Tiếng gọi của cuộc sống
Cách mạng và kháng chiến đã giúp Ma Văn Kháng có một trải nghiệm vô giá. Vào lứa thiếu niên, mười ba tuổi, tham gia Thiếu sinh quân. Học tập, sinh hoạt, rèn luyện nghiêm túc, kỷ luật với đòi hỏi cao về nhân cách lẫn về tư tưởng, đạo đức, ý chí cả về tâm hồn, tấm lòng để có thể đủ trí lực, tâm lực và năng lực hành động.
Nhà giáo trẻ náo nức vào đời với một tâm nguyện, ý chí hồn nhiên, dũng cảm: xung phong lên dạy học ở miền núi cực Bắc đất nước, nơi ẩn chứa bao gian nan thách thức. Cái gan dạ có pha chút phiêu lưu, mạo hiểm của tuổi thanh niên. Bởi dần dà, anh nhận ra đó là vùng đất “dữ dội” còn nhiều nét “hoang sơ” của lịch sử. Và cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc đối đầu địch ta ở đó khốc liệt đặc biệt.
Thầy giáo lên nhận nhiệm vụ hôm trước thì hôm sau nhận súng ra gác ở cầu Cốc Lếu, đề phòng thổ phỉ, biệt kích từ thượng nguồn thả mìn về phá cầu. Rồi vừa dạy học vừa tham gia tiễu phỉ, cải cách dân chủ – tức dạng cải cách ruộng đất đặc biệt ở miền núi. Có mùa hè suốt ba tháng lặn lội khắp miền, khắp nẻo vùng sâu, vùng xa làm thuế nông nghiệp, “ba cùng” với nhân dân các bộ tộc. Tất cả hoạt động giáo dục, hoạt động xã hội đã làm nên cốt cách Ma Văn Kháng. Đó là thời đoạn đầu đời để làm mình. Gần như đó là quãng thời gian quan trọng nhất trong tất cả trải nghiệm cuộc đời sau này đối với anh. Đây là cuộc khởi đầu tự đào tạo để có được đồng thời hai nhân cách: nhân cách con người – con người công dân, con người đạo lý và nhân cách ông thầy. Trong tác phẩm Bến bờ (2011), Điền đã tức giận quát một đồng đội khi có biểu hiện thấp kém nhân cách của chiến sĩ công an: “Đồ khốn nạn! Mày không đủ tư cách làm người sao lại dám ở nghề này!...” Đó là tuyên ngôn nhân văn cũng là tâm niệm của nhà văn. Trong cuộc sống, làm người, làm thầy là quá trình song hành. Cũng như sau này quá trình làm người đồng hành với làm văn.
Sau hơn hai mươi năm làm nghề dạy học ở miền ngược, từ 1976, Ma Văn Kháng về xuôi, sống giữa thủ đô, chính thức làm nghề viết. Trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị sau chiến tranh và đến thời đổi mới có biết bao diễn biến sôi động và phức tạp.
Vốn sống trước kia và hiện nay tổng hợp thành kho trải nghiệm đồ sộ, tạo nên chất liệu sống động, phong phú cho văn chương. Cốt cách cũng là nhân cách nhà văn lên tiếng: “Sống đã rồi hãy viết”. Không ai dám nói là sống đủ. Bởi còn phải sống với cuộc đời thiên biến vạn hóa – nhưng nhà văn là người sống kỹ lưỡng, sống thực, sống hết mình trong mỗi khoảnh khắc của thời gian vô tận. Sống là phải quan sát đa diện, đa chiều, từ dưới lên, từ trên xuống, từ trong ra, từ ngoài vào. Phải lặn ngụp tới đáy cuộc sống đi đến tận cùng thế giới tâm hồn. Nghĩa là sống với tất cả trí tuệ, tâm hồn, cảm xúc và nhiều khi với cả những linh cảm, tiên tri, với tất cả cung bậc tình đời. Đặc biệt, theo nhà văn, phải thấm thía nỗi đau nhân tình thế thái. Ai đó đã nói, đại ý: trong tất cả tác phẩm, chỉ có mỗi nhà văn, chỉ còn lại nhà văn. Tất cả nhân vật không kể trong hồi ký – tự truyện, tiểu thuyết tự truyện, còn lại đều là cái tôi, bóng hình của chính tác giả. Có tin yêu, tự hào, hãnh diện, cũng kiêu hùng, oai vũ nhưng có cả băn khoăn, bức xúc, thậm chí xót xa, tiếc nuối, ngậm ngùi, tức giận và căm ghét nữa... Rồi cả mặc cảm cô đơn xen lẫn khoái cảm hồn nhiên, hồi hộp, ngỡ ngàng... Nghĩa là sống với nhân vật đến tận cùng tâm hồn. Ma Văn Kháng làm nên mình còn nhờ vốn văn hóa – văn hóa hiểu theo nghĩa rộng – không chỉ là chữ nghĩa nhà trường mà là những tri thức, kiến văn lớn rộng, nhận từ cuộc đời.
