- III - KHÁCH SẠN LIXBON (Lisbonne)
Số 4, phố Vôgira (Vaugirard)… khách sạn Lisbon (Lisbonne)? Ở góc phố Ông-Hoàng (Monsieur-le-Prince).
Tôi hỏi ông Roayani.
“Ông ta không có nhà. Ông muốn hỏi gì ông ấy? Hay ông là người quê ở Năngtơ chăng?…”
Bà gác cổng nom người hoạt bát hỏi tôi đột ngột liền một mạch.
“Tôi không phải là người quê ở Năngtơ, nhưng tôi đã học cùng một trường với ông ấy.
- À! trước ông đã ở Năngtơ hả? Ông có biết ông Matutxanh không?
- Ông Matutxanh à? có biết.”
Tôi kể cho bà ta câu chuyện của tôi. Thì đúng là tôi đi tìm ông Matutxanh từ năm giờ sáng đến giờ!…
“Cái nhà ông ấy quả là ngộ nghĩnh, hả! Ông ta ở trên gác, cạnh buồng ông Roayani - ông này bảo lĩnh cho ông ta, ông hiểu chứ - ông Matutxanh không có lấy một xu dính túi… màu mỡ riêu cua… cái hạng viết lách ấy mà.”
Tôi thấy những người gác cổng hình như đều có ý kiến giống nhau về các nhà văn.
“Thế ông Matutxanh có nhà không?
- Không, nhưng ông ta sẽ không lỡ bữa ăn tối đâu. Ông cứ yên trí! khi nào tới giờ ăn, ông sẽ thấy ông ta về với chiếc gậy đội trưởng kèn trống và chiếc mũ làm vườn của ông ấy.”
Quả nhiên, một lát sau, qua khung cầu thang tôi thấy nhô lên một chiếc mũ to mà bên dưới không nhìn rõ ai cả - vành mũ vẫy vẫy như đôi cánh một con chim lớn đang quắp một con cừu bay lên trời.
“Cậu đấy à?…
- Matutxanh!
- Vanhtrax!”
Chúng tôi lao vào tay nhau và ôm nhau.
Chúng tôi ôm lấy nhau.
Tôi không dám bỏ ra trước, e rằng như vậy tỏ ra mình ít cảm động, và tôi đợi anh ta buông ra trước. Chúng tôi như hai tay đô vật đang rình miếng nhau - một cuộc đánh vật tình cảm mà rồi Matutxanh sẽ thắng Vanhtrax. Matutxanh hiểu biết thói tục hơn tôi và biết ôm hôn nhau phải mất bao nhiêu lâu; khi nào thì phải ngẩng lên, khi nào thì phải nghiêm túc lại. Đã được một lúc lâu tôi tưởng cảm động như thế là đủ, thế mà Matutxanh vẫn ôm chặt lấy tôi.
Cuối cùng, anh thả tôi ra: chúng tôi vuốt tóc lại, và anh bảo tôi kể tóm tắt lại câu chuyện của tôi.
Tôi kể anh nghe việc tôi đi săn lùng Toócsônét.
“Không còn Toócsônet nữa: bây giờ người yêu của tôi là Ăngiơlina. Tôi sẽ giới thiệu cậu với cô ta. Cậu theo tôi. - Và anh dẫn tôi đến trước mặt cô Ăngiơlina.
- Anh giới thiệu với em một cậu em trai - cậu em thứ hai, Vanhtrax, mà anh thường vẫn nói với em, và bây giờ hắn đến để chia sẻ với chúng ta chiếc bánh vui đời (quay sang tôi), cậu đến vì cái đó, phải không?
Tương lai chúng ta rồi nở rộ
Dưới mặt trời của tuổi hai mươi.
Ta hãy yêu nhau và hát nữa,
Tuổi thanh xuân chỉ có một thời!
Tất cả cùng hát điệp khúc, ê, mấy người hát đi!
Ta hãy yêu nhau và hát nữa,
Tuổi thanh xuân chỉ có một thời!
Ăngiơlina là một cô gái cao gầy, da xanh, mũi nhọn, nhưng cặp môi thanh tú.
“Chà! anh biết đấy, cô ta nói, sau khi đã hát điệp khúc, ông hàng bánh mì đã tới, và ông bảo là nếu không thanh toán cái hóa đơn vừa rồi, ông sẽ không đem bánh mì Jôckô[6] lên cho nữa.
- Thế Roayani?
