← Quay lại trang sách

Cổ tích thời hiện đại

Cuộc thi thơ 1990-1991 của tuần báo Văn Nghệ đã vinh danh các nhà thơ Hoàng Trần Cương, Đỗ Minh Tuấn, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Việt Chiến, Đoàn Thị Lam Luyến, La Quốc Tiến... Bên cạnh những tên quen thuộc ấy, giải Nhì được tặng cho một cây bút lần đầu xuất hiện: Đỗ Trọng Khơi. Nhiều bạn đọc và bạn văn nghe nói tác giả quê Thái Bình đã gọi điện hỏi Đỗ Trọng Khơi là ai? Một giọng thơ thật riêng, thật mới, hé lộ một hồn thơ nhiều ẩn ức mà đầy sức mạnh bản thể và niềm tin yêu cuộc sống. Dù đã biết tác giả là ai, tôi không khỏi ngạc nhiên và vui mừng đạp xe hơn bốn mươi cây số về quê thăm Khơi. Nằm nghiêng trên cái giường đơn sơ, gối đầu lên những cuốn sách, xung quanh la liệt những sách, ngoài sân có tiếng gà cục tác, bên cửa sổ có tiếng kẽo kẹt của bụi tre già, Đỗ Trọng Khơi kể cho tôi nghe về gia cảnh và chuyện anh tìm đến với văn chương.

Năm 1966, bố anh vào bộ đội chống Mỹ, năm 1967, ông hy sinh ở chiến trường Quảng Ngãi khi mới 36 tuổi. Lúc bố đi chiến trường, Khơi mới học vỡ lòng. Năm lên tám tuổi, Khơi bị sưng hai ngón chân út, nhưng không để ý, vì trẻ con nhà quê ngã sứt đầu mẻ trán chả thuốc thang gì mấy ngày sau cũng khỏi. Nhưng sáu tháng sau sưng lên cổ chân, hai năm sau lên đầu gối, ba năm sau chuyển sang cả hai chân. Ông nội cõng cháu đi khắp nơi, gặp hết ông lang này ông lang khác, bán hết lợn đến thóc mà bệnh không thuyên giảm. Các thầy lang bảo đó là bệnh “hạc tất phong”. Ông nhìn cháu, mẹ nhìn con ứa nước mắt mà bất lực. Năm 1971, Khơi học hết lớp ba thì phải bỏ học, nằm liệt giường từ đấy. Cũng từ đây, Khơi bắt đầu một đời đọc sách để tìm đến với biển trời tri thức và tìm thấy chính mình. Trong hàng chục tập thơ đã xuất bản của Đỗ Trọng Khơi, có một tập anh tâm đắc lấy tên là ABC. Anh nói rằng vốn liếng được học ở trường của anh chỉ hết bảng chữ cái, đủ biết đọc, biết viết, anh phải tự học lấy tất cả, không ai giúp anh được. Tập thơ có những câu đề từ: Bao giờ người chết được / hư tĩnh thành non cao /thơ sẽ về ươm hạt /trồng xanh vùng chiêm bao. Và anh nói về sự học: Cha khuyên học cỏ / mà nuôi chí người / khi trong khi đục / khi đầy khi vơi / cứ theo sông suối / thì về biển khơi / mẹ khuyên học biển / mà yêu con người (Học H).