So với nhiều bậc đàn anh, phải nói rằng Ma Văn Kháng được đào tạo bài bản. Nhà trường Đại học tạo cho anh một cái vốn cơ bản, có được hiểu biết cần thiết về văn học cổ kim, đông tây. Rồi trường Viết văn bồi dưỡng thêm tri thức về nghề nghiệp. Làm biên tập và tổng biên tập báo, rồi nhà xuất bản, giúp cho anh rèn giũa văn chương “làm thầy” người viết về câu chữ, yêu cầu nghiêm nhặt về diễn tả, biểu cảm, thể hiện để đạt độ cao hàm súc cũng là vẻ đẹp văn chương, đòi hỏi một tầm cao về cảm thụ và phân tích. Nhiều năm phụ trách tạp chí Văn Học Nước Ngoài lại đưa anh đến nhiều chân trời mới lạ, học tập được thêm tinh hoa văn chương thế giới, những khuynh hướng, những trào lưu hiện đại.
Nhưng tất cả chỉ có thể bồi đắp cho cái cốt lõi nhân cách văn chương Ma Văn Kháng. Đời viết là sự phát huy năng lượng cốt cách ấy.
Hồi học ở Đại học Sư Phạm, hứng thú sáng tạo trong nghệ thuật ngôn ngữ ở anh sinh viên Văn khoa như được chắp cánh. Một lần thầy trò Khoa văn nghe Nguyễn Tuân nói chuyện, kể về Chém treo ngành, ông lưu ý người đọc hình ảnh cuối cùng: trận gió lốc xoáy tung chiếc mũ trắng của quan công sứ ném xuống pháp trường. Nhà văn nhún vai: “Chữ đẩy, có mắt mà không biết đọc” để ngầm phản bác người chê ông mắc bệnh bàng quan chủ nghĩa. Thế là cái “làn gió vô hình” ấy cứ cuốn bay mãi để đến lúc trở thành một “cơn lốc” trong tâm tưởng Ma Văn Kháng. Anh sinh viên trẻ đã “manh nha nhận ra một cái gì đó đang hình thành trong mình, lập nên một cấu trúc khiến mình sẽ khác đi rất nhiều”. Để ít lâu sau, vừa cầm phấn, vừa cầm bút và rồi cây bút soạn giáo án tạm biệt nhà trường trở thành cây bút viết văn nổi danh.
Ma Văn Kháng trưởng thành một phần không nhỏ là nhờ ở sự chỉ bảo, tâm truyền, khẩu truyền của các bậc đàn anh. Nhà văn chân thành học tập ở đồng nghiệp, kể cả các bạn trẻ, nhưng đặc biệt là tầm sư học đạo các bậc trưởng lão. Ma Văn Kháng đi miền núi cũng vì mê Truyện Tây Bắc, mê cảnh, mê người một vùng quê của sáng tác văn chương. Nhà văn rất mến phục Tô Hoài, người như đã mời gọi, dắt tay anh vào một nẻo văn chương. Học hỏi thực sự, thấm nhuần và sáng tạo với niềm hãnh diện chân chính, anh viết về một vùng quê hương thân thiết và tự nhận đó là cái “miền núi của mình”, mang dấu ấn đặc sắc riêng. Sau Tô Hoài, có thể coi Ma Văn Kháng là người tiếp tay, tiếp sức mạnh mẽ để tạo ra một dòng văn học mang hương vị, sắc thái miền núi.
Về ngôn ngữ, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân đã được mệnh danh là các bậc thầy. Ma Văn Kháng là lớp hậu sinh ưu tú. Phong Lê nhận xét: “Đặc biệt là ngôn ngữ, nếu muốn tìm đến sự phong phú của ngôn ngữ – áp cận được vào thời hiện tại tôi nghĩ cần đọc Ma Văn Kháng, và trước đó là Tô Hoài”.
Cứ qua tác phẩm thì thấy sức đọc, sức học của Ma Văn Kháng là rất lớn. Anh đã khuyên nhà văn trẻ phải đọc sách vì “dưới một quyển sách bao giờ cũng là một quyển sách khác”. Một cách học hiệu nghiệm khác là tìm hiểu qua dư luận bạn đọc, nghiên cứu nghiêm túc, cặn kẽ những tiểu luận phê bình, nghiên cứu về sáng tác của mình. Có câu châm ngôn đại ý: người khen ta là bạn ta, người chê đúng ta là thầy ta. Trong kho tài liệu của nhà văn chắc chắn có bộ “sưu tập phê bình” về Ma Văn Kháng, nhiều khi còn phong phú hơn cả ở các thư viện. Bởi nhà văn lưu giữ cả những tài liệu còn là bản thảo đánh máy chữ hoặc chép tay, tóm lại là những tư liệu quý hiếm, nằm trong dư luận bạn đọc. Từ mục Thư bạn đọc: Một cuốn sách cần được luận bàn rộng rãi đăng trên Lao Động ngày 9-11-1989 được tác giả ghi chú: Bài báo đầu tiên nói về cuốn Đám cưới không có giấy giá thú đến hàng loạt bài thảo luận trên Văn Nghệ số 6 ngày 10-2-1990 v.v...