- Roayani a! anh ấy đi đến nhà cầm đồ Côngtrexcacpơ xem người ta có nhận chiếc quần của anh ấy không, ở hiệu Côngđê người ta từ chối.
Matutxanh, vừa treo chiếc mũ to tướng của mình lên mắc áo trên tường (như một người Hy-lạp mắc chiếc khiên của mình), giờ đứng gãi trán.
- Em thấy đấy, em ạ, cảnh bần cùng cứ đeo đuổi mãi bọn anh.
Em? – à! Tức là tôi! – Tôi không nghĩ ra nữa. Tôi chưa từng có anh em trai bao giờ, và tôi không thể làm quen với tiếng gọi âu yếm đó ngay tức khắc.
- Nhưng này, anh đổi giọng, cậu vừa mới tới hả? Chắc cậu phải có tiền? Những người mới tới bao giờ cũng có túi tiền.
Tôi lên bản thống kê tài sản của tôi.
Ăngiơlina nhìn tôi với một vẻ khinh bỉ.
- Thế còn cái này Matutxanh vừa nói vừa vồ lấy vật đã theo tôi nhằng nhẵng từ sáng nay và đã làm người ta tưởng lầm là một người ốm, một thằng ăn cắp; cái này, cài này có thể đem cầm được đấy!
Ăngiơlina nhún vai nhô lên đến tận trần nhà.
- Thì vẫn có thể bán đi được: Cậu có muốn bán đi không? Cậu có thiết tha với cái của vàng da này không?
- Không…
Một tiếng “không” giả dối.
Tội nghiệp chiếc áo choàng cũ kỹ! trông nó xấu xí thật và hôm nay nó đã làm tôi phải chịu bao nỗ nhục nhã, nhưng tôi đã quen với nó như với chiếc bàn chiếc ghế trong nhà. Nó đã làm tôi nóng bức và đã đè trĩu lên cánh tay tôi suốt cả buổi chiều hôm nay, nhưng ban đêm nó đã ủ cho tôi khỏi rét. Tôi sẽ còn phải qua nhiều đêm lạnh lẽo nữa trong đời tôi! Những mùa đông sắp tới, tôi có thể dùng nó làm chăn nếu giường tôi chỉ có mỗi một cái chăn thôi. Hơn nữa, nó đã từng khoác lên lưng thầy tôi, vị giáo sư, trước khi thải cho tôi! Bọn học sinh đã cười nó, nhưng đấy chỉ là sự tàn bạo của một cuộc bán hạ giá mà cuộc bán tầm tầm một đồ cũ, mặc dù trông nó lố bịch, nhưng nó vẫn có cái hương vị của một di vật…
Những ý nghĩ đó chỉ kéo dài trong chốc lát. Thật là một dấu hiệu xấu, nếu tôi lại đa sầu đa cảm như thế khi mới bước vào sự nghiệp!
- Xuỵt, xuỵt! Ô này! Ông buôn bán áo cũ.
Người buôn áo cũ leo lên gác và mua cái di vật đó với giá bốn hào.
Bốn hào ấy, cộng với tám xu còn lại của tôi, đã đem lại niềm vui đời cho căn gác xép.
Bánh mì, một lít vang, sườn lợn nấu xốt: có tất cả những thức đó trong bốn hào tám của chúng tôi!
Chính tôi sẽ đi đặt mua. – Tôi sẽ nói: “Sườn lợn với nhiều dưa chuột vào”, và khi người bồi đem cái hộp sắt tây tới, tôi sẽ cho hắn hai xu tiền diêm thuốc; tôi sẽ cho hắn hẳn ba xu chứ không phải hai, tôi có quyền chơi ngông để phương hại đến tương lai của tôi.
Quả là chúng tôi đã ăn một bữa tối rất ngon!
Chúng tôi đã gắp thăm xem ai được ăn khoanh dưa chuột cuối cùng, chúng tôi vẫn còn tiền để mua một ổ bánh mì to, uống cà-phê, và chúng tôi đã la thét cười đùa, hát hỏng cho tới khi Ăngiơlina nói là đã đến lúc phải tìm một chỗ nào để nhét tôi đêm nay. Bà gác cổng mà tôi đã nói cho biết việc ông Truytsê, sẽ vui lòng cho tôi ngủ trọ nếu còn chỗ và sẽ cho tôi chịu tiền trong vài ba ngày. Nhưng hết chỗ rồi.
May sao bà ta lại nhớ ra rằng bên nhà Riffo có nói chuyện với bà là còn một buồng để trống. Vợ chồng Riffo là chủ một khách sạn ở phố Đôphin, số 6, gần tiệm cà-phê Côngti.
