← Quay lại trang sách

- II - MATUTXANH (Matoussaint )

Làm gì bây giờ?

Tôi chỉ còn một cách, là đi tìm Matutxanh (Matoussaint)[4], người bạn cũ còn lại ở phố Cây-khô (l’Arbre-Sec). Nếu anh ta còn ở đấy, tôi sẽ thoát nạn.

Anh không còn ở đấy!

Matutxanh đã rời khỏi ngôi nhà đó từ một tháng nay, và người ta không biết anh dọn đi đâu.

Người gác cổng nói với tôi… người ta trông thấy anh đi với các ông thi sĩ, mấy ông tóc dài đến tận đây này.

“Đúng là thi sĩ, phải không? Thêm nữa ăn vận chẳng tươm tất lắm; thi sĩ mà lị, ông ạ, người gác cổng vừa nói vừa lắc lư cái đầu.”

Ồ! Phải, đó là thi sĩ, chắc thế!

Thời gian về sau, Matutxanh đã theo đuổi tán tỉnh cô cháu gái một bà bán hoa quả ở phố Viơ-Ôguyxtanh.(Vieux-Augustins)

Cô này, theo lời Matutxanh thổ lộ với tôi, đâu như cũng có một ông bác đã đi chiếm ngục Baxti (Bastille) thì phải? Ông này vẫn còn giữ thái độ tôn sùng địa điểm đó và bao giờ ông cũng ngồi trong quán ruợu vang ở góc phố, rồi chiều đến ông rời quán say khướt, miệng chửi um mụ góa Capê (Capet)[5]. May ra tôi sẽ gặp ông đang chúi mũi vào cốc rượu, và ông sẽ chân nam đá chân xiêu chỉ đường cho tôi đi tìm bạn.

Than ôi! quán rượu đã bị phá. Nó đã bị cuốc xẻng đánh sập và tôi chỉ thấy có một gã bói bài lá mời tôi bói một quẻ.

“Bao nhiêu?

- Hai xu, quẻ nhỏ.”

Tôi rút một quân bài - vì mê tín – để lấy số tử vi, để xem tương lai tôi sẽ ra sao. Vài ba người khác cũng làm như vậy.

Khoảng năm phút sau, gã bói bài lá đã dụ dỗ được chúng tôi, một cô sen, hai người thợ nề và tôi, gã dẫn chúng tôi đi như một toán lính mới do một viên cai chỉ huy tới hàng bán rượu lẻ gần đấy. Tới đó, gã nhìn chúng tôi với một vẻ khinh khỉnh:

“Át cơ!

- Tôi rút được con át cơ.”

“Thưa ông, gã phù thủy vừa kéo tôi lại gần vừa nói, ông muốn bói quẻ lớn hay quẻ nhỏ?”

Tôi cảm thấy là nếu tôi bảo mình bói quẻ nhỏ hắn sẽ đoán cho tôi những chuyện tự tử, ốm đau, thơ thẩn, toàn những tai họa; tôi liền bảo bói quẻ lớn.

“Thêm ba xu nữa!”

Tôi trả thêm ba xu.

“Ông có thết một cốc vang không?”

Tôi đang trên đà bị khiếp nhược. Nếu hắn đòi nửa lít, tôi cũng đắt nửa lít, thậm chí một lít tôi cũng xuôi theo.

Người ta mang cốc tới.

“Chúc ông sức khỏe!”

Hắn uống, lấy tay chùi môi, nắn cái mũ và bắt đầu nói:

“Ông có vẻ nghèo, ông ăn vận xoàng xĩnh, vẻ mặt của ông mọi người không ưa; có một người muốn làm hại ông sẽ làm cản trở con đường của ông, những người muốn điều hay cho ông thì bị ngăn chặn, nhưng ông sẽ thắng được tất cả những trở ngại đó nhờ một người thứ ba sẽ tới vào lúc bất ngờ nhất. Muốn biết được tên người đó thì phải bói quẻ yêu thuật. Mất năm xu thì biết được hết.”

Hắn ta vội vã tống khứ tôi đi.

“Ông sẽ phải sống chật vật tới năm bốn mươi tuổi; bấy giờ ông nghĩ tới chuyện lấy vợ, nhưng muộn quá: người mà ông thích sẽ chê ông già quá, xấu quá, và người ta sẽ đuổi ông ra khỏi gia đình.”

