyên ngày ấy: “Thôi! Tham làm gì. Tiền tiêu nhiều hay ít thì cũng đều hết cả.” Cuối cùng vì trả theo biểu cũ nên nhuận bút cái trường ca của anh hồi ấy chỉ có giá trị bằng hai bát phở (khoảng 40.000đ bây giờ). Ai nghe kể về chuyện này cũng lắc đầu xin chào thua. Nhưng Ma Trường Nguyên là thế. Vậy mới có một thời người ta lưu truyền nhau câu nói như một... phương ngôn: “Ông lãnh đạo nào mà chẳng có chút xà xẻo, trừ phó giám đốc Ma Trường Nguyên.”

Khi được tỉnh giới thiệu và anh chị em hội viên tín nhiệm trong đại hội Văn học nghệ thuật tỉnh lần thứ III bầu làm chủ tịch, tôi thấy Ma Trường Nguyên mừng ít mà lo nhiều. Bao năm chỉ làm cấp phó, nay lĩnh trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, hình như anh chưa có sự chuẩn bị cho chuyện này. Mà đúng vậy, Ma Trường Nguyên thường nói đùa với bạn bè:

- Thực ra, tớ “bị” người ta cho làm lãnh đạo chứ không hề có một ngày phấn đấu hoặc chuẩn bị tâm lý để giữ một chức vụ nào đó.

Tôi biết những lời của anh là rất thật lòng chứ không có chuyện làm duyên làm dáng.

Nói vậy, nhưng khi làm việc anh lại luôn lo lắng đến mức tối đa để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Không hiểu có phải vì cương vị mới đã làm Ma Trường Nguyên phải gắng gượng hơi quá sức không mà suốt năm năm làm chủ tịch hội, Ma Trường Nguyên chỉ làm được hơn chục bài thơ in báo. Còn văn xuôi thì không viết nổi lấy một trang. Mà chỉ ngay thời gian trước đó ít lâu thôi anh đã cho xuất bản tới bảy cuốn tiểu thuyết khá dày dặn trong vòng dăm năm. Đặc biệt điều dễ nhận thấy nhất trong việc này là mái tóc của anh trước khi sang làm lãnh đạo hội còn lấp ló xanh vậy mà mới bốn, năm năm qua đi đã thành trắng xóa như bông. Thì ra làm lãnh đạo cũng chẳng sung sướng gì, nhất là đối với những người hình như sinh ra chỉ để làm thơ, viết văn như Ma Trường Nguyên.

Trong đời văn, Ma Trường Nguyên viết khá nhiều thể loại: Thơ, tiểu thuyết, ký, truyện thiếu nhi, phê bình tiểu luận. Ở thể loại nào anh cũng có những đóng góp đáng kể. Tiểu thuyết Ma Trường Nguyên không dữ dội mà thường phảng phất buồn, đậm chất trữ tình. Bởi vậy, thường không thích hợp với những độc giả ưa “nhịp mạnh”. Nhà lý luận phê bình Lâm Tiến đã có đánh giá rất chính xác về tiểu thuyết anh: “Ma Trường Nguyên rất phong phú về vốn sống, rất am hiểu về văn hóa, văn học dân gian của dân tộc Tày. Đó không phải nhà văn dân tộc nào cũng có được. Chính sự phong phú đó đã làm cho những trang tiểu thuyết của anh sống động với những nhân vật, những phong tục, tập quán nhiều màu, nhiều vẻ.” Chính bởi những điểm mạnh ấy mà tiểu thuyết Rễ người dài của anh, năm 1996 đã đoạt giải thưởng của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhưng có lẽ ở anh, thành công hơn cả vẫn ở phía thơ. Gần một chục tập thơ, bài hay xen bài chưa hay, nhưng dù sao, cũng đã nói lên “trường lực” của anh về thể loại văn học này. Cũng như ở tiểu thuyết, thơ Ma Trường Nguyên luôn trở nên rất đặc sắc khi chạm vào đời sống văn hóa, tâm lý, phong tục người dân tộc Tày. Nhưng với những người bạn văn tâm huyết khi đọc thơ Ma Trường Nguyên thường có một ước ao, giá như anh khơi sâu thêm, vận công, ráo riết nhiều hơn nữa vào loại thơ đậm chất tâm hồn Tày này thì chắc chắn sẽ có một Ma Trường Nguyên ở một tầm cao khác. Gần đây, bài thơ Lòng đi yêu về thôi của anh viết về đề tài này được nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét là một bài thơ toàn bích. Có thể có người cho rằng nhà thơ Hữu Thỉnh khen động viên, nhưng ở trường hợp này có thể đảm bảo đó là một lời khen chân tình và hoàn toàn chính xác. Bài thơ đã có sự gặp gỡ ngoạn mục, nhuần nhuyễn giữa truyền thống với hiện đại, vô thức và hữu thức. Có thể nói, đó là một trong không nhiều những bài thơ hay nhất ở Việt Nam. Cũng hơi tiếc là Ma Trường Nguyên đã sa đà vào nhiều thể loại, thiếu tập trung nên những bài thơ thành công như vậy còn quá ít, chưa đủ sức tạo ra một tác giả lớn. Nhưng mà thôi, mơ ước vẫn chỉ là mơ ước. Dù thế nào thì Ma Trường Nguyên cũng đã đi gần trọn sự nghiệp sáng tạo của mình. Anh đã có nhiều đóng góp cho văn chương Thái Nguyên nói riêng và văn chương cả nước nói chung. Mà vẻ như Ma Trường Nguyên cố công sáng tạo không chỉ vì cái danh. Đúng như lời tự bạch của anh trong tập sách Nhà văn Việt Nam hiện đại: “Tôi viết để giữ ấm lòng mình đến với người khác. Tôi cầu mong con người sẽ cần con người hơn. Khi gọi lên lại tìm thấy nhau, thấy khuôn mặt người, được nắm chặt bàn tay niềm tin ấm rực hơi người trong cuộc đời thường nhật khuất lấp muôn mặt, muôn hình.”

