← Quay lại trang sách

Nỗi niềm mây bay gió thổi

Căn nhà nhỏ góc dốc Đê La Thành đứng im lìm như một pháo đài biệt lập của một vị công tước. Dù đã đến đó vài lần, tôi vẫn phải hỏi thăm ông hàng nước bên cạnh, bởi chỉ sợ nếu vô tình nhầm lẫn sẽ bị một cái nhìn soi mói khó đỡ.

Cửa mở, cái cầu thang gầm ghì dẫn lên tầng hai. Phòng khách vắng hoe nhưng quạt trên tường vẫn chạy xối xả. Một tiếng gọi bất đắc dĩ giữa ma trận tường, cửa. Tiếng lạch cạch như từ đâu đó trễ nải lắm phát ra. Lời giãi bày đã thường trực đầu lưỡi, nhưng thật may, đó đã là dịch giả, tiểu thuyết gia Ông Văn Tùng.

“Bác làm em lúc nào cũng cứ ngờ ngợ.” - Tôi vừa thở vừa vào cuộc.

“Thì cứ tự nhiên chứ có gì đâu”, chủ nhà cười hỉ xả, xua tôi vào căn phòng nhỏ hơn có cái giường trúc và giá sách chồng chất, xởi lởi: “Nhà tôi kém nhà trong mơ của Đỗ Phủ có 999 gian, nhưng cũng cùng mục đích, là để dành chỗ trú mưa cho thiên hạ.”

Cái vị chủ nhà nhỏ thó, teo quắt như một miếng ô mai gừng này đến lạ. Ông cùng một lúc có thể làm được nhiều điều mà không cái nào nhầm lẫn với cái nào. Một tay lạch cạch đổ bã pha trà trong cái ấm chuyên bé bằng quả quýt, tay kia nhoay nhoáy bấm chuyển kênh bóng đá Euro, trận Đan Mạch – Bồ Đào Nha, mồm miệng vẫn rành rẽ những lời thế thái.

“Hôm qua tôi được giới thiệu là bác Tùng, nhà văn, với một bà hàng nước. Bà ấy quẳng cả rổ chén đang lau dở để vái. Bà ấy bảo em nể bác lắm, phục bác lắm. Bác viết cả cuốn sách dày đến thế, hay đến thế, bao nhiêu người biết tuổi biết tên. Tôi hỏi thế bà đang nói đến cuốn nào của tôi? Bà ấy bảo cuốn Búp sen xanh, về Cụ Hồ chứ gì. Tôi bảo thôi bà nhầm rồi. Đấy là nhà văn Sơn Tùng, anh hùng thời đổi mới. Còn tôi là Tùng Văn, Tùng bình thường thôi, sách của tôi cũng viết về đời sống bình thường như tôi với bà mà.”

Câu chuyện ý vị khiến căn phòng bớt đi vẻ cô liêu. Cái máy lạnh đã phập phào tỏa ra làn hơi mát mẻ. Tôi lựa thế duỗi chân duỗi cẳng cho thoải mái:

“Nhà văn có đông độc giả ở Việt Nam mình kể cũng hiếm, bác nhỉ.”

“Ờ... Phải rồi”, tác giả 80 tuổi đời, với hàng chục đầu sách vừa dịch vừa hư cấu, cuốn nào cuốn ấy chành chạnh như cục gạch, xuất bản khắp trong Nam ngoài Bắc, gục gặc. Ông chuyên trà ra tách, đẩy mời khách: “Nhưng cũng buồn cười lắm. Cái bà hàng nước ấy, sau một hồi ca tụng người văn, nghề văn, thì quay ra thở dài: Là em cũng nghe người ta nói thế, chứ em nào đã đọc đâu.”