Bằng cái chính tả của người gác cổng, bà viết vài chữ cho vợ chồng Riffo là chỗ quen biết, xưa kia cũng gác cổng như bà trước khi làm nên.
Cầm mẩu giấy nhờn mỡ như ngón tay người hàng thịt đã bán món sườn lợn, tôi cùng Matutxanh tới phố Đôphin, và mặc dầu đã nửa đêm, người ta vẫn mở cửa và dẫn tôi tới căn buồng để trống.
Tôi leo lên buồng đó bằng một thứ cầu thang, bậc đã mục, tay vịn là một chiếc dây thừng mốc meo và nhầy nhụa; ở tít trên cao, giữa bốn bức vách, một chiếc ghế đã lòi cả rơm, một cái bàn khập khiễng, một cái giường thấp lè tè bằng gỗ đỏ, trên phủ một chiếc chăn len bụi bặm – bụi bặm như khi len còn ở trên lưng cừu; - gió lung lay cánh cửa sổ đã nứt và lùa vào buồng qua một ô kính vỡ.
Ngay Matutxanh cũng có vẻ khiếp; anh suýt ngã gẫy lưng lúc xuống cầu thang.
- Anh ngã đấy à?
- Không.
Nhưng tôi biết Matutxanh không ưa thú thật là mình ngã, hồi còn đi học khi chẳng may bị vồ ếch bao giờ anh cũng cười (cười nhợt nhạt) và bảo mình cố ý.
TÔI Ở NHÀ TÔI!
Căn buồng này trông tiều tụy, nhưng tôi sẽ chỉ mở cửa đón tiếp những ai tôi thích, tôi sẽ đóng sập cửa vào mặt ai tùy ý tôi; tôi sẽ kẹp vào khe cửa ngón tay kẻ nào đuổi không chịu đi, tôi sẽ cho nó lăn xuống chân cầu thang khi bất kỳ kẻ nào chửi tôi, dù tôi có ngã lăn theo nó nếu tôi không khỏe hơn nó, có thể là như thế, cả hai đứa cùng lăn xuống.
TÔI Ở NHÀ TÔI!
Tôi lượn quanh trong buồng như một con gấu cọ người vào tường…
TÔI Ở NHÀ TÔI!
Tôi muốn thét to điều đó! Tôi phải lấy tay bịt miệng lại để chặn tiếng gào thú vật đó…
Tôi đã tận hưởng niềm xúc động đó hai tiếng đồng hồ rồi.
Cuối cùng tôi ngả lưng lên chiếc giường mong manh, và qua các ô kính rạn nứt tôi nhìn bầu trời, tôi thả ngập trời những mơ ước của tôi, tôi gửi vào đó những hy vọng của tôi, tôi vạch lên đó những lo sợ của tôi; tôi tưởng như quả tim tôi – y hệt một con chim – đang bay lượn và vỗ cánh trong không trung.
Rồi giấc ngủ kéo đến… giấc mơ chập chờn trong óc kẻ thoát ngục…
Cuối cùng mắt tôi nhắm lại và tôi ngủ mặc cả quần áo như người lính dã chiến.
Buổi sang, lúc thức dậy, niềm vui của tôi vẫn phơi phới như đêm trước.
Vừa hay một ánh nắng rất sáng từ một bầu trời rất xanh chiếu tới, và những vệt vàng vạch lên chiếc chăn xỉn mầu của tôi; trong nhà một người đàn bà đang hát; lũ chim líu lo ở cửa sổ buồng tôi.
Người ta đã tặng tôi một bông hoa. Đó là con bé Riffô được người ta cho đầy tạp-dề hoa cẩm chướng đỏ, nó trông thấy cửa buồng tôi để ngỏ, thì đứng dưới cầu thang gọi: “Ông có muốn lấy hoa cẩm chướng không, ông?”
Tôi đã cắm bông hoa vào một cái cốc vại để lăn lóc trên cái bàn khập khiễng.
Giả thử đấy là một chiếc lọ thủy tinh mỏng, một chiếc cốc pha lê, tôi cũng không sung sướng bằng: trong đáy chiếc cốc kia tôi đọc lại những trang của cuộc đời tôi ở thôn quê và lại nghe vang lên những điệp khúc của hàng cơm.
Người ta thường dung những chiếc cốc vại ấy trong các quán rượu ở vùng Loa-thượng.