Và hồ sơ đầy đủ của những tác phẩm khác. Bộ hồ sơ này chắc cũng đồ sộ lắm. Do công phu sưu tầm kể cả trong “bếp núc” của các tòa soạn. Rồi bè bạn và bạn đọc gửi cho vì yêu mến. Tất nhiên có cả những phản biện, phản bác, chê bai, đả kích hết lời.
Việc lưu lại những ý kiến người đọc như vậy thể hiện trước hết, trên hết là thái độ nhà văn thực sự cẩn thận, lắng nghe, học hỏi để thấy cái được và chưa được, cái đã rõ và chưa rõ. Tấm lòng lại rộng mở. Có lẽ Ma Văn Kháng muốn thêm vào câu châm ngôn: những người chê ta mà không có ác ý, cũng là thầy ta.
Ma Văn Kháng còn viết phê bình, tiểu luận. Nhà văn cũng đọc tác phẩm của bạn viết. Đó cũng là “một cửa sổ nhìn ra thế giới” văn chương. Rải rác qua sáng tác và phê bình, tiểu luận, Ma Văn Kháng đã phát biểu nhiều về quan niệm viết, quan niệm nghệ thuật bộc lộ lý tưởng thẩm mỹ, tư tưởng nghệ thuật.
Nhà văn tự phòng vệ mình bằng một ý tưởng triết lý: “Sống còn để mang thương tích” đâu chỉ “để ra lộc, ra hoa”. Ma Văn Kháng là nhà văn có bạn đọc rộng rãi, là người cầm bút được mệnh danh là “người khuấy động văn đàn Việt Nam hiện đại”, ra tác phẩm nào cũng gây được xôn xao, gây “sốt”, gây “sốc” trong ngoài văn giới. Đó là một thứ “quyền uy” rất đáng yêu mà nhà văn tạo dựng được bằng cả nhân cách và đời viết.
Cuộc đời thành đạt chính vì “Có sự tương hợp giữa sự thành nhân và đắc đạo văn chương” như tâm sự của nhà văn. Tích cực nhập cuộc, dấn thân, Ma Văn Kháng là một trong số ít ỏi chiến sĩ một mình một ngựa dáng dấp “oai vũ”, “cô đơn” xung trận từ thời trước Đổi mới. Cũng là một trong những ngọn cờ cách tân văn xuôi hiện đại đang còn tiềm ẩn nhiều xung lực. Tuổi cao, sức khỏe luôn bị đe dọa nhưng tôi tin rằng nhà văn chưa chịu “rửa tay gác kiếm”.
Ma Văn Kháng còn viết.
Đoàn Trọng Huy
Nhà văn Ma Văn Kháng
• Tên khai sinh: Đinh Trọng Đoàn
• Ngày sinh: Sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936
• Quê quán: Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội
• Đời hoạt động: Năm 1948: Đội viên đội Truyền bá Vệ sinh, Cục Quân y. 1949: Học sinh trường Thiếu sinh quân Việt Nam. 1952-1954: Học sinh trường Sư Phạm Khu học xá Nam Ninh (Quảng Tây – Trung Quốc); 1955-1959: Hiệu trưởng trường cấp II Thị xã Lào Cai. 1960-1963: Sinh viên trường Đại học Sư Phạm Hà Nội. 1963: Hiệu trưởng trường cấp III Lào Cai; 1968: Cán bộ Văn phòng Tỉnh ủy Lào Cai; 1976: Biên tập viên nhà xuất bản Lao Động; 1978-1994: Phó giám đốc, Tổng biên tập nhà xuất bản Lao Động; 1995-2005: Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (Khóa V và khóa VI); Tổng biên tập, Chủ nhiệm tạp chí Văn Học Nước Ngoài; 2006: Phó giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng Viết văn Nguyễn Du.
• Các tác phẩm chính: 10 tập truyện ngắn, trong đó có các tập: Trăng soi sân nhỏ, Móng vuốt của thời gian, Một chiều dông gió... 12 tiểu thuyết, trong đó có: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Gặp gỡ ở La Pán Tẩn, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Côi cút giữa cảnh đời, Chó Bi, đời lưu lạc, Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa... Hồi ký: Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương.
• Giải thưởng: Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (ASEAN) năm 1998. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, đợt I, năm 2001. Giải thưởng Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số năm 2002 và 2003. Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 1986 và năm 2009.