“Tôi viết để giữ ấm lòng mình!” – một lời tự bạch chừng như quá giản đơn nhưng không phải ai cũng thực hiện nổi. Văn chương vốn là một nghề nhiều chông gai, trắc trở. Để đánh đổi một tác phẩm được công chúng mến mộ nhiều khi tác giả phải tình nguyện nhận vào lòng mình bao nỗi vất vả nhọc nhằn cùng những thua thiệt trong cuộc sống. Thế nhưng, trong lòng thành phố Thái Nguyên nhỏ bé bên con sông Cầu thơ mộng này đã có một nhà thơ muốn trải rộng lòng mình với từng góc phố, con đường, với mỗi hàng cây bằng những vần thơ chân thành, chất phác nhất.

* * *

Ngày sắp về hưu, Ma Trường Nguyên bỗng nói với tôi bằng những lời “gan ruột”:

- Hồ Thủy Giang ạ, tôi với ông đã từng chìm nổi, mặn nhạt cùng nhau, ân oán cũng nhiều, nhưng cuộc đời công tác coi như là đã trọn vẹn. Ông còn nhớ tập thơ của tôi do ông biên tập không? Cái tên tập thơ Trái tim không ngủ là do ông đặt giúp tôi. Có người khen mà cũng có người chê, nhưng tôi thì rất thích cái tên sách ấy. Vì quả thật trái tim văn chương của tôi chưa bao giờ ngủ yên.

Tôi cảm động. Ma Trường Nguyên gợi lại tập thơ Trái tim không ngủ đã xuất bản gần ba mươi năm về trước. Còn tôi, sao có thể quên được tập thơ đầy hồn nhiên của anh ngày ấy. Nhưng điều quan trọng hơn, tôi muốn nói với anh bằng một lời chúc phúc: Anh – một nhà thơ, hãy mãi mãi để trái tim thức cùng năm tháng./.

Hồ Thủy Giang

Nhà văn Ma Trường Nguyên (phải)

• Dân tộc Tày

• Sinh ngày: 17-5-1944

• Quê quán: xóm Đồng Chẩn, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

• (Hiện thường trú tại tổ 20, phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên)

• Hoạt động: hội viên Hội Nhà văn Việt Năm từ năm 1993; hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam; phóng viên chiến tranh của báo Quân Khu III.

• Tác phẩm chính:

• Giải thưởng: giải thưởng Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam, giải thưởng Văn học Nghệ thuật 5 năm của tỉnh Thái Nguyên...