(Lúc tôi rời khỏi nhà Riffô (Riffault), lúc tôi ra khỏi khách sạn, ra khỏi nhà của tôi, tôi thấy phố xá chật ứ đầy người và đầy sinh hoạt.
Tôi xem giờ ở một cửa hiệu, hai giờ rồi. Tôi dậy từ lúc tám giờ, tôi có nghe thấy tiếng đồng hồ đánh. Nhưng từ lúc đó trở đi, tiếng đồng hồ bị chìm trong cái xôn xao ý nghĩ và ước mơ của tôi.
Tôi tới nhà Matutxanh. Họ ngờ là tôi đã chết hoặc đã ra về, họ không biết nghĩ ra sao! Mày đã làm gì trong suốt thời gian đó?
- Và mày không thấy đói à?
- Không.
Đúng như vậy, tôi không thấy đói. Sự kích động của cảnh tự do mới mẻ đã nuôi dưỡng và bồi sức cho tôi. Tuy nhiên tôi sẵn lòng chia xẻ chiếc bánh thánh của vui đời, nếu có bánh. Chỉ có niềm vui, và cái bụng thèm ăn.
Nhưng có thể là ông Truytsê (Truchet) đã về! Ta hãy đến gặp ông Truytsê! Như kiểu Meccađê[7] nói: ta hãy tới gặp Gôđô!
Có thể ông Truytsê đã về rồi. Có khi ông ta đã tìm ra được tên đánh xe. Có thể số tiền bốn mươi phơrăng đang nằm chờ ở Sở vận tải! Bốn mươi phơrăng, thế mà ở đây bọn tôi không có bánh ăn!
Tuy nhiên bọn tôi vẫn ở lại khu phố tới buổi chiều vì có ai sẽ đem phơrăng đến. Bọn tôi chờ hắn đến tận tối.
Sau đó chúng tôi tới xem ông Truytsê đã về chưa. – Ba ngày nữa.
Chúng tôi đã xoay sở ra sao để có cái ăn trong ba ngày này, tôi không còn nhớ nữa. Nhưng chúng tôi đã ăn; chỉ có điều là phải mất thì giờ để đi tìm ăn, cùng một công lao động như lao động khác cái việc chạy lang thang kiếm bữa, và cuối cùng cũng được trả công như mọi lao động, nhưng người ta không thể làm được gì khác và dạ dày chỉ đến két vào những giờ không đều đặn. Cuộc sống của tất cả chúng tôi dồn cả vào việc đó. Và phải chạy vạy, phải cầm cố, phải vay mượn!
Đối với tôi như thế không đủ - và tôi đã thấy đau khổ vì cái trò vay mượn bâng quơ, chạy tìm xúc-xích, dừng bước trước bình mứt mận; tôi còn đau khổ hơn, đau khổ nữa… mà tôi không dám nói ra với họ.
Tôi thấy hình như trên tầng gác chúng tôi, người ta hơi giống bọn ăn mày.
Cuối cùng tôi đã lĩnh được tiền! Ông Truytsê đã về.
Tôi dành lại sáu phơrăng đưa cho vợ chồng ông Riffô. Cái nhà của tôi phải trả sáu phơrăng; phải làm cái gì phải làm!
Số tiền còn lại tôi đưa cả cho Ăngiơlina để ăn.
Ngay hôm đầu chúng tôi đã thụt quỹ ăn sáu phơ răng nữa để đi xem hát. Sau một bữa ăn tối ngon lành, chúng tôi xuống Cửa Ô-Thành-Mactanh xem vở kịch mọi người say: Cảnh bần cùng, của Fecđinăng Đuyghê.
Giữa đường chúng tôi uống rượu và Matutxanh rất nhộn.
Màn mở.
Nhân vật chính (do diễn viên Muyniê đóng) ra sân khấu với một khẩu súng lục.
Hắn lưỡng lự: “phải sống lương thiện hay đi giết người? Rồi ra là một cuộc đời trưởng giả hay đoạn đầu đài?”
Matutxanh kêu lên: đoạn đầu đài! Đoạn đầu đài?
Bốn mươi phơrăng đã hết bay.
Bọn tôi đã ăn chơi hả hê trong mười ngày và không một chút nào tôi nghĩ tới lúc không còn một xu dính túi.
Lúc đó đã đến; không còn lấy một hào để chia đôi giữa khách sạn Lixbon và khách sạn Riffô.
Tôi vừa trèo lên cầu thang và đóng cửa buồng lại. Bữa tối tôi ăn mới gọi là dính răng vì thức ăn ít quá, nhưng tôi đã mua một ổ bánh mì đen để đem về gậm trong căn buồng tồi tàn của tôi.