Hắn đẩy tôi ra ngoài hành lang và gọi con mười tép.

Chỉ còn nước đi tìm cô nhân tình của Matutxanh.

Không may, tôi chỉ biết mặt và biết tên riêng của cô ta. Matutxanh đã đặt tên cho cô là Toócsônet.(Torchonette)

Tôi đi đi lại lại trong phố Viơ-Ôguýtxtanh (Vieux-Augustins), men theo vỉa hè, tìm các bà bán hoa quả: có độ hai ba bà cả thảy. Tôi đứng sừng sững trước những đống bắp cải và rau xà lách để nhìn phụ nữ qua lại; tất cả họ trông thấy tôi lượn đi lượn lại với bộ điệu như con khỉ, vì tôi nhăn mặt để làm ra vẻ tự nhiên và tôi vặn vẹo người như một thằng cha đang nghĩ đến những chuyện bẩn thỉu… chắc là tôi giống khỉ thật sự.

Tôi không thể tới chỗ các bà bán hoa quả mà nói với họ rằng:

“Bà có một cô cháu gái nào tên là Toócsônét yêu ông Matutxanh không? Bà có người bà con ngày nào cũng uống rượu say ở phố Baxti không?”

Tôi chỉ có thể chờ đợi, tiếp tục la cà trước các cửa hiệu, may ra sẽ trông thấy Toócsônét (Torchonette) đi qua.

Tôi đã ngốc nghếch đến như vậy, tôi đã gan đến như vậy, trông mong ở sự tình cờ và tôi đã đi lại hàng mấy giờ trong phố này, bọn cảnh sát gườm gườm theo dõi: thái độ của tôi thật khả nghi, cuộc đi lượn thật tẻ ngắt, đáng lo ngại.

Vừa hay có một hiệu đồng hồ và có nhiều đồng hồ bày trong tủ kính bên cạnh. Nếu tối nay người ta phát hiện ra một vụ ăn trộm trong khu phố này chắc người ta sẽ khai ra tôi đã tới rình mò hoặc lấy giấu những ổ khóa. Tôi sẽ bị bắt và có thể sẽ bị kết án.

Cho tới giờ ăn trưa thì tôi đã báo động hai mươi lần, vì hai mươi lần ngỡ nhận ra tình nhân của Matutxanh, và hai mươi lần làm cho các cô gái đứng ở cửa xưởng hoặc cửa hàng bán sữa phải bật cười.

- Không hiểu cái thằng gà tồ kia là ai mà cứ nhìn vào tận mặt tất cả mọi người?

Các cô vừa chỉ trỏ tôi, vừa cười nhạo, thế là tôi đỏ mặt tía tai.

Tôi chạy trốn vào các phố lân cận, tôi đi vào những ngõ bẩn thỉu hôi thối; ở đó những người đàn bà mặt tím ngắt, áo mầu hoa cà, giọng nói khàn khàn, làm hiệu với tôi và nắm tay áo kéo tôi vào những ngõ hẻm ngập bùn. Tôi vùng vẫy thoát khỏi tay họ, những lời tục tĩu trút lên đầu như mưa, và tôi quay lại phố Viơ-Ôguyxtanh, xấu hổ và mệt đến chết.

Có những người cho tôi là một tên chỉ điểm.

“Đúng là một thằng bọn ấy, tôi nghe thấy một người thợ nói với một người khác.

- Nó còn trẻ quá.

- Nói thế! Như con trai mụ Sôvê trước thuộc lính cơ, nay chẳng là cớm đấy thôi?”

Trời nóng nực. Mặt trời hun đốt rác rưởi ở các miệng cống và làm thối rữa những lá bắp cải vứt trong rãnh nước. Từ cái phố bị chân giẫm nhầy nhụa, hai bên có hàng bán thịt, cá rán này, xông lên một mùi bùn và mỡ làm tôi buồn nôn.

Hai bàn chân tôi ứ máu và đầu tôi như lửa đốt. Tôi lên cơn sốt đột ngột và óc tôi sôi lên làn chì lỏng trong đầu.

Tôi rời khỏi địa điểm quan sát của tôi để chạy tới một chỗ thoáng khí hơn và tôi ngồi phịch xuống một chiếc ghế dài của đại lộ, mắt nhìn đám đông đi lại như nước chảy.