Tôi bật cười: “Dân mình còn khổ lắm, bác nhỉ.” Ông Văn Tùng mò mẫm cái gì đó dưới gậm bàn, miệng vẫn rành rẽ: “Khổ là ở chỗ, dân ta vẫn thưởng thức văn học nghệ thuật theo phong trào. Nghe người ta bảo hay thì cũng hùa theo là hay, mà không biết hay ở điểm nào.” Rồi kết quả cuộc mò mẫm dưới gậm bàn của ông là cái điện thoại. Bấm tìm danh mục những cuộc gọi lịch sử, ông rành rẽ: “Đây này, tôi nhận được hàng chục, hàng trăm cuộc gọi. Ai cũng hỏi sao đợt này bác không được giải thưởng? (cấp Nhà nước – LTT). Lúc đầu tôi còn đùa, bảo chưa đến lượt, còn phải xếp hàng. Sau có người cứ gặng mãi, còn vạch vòi khích bác nọ kia, tôi phải cáu: “Ông có khinh tôi thì khinh vừa vừa thôi chứ. Làm gì mà tôi phải khổ sở với chuyện đó đến thế?” Không đợi tôi biểu thị sự đồng tình, nhà văn già ngồi thừ dựa gối, vừa nhấp trà vừa lẩm bẩm: “Cái đó khổ hơn chuyện sách chưa đến được với cộng đồng đấy, anh ạ.” Rồi câu chuyện của chúng tôi cứ thế vào gam lúc nào không biết. Nhà văn già chia sẻ:

“Có mấy điểm tôi muốn nói với anh.”

“Thứ nhất, viết văn là một nghề nghiêm chỉnh, đến mức thành nghiệp, có vinh có nhục của những kẻ cầm bút. Tôi bỏ dạy học đi viết văn, trái khoáy đã đành. Nhiều người còn bỏ cả sự nghiệp huy hoàng, bỏ cả phú quý vinh hoa, nhà lầu xe hơi, vợ đẹp con khôn, chạy theo những cái phù phiếm mung lung, oái oăm khôn xiết kể. Vậy cái đích đến là gì? Là cái lý tưởng thẩm mỹ cao sâu phụng sự đời, đạo. Anh viết văn, làm thơ, sáng tạo nghệ thuật, mà cứ nhăm nhăm để giành giải thưởng nọ, đoạt danh hiệu kia, thì đấy là mẫu của kẻ tranh đoạt, chứ nào có hay gì.”

“Thứ hai, sở dĩ nhà văn phải trăn trở phiêu diêu thức khuya dậy sớm, là vì thế thái nhân tình đòi hỏi họ. Cuộc đời cần những cống hiến hết mình của họ, ghi nhận những triết lý thâm hậu cùng vẻ đẹp đơn côi độc sáng của họ, chứ không vỗ tay theo những thứ thời thượng, hợp mốt, ăn theo nói hùa kiểu cá mương ăn đàn. Tất nhiên tại mỗi thời điểm thì cũng có những best-seller, lời câu khách, tưởng trời rung chớp giật lắm... Nhưng về lâu về dài, chỉ những gì thực sự giá trị, như vàng ròng, như trầm hương, thì mới còn tồn tại. Và vì thế tôi dửng dưng với những dư luận ồn ào nông nổi.”

“Thứ ba là về chuyện cầm cân nảy mực. Theo tôi, viết văn làm thơ còn có thể tào lao, bởi tùy từng tạng người, từng hoàn cảnh, mà người ta cống hiến, chứ giải thưởng là một chuyện nghiêm chỉnh. Nhất lại là giải thưởng của Nhà nước, của Chính thể, nó có tính tiêu biểu, tính quy phạm, tóm lại phải rất nghiêm túc, chứ không phải trò đùa, không thể yêu ghét bè cánh cảm tính tùy hứng được. Các nhà văn đã dồn hết công sức, tâm huyết cho những tác phẩm sáng tạo; công chúng đã dài cổ ngóng trông, theo dõi; thì Chính thể cũng phải có khuôn vàng thước ngọc mà đo đạc, mà đánh giá cho thấu đáo, tuyên vinh được cái công lao người ta, thế mới là lẽ đời chứ.”

Thấy nhà văn già cởi mở những điều sâu kín, tôi lân la dấn tiếp vào một trong những vùng nhạy cảm:

“Thưa bác, nhưng văn chương cũng là một mảng của đời sống kia mà. Vậy thì làm sao tránh khỏi sự khóc cười trong việc đánh giá, thưởng lãm? Hơn nữa, văn chương ở ta, trong một chừng mực nào đó, vẫn được đòi hỏi phải gắn với những mục tiêu chính trị của xã hội?”