Mới tám giờ tối.
Buổi tối sẽ dài lê thê trong cái hang chuột này, nhưng tôi thấy cần phải ngồi một mình; tôi cần nghe những điều tôi suy nghĩ, chứ không phải la thét và nghe la thét như tôi đã làm trong tám ngày qua. Từ khi đến đây tôi sống vì người khác; tối đến, chỉ còn lại trong tai một tiếng lào xào và lưỡi tôi đau vì đã nói nhiều quá; lưỡi còn bị bỏng và bị tuột da vì đã hút nhiều thuốc lá.
Cốc nước rót ra từ bình nước đục kia tôi còn ưa hơn là tách cà-phê đen ở khách sạn Lixbon: các ý nghĩ của tôi tươi tắn, tôi nhìn rõ phía trước mặt tôi, ồ! rất rõ!
Ngày mai sẽ là cảnh bần cùng.
Matutxanh quả quyết rằng không sao cả.
Thì những Sôna, Rôđonfơ, Macxen[8] chẳng đã nếm mùi cùng khổ hay sao, thế mà họ chẳng đã ăn chơi như những thằng điên, làm thơ, ăn trên cỏ, chế nhạo bọn tư sản đó sao?
Tôi chưa từng ăn cỏ; nói cho đúng, tôi hầu như chưa ăn nữa kia.
Bà mẹ Vanhtrax tội nghiệp, bà đã đoán trước rằng sẽ có ngày tôi tiếc món xúp thịt bò hầm của bà! Rất có thể là như thế…
Tôi đã viết thư báo cho mẹ tôi biết là hiện nay tôi trọ ở khách sạn Riffô, trong một căn buồng sạch sẽ. Tôi nói thêm rằng tôi đã làm quen được với những người rất có thể sẽ có ích cho tôi (!).
Tôi muốn nói về Matutxanh, Ăngiơlina, và Roayany – Quả là họ có ích cho tôi thật, về chuyện chiếc áo choàng vàng, và họ có thể cho tôi biết địa chỉ của tất cả các hiệu cầm đồ trong thành phố.
Mẹ tôi đã viết thư trả lời.
Trong thư của mẹ tôi rơi ra một tờ giấy đỏ. Dòng chữ: Phiếu nhận bốn mươi phơrăng ghi ngang tờ giấy. Đó là một ngân phiếu!
Kèm theo ngân phiếu có mấy chữ:
“Thầy con hàng tháng sẽ gửi cho con bốn mươi phơrăng.”
Bốn mươi phơrăng hàng tháng!
Tôi đã không tính đến chuyện đó, tôi ngỡ rằng bốn mươi phơrăng của ông Truytsê là bốn mươi phơrăng cho tất cả một lần ấy thôi.
Bốn mươi phơrăng!…
Với bốn mươi phơrăng một tháng, có thể trả tiền trọ, mua bánh mì và sườn lợn nấu xốt, và cả đi xem vở Bần cùng ở Cửa Ô-Thánh-Mactanh nữa!… Tôi rất hồi hộp khi đưa tờ ngân phiếu đỏ ở phòng bưu vụ.
Tôi sợ người ta cho tôi là kẻ mạo giấy tờ.
Không! Tôi đã lĩnh được tám đồng năm phơrăng xinh đẹp!…
Tôi đem số tiền đó về căn gác xép của tôi, và suốt ngày tôi tính toán.
Tôi lập bản thu chi.
CÁC MÓN CHI VỐN
cần thiết hàng tháng
Thuốc lá … … 4 phơrăng 50 40 phơrăng
Báo … … … 1 - 50
Phòng đọc sách ….. 3 - 00
Nến … … ….. 1 - 50
Tiền thợ giặt … …. 1 - 00
Sà-phòng Macxây ….. 0 - 20
Vá quần áo (kim, chỉ) …. 0 - 10
Buồng trọ … … …. 6 - 00
Cộng: 17 phơrăng 80 17 - 80
Còn … … …. 22, phơrăng 20
TIỀN ĂN
Bữa trưa
Nửa đĩa thịt … … … …. 0,20
Hai bánh mì … … … …. 0,10
Bữa tối
Nửa đĩa thịt … … … …. 0,20
Rau … … … … ….. 0,10
Hai bánh mì … … … …. 0,10
Cộng tiền ăn một ngày: 0,70
30 x 0,70 = 21phơrăng … … … … 21,00
Còn để chi tiêu bất thường … … … … 1,20
Hãy soát lại tất cả xem sao nào!