Tôi từ tỉnh lẻ tới, ở đó cứ mười người thì có đến năm người quen biết anh. Ở đây khách qua lại hàng trăm ngàn người: tôi có thể chết mà không một người qua đường nào để ý thấy!

Mà cũng không còn cái vẻ hiền lành của đường phố đông dân tôi vừa rời khỏi.

Trên đại lộ này, đám đông thay đổi không ngừng; đây là máu của Pari đang dồn về tim và tôi bị lạc trong cơn lốc đó như đứa bé lên bốn bị bỏ rơi trên một quảng trường.

Tôi đói!

Có nên đụng vào những đồng xu còn lại không?

Tôi sẽ ra sao nếu tiêu hết tiền mà vẫn chưa gặp được Matutxanh (Matoussaint)? Tối nay tôi sẽ ngủ ở đâu?

Nhưng dạ dày tôi kêu lên và tôi cảm thấy đầu tôi như to ra và trống rỗng; người tôi rờn rợn như có những mảnh giẻ nóng lướt trên.

Thôi! đành phải như vậy!

Tôi tới hiệu bánh mì mua một chiếc bánh nhỏ một xu và tôi ngoạm vào nó như con chó.

Ở quán rượu góc phố, tôi hỏi mua nửa góc chai.

Ôi chao! cốc rượu vang mát lạnh ấy, cái giọt đỏ thắm ấy, chén máu ấy!

Uống xong mắt tôi lóa sáng, đầu óc tỉnh táo và tim nở ra. Nó như lửa vào mạch máu tôi. Chưa bao giờ dưới bầu trời tôi thấy một cảm giác mãnh liệt đến thế!

Trước đây một phút, tôi đã định lê gót quay lại bến xe Sở vận tải và xin được trở về nhà, dù tôi có phải chải ngựa và khuân hòm lên mui xe để trả tiền lượt về. Phải, ý nghĩ hèn nhát đó đã thoáng qua trong óc tôi, giữa lúc mệt mỏi đè nặng và trong cơn đói chóng mặt. Chỉ cần có cốc vang đó là tôi khỏe lại, và tôi lại vươn thẳng mình trong thác người cuồn cuộn!

(Một tai nạn vừa xảy ra. Mọi người đổ xô lại. Tôi bước tới gần. Một con ngựa ngã quỵ, một chiếc xe gẫy. Phải nâng một bên càng xe lên, dô-ta nào! Họ nâng không nổi. Tôi bước lại và luồn mình xuống càng xe. Chiếc xe đè dúi tôi xuống, tôi sắp ngã và bị đè bẹp. Mặc kệ, tôi không buông! - và chiếc xe bò lại đứng lên được.

Tôi không thể tả được lòng tự tin đã trở lại với tôi như thế nào vì đã can đảm không buông khi tôi tưởng mình sắp bị đè chết tại chỗ, lặng lẽ, âm thầm, và sau đó khi mọi người xung quanh có vẻ tin rằng cái thích vai của tôi đã giải quyết tất cả, thì mặc dầu có tỏ vẻ nhũn nhặn và làm mặt đạo đức giả, tôi tưởng như sắp chết ngại vì kiêu hãnh.

Tôi còn mười hai xu). Lúc này đã hai giờ chiều.

Tôi đã rộp cả bàn chân mà vẫn không thấy Toócsônét ở chỗ các bà bán hoa quả.

Tôi sẽ ra sao đây?

Ban nãy đi qua một phố hẻm, tôi đã trông thấy một quán trọ với giá sáu xu một đêm. Tôi có nên đến ngủ trọ ở đó, với bọn gái điếm, giữa đám ma cô và ăn cắp ấy? Nơi đó có trụy lạc và tội ác! Đành phải đến đó thôi.

Thế ngày mai? Ngày mai, tôi sẽ lâm vào tình trạng du thủ du thực.

Lại một cốc vang nữa!

Thế là hụt mất hai xu, nhưng lại thêm được một nghìn phơ răng can đảm!

- Nửa góc chai nữa, tôi nói với lão bán rượu với vẻ ngang tàng làm như lão ngỡ tôi là một tay ăn chơi ghê gớm vì mới chỉ cách một tiếng đồng hồ mà tôi đã uống tới hai lần; làm như lão có thể nhận được mặt tôi không bằng.