Những cuốn sách đầu tiên Khơi nằm đọc là của bố để lại. Chỉ hơn chục cuốn, là mấy bộ Thủy Hử, Tam Quốc, Đông Chu Liệt Quốc, và mấy cuốn sách không liên quan gì đến văn chương. Đọc đi đọc lại gần như thuộc lòng những sách ấy, Khơi khát sách như khát nước mà không có sách đọc. Nhiều ngày đêm nằm ngửa mặt nhìn trần nhà chỉ mơ về sách. Khơi xin phép mẹ, dành hết số tiền trợ cấp liệt sĩ của bố, nhờ người bạn làm công nhân mua sách ở hiệu sách huyện. May gặp được chị Hòa bán sách, biết Khơi nhà nghèo và hoàn cảnh đặc biệt, chị quyết định cho Khơi mượn sách, với yêu cầu là phải giữ gìn thật cẩn thận, đọc xong trả ngay để chị bán. Chỉ với một chút lòng thơm thảo, chị đâu biết chị đã góp phần mở đường cho một nhà văn tương lai. Không nhớ Khơi đã đọc bao nhiêu sách, nhưng anh đọc tất cả những gì mà hiệu sách và thư viện huyện có. Đọc cả một bể tri thức không hệ thống, không người chỉ dẫn, nhưng vì có thiên tư, nên Khơi đã tổng hợp cho mình một kiến thức khá vững vàng về nền văn học của đất nước và các nền văn học lớn khác như Trung Quốc, Nga, Pháp và một số nước có sách dịch sang tiếng Việt. Không chỉ đọc sáng tác, Khơi đọc cả sách nghiên cứu, lý luận; không chỉ đọc văn học, mà đọc cả sách khoa học. Tất cả đều đọc và suy nghĩ, ghi chép cẩn thận. Trong cuộc đời văn chương của Đỗ Trọng Khơi, những năm chưa phát lộ này có lẽ lại là thời kỳ quan trọng nhất.

Sau mười năm nằm đọc sách, Khơi bắt đầu viết truyện ngắn. Nằm nghiêng đọc và cũng nằm nghiêng viết. Khơi viết về tình yêu, tình bạn, về quê hương. Trong khoảng hai năm, anh viết được mười truyện ngắn và hơn hai chục bài thơ. Viết rồi chép thật sạch, đóng thành một tập cả văn thơ, đưa cho bạn bè đọc, mọi người trong làng chuyền tay nhau. Mùa thu năm 1987, có đoàn sinh viên trường đại học Y Thái Bình về vùng quê Khơi làm công tác y tế cộng đồng. Tình cờ thấy người cán bộ thông tin loa đài xã cầm tập bản thảo của Khơi, nhóm sinh viên tò mò mượn đọc. Rồi một buổi tối, người dẫn đầu nhóm sinh viên là Hoàng Năng Trọng cùng mấy bạn tìm đến nhà Khơi. Chủ, khách đều không giấu nổi xúc động. Hoàng Năng Trọng không ngờ người viết ra tập bản thảo đầy chất nhân văn ấy lại là một chàng trai cùng tuổi mình, bị tật nguyền phải nằm nghiêng, hai chân cứng khớp không thể thay đổi tư thế. Sức sống cả con người Khơi chỉ thể hiện ở khuôn mặt phương phi, vầng trán rộng và đôi mắt rực sáng, còn thân thể thì gầy bé, tứ chi có dấu hiệu bị teo cơ do biến chứng của thấp khớp. Trực giác mách bảo Trọng rằng đây là một người có sức mạnh nội tâm và có khát vọng lớn. Còn Khơi thì run lên trước sự xuất hiện của Trọng và nhóm sinh viên. Trọng nói: “Đọc của anh tôi rất thích. Tôi có điều kiện tiếp xúc với các báo chí, có tác phẩm nào tâm đắc, anh gửi để tôi chuyển cho họ.” Lúc đó Khơi chưa dám nghĩ những gì mình viết ra được in trên báo chí. Vì thế, Khơi cứ nấn ná không gửi. Nhưng Trọng thì không quên. Tốt nghiệp đại học xuất sắc, Trọng được giữ lại giảng dạy tại đại học Y Thái Bình. Thỉnh thoảng Trọng đạp xe gần bốn cây số về thăm Khơi. Dần dần Khơi bớt mặc cảm, và họ trở thành đôi bạn như được Trời sắp đặt. Mùa thu năm 1988, Trọng đưa chùm thơ của Khơi in ở tạp chí Văn Nghệ Thái Bình, ký bút danh là Đỗ Tuấn Khơi. Đây là chùm thơ đầu tiên được xuất bản, bút danh ấy xuất hiện lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Ngay sau đó, để kỷ niệm tình bạn của mình, Khơi lấy tên Trọng vào bút danh, đổi là Đỗ Trọng Khơi, cái tên ngày nay đã trở nên quen thuộc với độc giả cả nước.