Ông Văn Tùng nhỏm dậy: “Vâng, văn chương không phải chính trị, nhưng chính thế nó mới là chính trị nhất. Nó là một hình thái ý thức riêng, không chạy theo những thứ chính trị dễ dãi, nên nó làm mẫu cho thứ chính trị cao cường. Tại sao cuộc đời dám coi văn chương là thiêng liêng? Vì nó thiết kế ra những viễn cảnh mà trong đó, tính nhân văn đứng trên, làm chủ, chứ không phải các bậc quân thần, lại càng không phải là những mưu mô xảo quyệt. Vậy thì nếu các nhà chính trị, các nhà quản lý mà biết, nhất định họ sẽ trân trọng những giá trị nhân văn lâu dài, thánh thiện của các nhà văn, chứ không đứng trên để ban phát.”

“Thế nhưng vẫn có chuyện người đời đánh giá các nhà văn qua sự khen thưởng?”, tôi vớt vát.

“Ờ, thì cuộc đời mà, có thế nọ có thế kia”, nhà văn già cười ngất ngưởng. “Nói thực nhé, trồng cam tốt khác, mà đưa cam lên cho vua rồi được khen, lại là chuyện khác nữa, anh còn lạ gì! Tôi cho rằng, viết cho hợp gu, để được khen, là hình thái hoạt động phản nghệ thuật nhất. Còn anh viết với niềm vui, với sự mê mải của bản thân, thì chuyện được khen sẽ là trung tính, có khi còn hơi phiền hà nữa.”

Câu chuyện của chúng tôi đang ngấp nghé đến đoạn rôm rả thì bỗng có tiếng í ới từ dưới nhà vọng lên. Một đoàn khách ba người, toàn cánh họa sĩ mỹ thuật gì đó xuất hiện, nghe bảo đang muốn tham vấn lão tác giả.

Tôi chưa biết xếp mình vào đâu, thì chủ nhà đã giới thiệu:

“Đây là khách đã hẹn tôi trước. Vì anh đến đột xuất nên tôi không kịp lui. Thôi không sao, cứ ngồi đây, càng vui.”

Rồi ông chỉ cho khách mới xem những bức tranh phong sương trên tường. Cả những ký họa thủy mặc thực ảo lẫn lộn. Thì ra, đó đều là những tuyệt phẩm của Trung Hoa phong kiến, bức thì của đích thân Tề Bạch Thạch múa bút, bức lại do Hoàng đế Càn Long ngự đề. Một vị khách loay hoay đứng ngồi không yên, cuối cùng không chịu được, đành ngỏ ý xin phép hút thuốc trong phòng. Ông Văn Tùng cười lớn: “Cứ hút, cứ hút! Lâm Ngữ Đường từng bảo: Nhà không có mùi khói thuốc thì không gọi là nhà.” Vậy là cả mấy vị khách, trong đó có tôi, được thể móc túi giở cặp, thuốc đỏ thuốc xanh, nhả khói mù mịt. Câu chuyện cứ thế lan man những nhạc, những tranh, những chè, rượu, giai nhân, phong tình cổ lục.

Bậc trưởng thượng cười dí dỏm:

“Tôi ngày trẻ đẹp trai phết đấy nhé, mặt như mặt trời”, rồi lục sách chỉ cho chúng tôi bức ảnh đen trắng chụp có lẽ cách nay cả nửa thế kỷ. Một trang tuấn kiệt đeo kính, áo sơ mi trắng hiển hiện, trông như thể chủ nhiệm hợp tác xã thủ công. Tôi đùa: “Bác hồi ấy vô chiêu quá, chẳng thấy văn chương đâu.” Lão nhà văn khấp khởi: “Con gái chạy theo nhiều phết.” Cả chủ lẫn khách cười nghiêng ngả. Tôi nghĩ thầm trong bụng, đúng là văn sĩ. Còn nhớ có giai thoại trên mạng, hồi trẻ Ông Văn Tùng bán bánh cửa ga Hàng Cỏ, thấy đôi trai gái đi qua, liền bỏ cả bánh chạy theo vì tưởng tay cô gái cầm hoa thơm. Cứ cái đà ấy thì làm gì chả bỏ cả nghề giáo để đi tìm lý tưởng, đuổi hình bắt chữ.