Tôi đưa ra mười xu để trả tiền rượu - một đồng hào trắng chứ không phải mười xu đồng; khi người ta nghèo thì người ta thường đổi những đồng hào trắng lấy tiền xu.

“Một hào: đây còn sáu xu - Lão trả tôi số tiền lẻ.”

- Tôi uống có một cốc.

- Thì ông bảo: một cốc nữa mà lị..

- Ừ phải.

Tôi không dám giảng giải, kể lể là tôi ám chỉ cốc rượu uống từ lúc nãy; tôi vừa nhặt tiền người ta trả lại vừa thẹn đỏ mặt, và tôi nghe thấy lão bán rượu nói với vợ:

- Nó định quịt của mình nửa góc, thằng xỏ lá ấy!

Tôi không tìm thấy Maitutxanh!

Hay tôi đi gõ cửa nơi khác?

Chẳng phải Roayani(Royanny) đã tới Paris học luật đấy hay sao? Chắc cậu ta đang học năm thứ nhất, tôi sẽ tới Trường, đợi cậu ta ở cửa lớp.

Thôi được! Cứ thế.

Tôi biết đường: đó là con đường đi dự kỳ thi lớn, ở mé trên đường Xoocbon (Sorbonne).

Tôi đã tới nơi!

Đối với đám sinh viên tôi lại giở cái trò như hồi nãy đối với các bà bán hoa quả. Hễ giống Roayani tôi lại chạy theo; tôi vồ phải các cụ già làm các cụ phát hoảng, tụi con trai thì chúng đâm giữ thế thủ, tôi lên tiếng với những Roayani mà không phải; vẻ mặt tôi ngơ ngác, cử chỉ bồn chồn.

Cái làm tôi mỏi mệt kinh khủng, chính là chiếc áo choàng mặc rét tôi dùng để đắp ban đêm trên xe ngựa, mà tôi đã mang trên người từ lúc tới Pari, như một con sên tha cái vỏ của nó, hoặc như một con rùa tha cái mai rùa.

Nếu để chiếc áo lại Sở vận tải, thì sợ nó bị lạc mất, bị ăn cắp. Hơn nữa tôi cũng có ý làm đỏm một chút; mẹ tôi luôn luôn nói rằng không gì lịch sự hơn chiếc ba-đờ-xuy vắt trên tay một người đàn ông, nó làm cho bộ cánh hoàn chỉnh, chứ như nông dân thì họ không có áo ba-đờ-xuy, cả công nhân hay bất cứ một người hạ lưu nào khác. Tôi đã vắt chiếc ba-đờ-xuy lên tay với cái vẻ hững hờ của quý tộc.

Chiếc ba-đờ-xuy đó mầu vàng - một mầu vàng khác thường, với nhiều cúc to tướng trông thật xấu trên nền vải thô cứng đó. Chiếc áo có vẻ bị thổ tả.

Ở phố Viơ-Ôguxtanh hay trên các đại lộ người ta không để ý tới nó, hoặc giả tôi không nhận ra điều đó, nhưng ở đây thì nó làm kinh động. Người ta ngỡ là tôi muốn bán áo; đám thanh niên thì ghê tởm quay đi, nhưng đám buôn áo cũ thì sán tới.

Họ cầm lấy vạt áo, sờ vào bộ cúc, như thầy thuốc chữa bệnh đậu mùa, rồi bỏ đi; nhưng chẳng ai trả tôi một giá. Họ lắc đầu chán nản, như thể dạ kia là lần da bệnh tật mà tôi thì đi đời mất.

Và chiếc ba-đờ-xuy, nó mới nặng làm sao chứ!

Chạy theo hết người này đến người nọ, gió lộng, và cả khối vải nặng trên tay, cuối cùng tôi đến kiệt sức, đói như cào, thèm rượu.

Tôi đã ăn một chiếc bánh mì con, uống hai nửa góc chai, mà tôi vẫn còn khát, vẫn còn đói! Thêm cái bệnh ăn không biết no nữa!

Chẳng thấy Matutxanh, chẳng thấy Roayani!

Tôi bèn quyết định là vào hẳn giảng đường. Tôi đã gây xúc động lớn, nhưng vẫn không thấy người tôi tìm.