Hoàng Năng Trọng làm bí thư đoàn trường đại học, thường mời các nhà văn, nhà thơ về nói chuyện với sinh viên, nên quen biết khá nhiều văn nghệ sĩ. Cuối năm 1990, Trọng lên Hà Nội gặp nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi và nhà thơ Bế Kiến Quốc, đưa thơ của Khơi cho hai nhà thơ nhờ đọc giúp. Hai người bạn không ngờ hơn tuần sau đài Tiếng nói Việt Nam có chương trình thơ Đỗ Trọng Khơi, do đích thân nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi viết lời giới thiệu, gây tiếng vang trong thính giả và giới cầm bút. Ngay sau đó, báo Văn Nghệ đăng liền hai chùm, gồm chín bài thơ Đỗ Trọng Khơi trong mục thơ dự thi. Đỗ Trọng Khơi đã chính thức gia nhập văn đàn đất nước khi cuộc thi thơ báo Văn Nghệ tổng kết, công bố anh được giải Nhì.

Cuộc đời bỗng chốc mở ra cho Khơi những chân trời mới. Khơi có thêm nhiều bạn văn chương và những người hâm mộ. Người bạn Hoàng Năng Trọng vẫn lặng lẽ bên Khơi trong mọi niềm vui nỗi buồn. Thời kỳ này Khơi viết say mê với một bút lực dồi dào. Hoàng Năng Trọng luôn là độc giả đầu tiên các tác phẩm mới của Khơi. Năm 1992, Trọng mang một tập bản thảo của Khơi lên Hà Nội nhờ nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi thẩm định. Nhà thơ đọc xong rất mừng. Ông cùng Trọng chọn 37 bài để in. Đích thân nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi đi xin giấy phép và xin tài trợ in thơ cho Khơi. Tập thơ đầu tay Con chim thiêng vẫn bay của Khơi được xuất bản, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi lại tổ chức họp báo tại Hà Nội giới thiệu tác phẩm mà tác giả không thể có mặt. Khơi đã chinh phục bạn đọc bởi một hồn thơ mang mang bảng lảng những dự cảm tâm linh, những khắc khoải âu lo về kiếp người, về nỗi cô đơn trước Càn Khôn. Tôi quỳ trước Nỗi Buồn như quỳ trước Mẹ / Mẹ thiêng liêng và Nỗi Buồn cũng thế / Trước Mẹ – con được còn thơ bé / trước Nỗi Buồn – con sẽ lớn khôn lên (Buồn thiêng). Vỗ núi, trỏ sông bao lần hỏi đường / và chân chồn gối mỏi / và trong lòng thác gềnh đá dựng / không gian vô cùng / thời gian vô tận / Người có trong con không / Adiđà Phật (Thưa cùng Đức Phật).

Sau những thành công bước đầu, Khơi tiếp tục đọc và viết. Anh không chỉ làm thơ, mà còn viết truyện ngắn, lý luận phê bình văn học in trên các báo và tạp chí. Sách của anh liên tiếp được các nhà xuất bản in bao cấp và phát hành trên toàn quốc. Cho đến hôm nay số tác phẩm chưa xuất bản của Đỗ Trọng Khơi còn rất nhiều. Trong kho dữ liệu máy vi tính của anh còn cất giữ hàng ngàn bài thơ, một tập truyện ngắn, một tập tản văn, một tập lý luận phê bình. Anh vẫn đọc và viết không ngừng nghỉ.