Vị khách trẻ tuổi nhất trong đám họa sĩ tỏ vẻ thán phục nhà văn già: “Em thấy bác cũng thuộc vào loại Vua biết mặt, Chúa biết tên đấy chứ! Hôm vừa rồi thấy bảo cụ Nguyễn Khoa Điềm đến tận đây tặng thơ phải không ạ?” Ông Văn Tùng xua tay:

“Phải thơ ông ấy đâu. Đó là tập thơ của mẹ ông ấy, cụ Đạm Phương. Nhưng cái tình là quan trọng thôi, chứ họ cũng như mình, được cái nọ thì mất cái kia ấy mà.”

“Nhưng cũng phải công nhận, nhiều lúc mình ngây thơ thật”, chủ nhà tự kiểm điểm. “Tôi có cái nhà ở quê. Mình vô tư cứ mời hết người này người nọ về chơi, cứ nghĩ họ cũng như mình. Ai ngờ, mấy trăm cây số tàu xe, khổ bỏ mẹ. Hóa ra lắm lúc mình làm phiền người ta.” Câu nói nhẹ như lời gió thoảng, nhưng khiến không khí trong phòng như cũng chùng xuống. Nhà văn già bỏ kính lau mãi cái tròng lấp lánh.

Cảm thấy cái sự tếu táo đã hết, và mấy vị khách cũng đang úp mở chuyện riêng tư gì đó với lão văn sĩ, tôi lấy cớ đang dở việc ở báo, đứng dậy cáo lui. Nhà văn Ông Văn Tùng tiễn khách ra tận cửa, còn nói nhỏ: “Chuyện vui ấy mà, đừng coi là quan trọng nhé. Chỉ có nhân dân và thời gian thôi, còn thì như mây bay gió thổi.”

Ra khỏi cửa là ngược dốc. Mấy cháu học sinh đi học hè về phơi phới đuổi nhau. Vâng, mây bay gió thổi cả, nhưng hồn nhiên được như lũ nhóc kia thì mới sướng, phải không Lão văn sĩ quê Nghệ An Ông Văn Tùng?

Lã Thanh Tùng (thực hiện)

Nhà văn Ông Văn Tùng

• Sinh ngày 12-8-1936

• Quê quán: Nam Lĩnh, Nam Đàn, Nghệ An

• Hoạt động: Học cấp III ở Nghệ An. 1954: học ở khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc), trường Sư Phạm trung cấp. Về nước học tiếp khoa Văn, Đại học Sư Phạm. Sau đó dạy học ở một số trường cấp III tại Thanh Hóa, Quảng Bình, Nghệ An, Hà Sơn Bình, Hà Nội. Năm 1982: về hưu chuyên sáng tác văn học, dịch thuật, viết báo và phê bình khảo cứu.

• Tác phẩm chính: tiểu thuyết: Khát vọng đau đớn (1989, tái bản nhiều lần); Pháp trường trắng (1990); Những linh hồn bị hành quyết (1991, tái bản nhiều lần); Biệt thự phù du (1992); Gót đỏ quyền uy (1992); Tiếng chim kêu lúc nửa đêm (truyện ngắn, 1993); Cuộc tìm kiếm vô vọng (1995, tái bản nhiều lần); Những kẻ lắm tiền (1997, tái bản 2 lần); Bóng sao (truyện ngắn, 2002), Thiên vọng (tiểu thuyết dịch, 2009); Hoàng cực kinh thế (2010); Từ điển thành ngữ Hán – Việt (biên soạn, 1997)... Dịch khoảng hơn 30 tác phẩm văn học Trung Quốc cổ điển và hiện đại.

• Giải thưởng: Giải B văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam cho cuốn Khổng Tử truyện năm 1995. Giải B cuộc thi sáng tác văn học trẻ do nhà xuất bản Thanh Niên và tuần báo Văn Nghệ, năm 1995. Giải ba cuộc thi Cúp Giai Lệ do Đài phát thanh Bắc Kinh trao năm 1991. Nhiều tặng thưởng mục Nhàn đàm của tuần báo Văn Nghệ.