Các lớp học lần lượt vợi người. Học sinh lần lượt ra về, các giáo sư rút lui. Chỉ còn lại mỗi mình tôi ở cầu thang, ở trong sân, - tôi với chiếc áo choàng màu vàng.

Bác gác cổng đã để ý tới tôi, và đến lúc đẩy cánh cổng to trên bản lề của nó, bác đưa mắt tò mò nhìn tôi; tôi như thấy cả sự hiền hậu trong mắt bác.

Chắc từ khi ở cái trạm gác này bác đã trông thấy vô khối những anh học trò nhút nhát, và những anh nhà nghèo. Hẳn bác đã nghe nói nhiều chuyện kết thúc bi thảm và những bước đầu đau đớn, qua những trò chuyện lõm bõm lọt vào tai bác. Có lẽ bác ta sẽ mách bảo tôi chăng.

Tôi vẫn không dám hỏi và tôi quay mặt đi, miệng khẽ huýt sáo như một anh chàng dẫn chó đi chơi hoặc đang đợi cô bạn gái, và sở dĩ có chiếc ba-đờ-xuy vàng là vì anh ta thích cái màu ấy.

Cánh cổng quay, quay, rít lên, hai cánh xích lại gần nhau, ập lại - thế là hết!

Nó giơ ra với tôi một bộ mặt chết lặng. Tôi không biết Matutxanh ở đâu, tôi không tìm thấy Roayani. Tôi sẽ đến ngủ ở cái phố có nhà trọ sáu xu.

Tôi giơ quả đấm lên, với tòa nhà đóng kín, nó đã không cho tôi biết địa chỉ của một người bạn thân, tới đó tôi có thể xin một chỗ ngủ và được một lời khuyên.

Tại sao tôi đã không hỏi thăm bác gác cổng trông có vẻ tốt bụng ấy? Tôi thật là thằng nhát!

Chà! giá bác ta ra đây…

Bác ta ra thật.

Tôi can đảm bước tới gặp bác; tôi hỏi - nhưng tôi định hỏi cái gì đây? - Tôi không rõ, tôi ngập ngừng, tôi lúng búng; bác khuyến khích tôi và cuối cùng tôi nói là tôi tìm một anh tên là Roayani và chắc Nhà trường có địa chỉ của anh ta, vì Roayani là sinh viên luật.

“Anh đến gặp ông thư ký của Khoa, ông Rơbun.”

Bác quay vào trong Trường cùng với tôi và chỉ cho tôi lối lên cầu thang.

Ông Rơbun thân ra mở cửa - một ông xanh xao, chậm chạp, vẻ mặt buồn bã, da ngón tay xám xịt.

“Anh muốn gì? Buồng giấy đóng cửa rồi… Có ai đi cùng với anh đấy?”

Ông nhìn ra xó cửa.

Hóa ra tôi đã dựng chiếc áo choàng màu vàng của tôi ở đó, trông như một người thật; ông Rơbun đâm sợ và đẩy tôi ra ngoài cầu thang.

Bác gác cổng đón tôi, tôi lại vớ lấy chiếc áo choàng như người ta vực một người bại liệt dậy và tôi bỏ đi, còn ông Rơbun thì chèn cửa buồng lại.

“Anh nghe tôi, bác gác cổng nói, trong khi quét dọn, để tôi tìm cách ngó vào sổ. Anh cứ làm như là người phục vụ ở đây, và xuống phòng đăng ký.”

Tôi làm như người phục vụ. Tôi cất mũ vào một xó và tôi xắn tay áo lên. Chà! giá như tôi có một chiếc gi-lê đỏ thay chiếc áo choàng vàng!

Chúng tôi vào buồng giấy và tìm vần R.

Ro… Ro… Roayani (Bơnoa) (Royanny (Benoît), phố Vôgira (Vaugirard), số 4.

Bác gác cổng vội gập sổ lại cất vào chỗ cũ.

Tôi cảm ơn bác ta.

“Không có gì, không có gì. Nhưng chuồn đi nhanh lên! Nhỡ ra ông Rơbun đến, ông ấy mà trông thấy chiếc áo choàng của anh là có thể kêu cứu đấy!”

Chú thích:

[3] Việc giao thông vào hồi 1851 thường làm như thế.

[4] Tên thật là Sác-Luy Sat xanh; sau này là một sử gia tiến bộ.