Văn học không chỉ giúp Đỗ Trọng Khơi tìm thấy bản thân, mà còn làm thay đổi số phận anh. Từ năm 2000, bạn bè và những người quý mến Khơi đưa anh lên thành phố. Người thì làm công văn, người đi lo thủ tục hành chính nhập khẩu, rồi xin đất cho anh. Mọi chuyện thuận lợi vì Khơi sống trong tình cảm của xã hội, hơn nữa anh là con liệt sĩ, cháu của một bà mẹ Việt Nam anh hùng. Khơi đã có ngôi nhà tầng khang trang, là nơi lui tới của bạn bè văn nghệ sĩ khắp trong Nam ngoài Bắc. Hoàng Năng Trọng đã tìm giáo sư đầu ngành mổ khớp háng cho Khơi, giải thoát cho anh khỏi cảnh nằm liệt một tư thế, để anh có thể ngồi xe lăn và sinh hoạt thoải mái hơn. Sự thay đổi tình trạng sức khỏe đã tạo ra một bước ngoặt lớn lao cho cuộc đời Khơi. Một người con gái là bạn đọc của Khơi ở tận phương trời Nam đã tìm đến với anh. Và một kỳ tích đã đến: Vợ Khơi sinh cho anh một bé trai khỏe mạnh và tuấn tú. Khơi đặt tên con là Đỗ Lập Sơn, và anh bảo đó là Đại kiệt tác của mình. Bố Khơi hy sinh chỉ có mình anh là trai, giờ anh có bé nối dõi dòng họ Đỗ, thật là phúc đức Trời cho. Đường Văn đường Đời của Khơi thế là viên mãn. Hoàng Năng Trọng nay là Phó Giáo sư – Tiến sĩ, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Y Thái Bình. Không chỉ lo cưới vợ cho Khơi, Trọng còn sắp xếp việc làm cho vợ và cháu Khơi. Hôm mừng cháu Đỗ Lập Sơn đầy tháng, mấy anh em làm một cái tiệc nhỏ. Chúng tôi cùng nâng ly, Trọng nói với tôi: “Em đi nhiều nơi, khi giới thiệu, người ta cứ kèm thêm mấy chữ Bạn của nhà thơ Đỗ Trọng Khơi, thấy rất vui và vinh dự anh ạ.” Khơi bảo: “Trọng là một trí thức có học vị cao sang, lại là quan chức, còn em chỉ là anh thường dân, người ta cũng giới thiệu em là Bạn của Tiến sĩ Hoàng Năng Trọng, em thấy thật vinh dự và tự hào.” Hai người bạn cùng cười. Họ đáng tự hào về nhau lắm. Tình bạn của Đỗ Trọng Khơi và Hoàng Năng Trọng đúng là câu chuyện cổ tích thời hiện đại. Ở đây không có Tiên, có Phật, nhưng có tình người trong sạch và lý tưởng sống đầy danh dự và tự hào. Đời sống xã hội đang trong cơn điên đảo, đồng tiền che lấp chân lý, danh lợi hủy diệt lương tâm, thì tình bạn của Trọng và Khơi như khẳng định sự bất diệt của cái Thiện và tình người. Một tình bạn cao đẹp và có hậu. Có lẽ ông cha ta ngày trước soạn ra chuyện Lưu Bình – Dương Lễ cũng lấy tích từ những tình bạn thế này đây.

Đức Hậu

&

Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi

• Tên thật: Đỗ Xuân Khơi

• Sinh ngày 17-7-1960

• Quê quán: Trần Xá, xã Văn Cẩm, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

• Hoạt động: Bị bệnh hiểm nghèo phải bỏ học từ năm lên mười; tự học và khổ luyện ở nhà; đã công bố cho xuất bản mười tập thơ, một tập truyện ngắn, một tập lý luận phê bình; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001.

• Giải thưởng: giải Nhì cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ (1990-1991), hai giải thưởng hàng năm của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1993 và 2003), và một số giải thưởng khác.