Thuốc lá – Được hút ba xu một ngày.
Báo – Sáng nào cũng mua tờ Dân chúng của Prudông.
Phòng đọc sách – Nếu tôi xén khoản chi này, không phải tôi chỉ để dành được ba phơrăng, mà là những bốn phơrăng rưỡi, vì tôi dự chi ba hào nến để đọc sách thuê khi về nhà. Nhưng không! Niềm tin trong sáng nhất của tôi, cái tự do đẹp đẽ nhất của tôi chính là được nhảy vào những cuốn sách bị cấm ở nhà trường, tiểu thuyết tình, thơ ca dân gian, lịch sử Cách mạng! Chẳng thà tôi uống nước lã để đăng ký ở phòng đọc Bacđơbo hay Blôtxơ.
Tiền giặt – Quần áo thường của tôi sẽ không tốn một xu nào cả. Cứ mười ngày một lần, tôi sẽ trao quần áo bẩn của tôi cho người đánh xe ngựa chở khách đi Năngtơ để chuyển cho mẹ tôi giặt rồi lại gửi về đây cho tôi. Nhưng tôi dành một phơrăng cho tiền giặt cổ cồn; tôi muốn có một cổ cồn thôi, thầy mẹ tôi lại muốn hai. Hai mươi xu để giặt đồ chưng diện không phải là nhiều.
Vá quần áo – Tôi có thể vá quần áo với một xu chỉ và một xu kim.
Buồng trọ - Dứt khoát là sáu phơrăng rồi.
Tiền ăn – Hai mươi mốt phơrăng. Thế là vừa.
Tôi còn một phơrăng bốn xu để chi những món bất thường. Bao giờ cũng phải dành lại ít nhiều cho những món chi bất thường. Không ai biết trước được việc gì có thể xảy ra.
Tôi nghẹn ngào vì sung sướng! Tôi thấy cần được uống khí trời và được ngắm Pari. Tôi vươn cổ về phía cửa sổ. Tôi ngỡ là cửa mở: hóa ra đóng và tôi đánh vỡ một ô kính. Mở một khoản chi bất thường thật quả là đúng!
Tôi đi đổi những đồng năm phơrăng của tôi lấy tiền lẻ để chia ra thành từng cọc, trên mỗi cọc tôi đặt một cái nhãn: Thuốc lá, Sà-phòng, Macxây, Vá quần áo.
Phải có trật tự, không được chuyển khoản.
Tôi chạy tới hiện lão Bacđơbo, ở đường Cầu-Mới. Lão ta có nhiều vở kịch và nhiều tiểu thuyết nhất.
“Tôi muốn ghi tên đọc sách.”
- Ba phơrăng.
- Đây, tiền đây.
- Và năm phơrăng tiền ký quỹ.”
Khốn khổ, tôi đã không nghĩ tới khoản tiền ký quỹ!
Tôi ấp úng, rồi rút lui… Có nên quay về nhà và lấy vào các cọc khác không?
Như vậy tôi sẽ đi vào một con đường tối nguy hiểm! Thà chờ đợi và cố dành dụm cho được số tiền cược nhỏ ấy còn hơn.
Năm phơrăng đó đã làm tôi rất khổ! Tôi phải sống bằng cái vốn mà tôi có, trong khi những người khác có một trăm xu để ký quỹ thì có tất cả những cuốn sách hay để đọc. Tuy tôi thừa được ba phơrăng để đập thêm vào cái ăn hoặc các thú vui khác thật, và còn tiết kiệm được cả khoản nến nữa, nhưng vì thiếu số vốn đầu tiên đó nên tôi phải bước vào nền văn học hiện đại chậm.
Chú thích:
[4] Tên thật là Sác-Luy Sat xanh; sau này là một sử gia tiến bộ.
[5] Tức hoàng hậu Mari Ăngtoanet, vợ vua Pháp Luy XVI bị Cách mạng Pháp xử tử năm 1793.
[6] Năm 1825, vở kịch Jôckô hay là con khỉ Brêdin của Rôsơfo và Gabrien được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh đến mức khi ấy nẩy ra các thứ áo, quạt mang tên Jôckô, màu Jôckô và cả bánh mì Jôckô.
[7] Loại con buôn đểu cáng, nhân vật chính trong vở hài kịch của Banzăc Meccađê.
[8] Những nhân vật trong quyển Cảnh đời lang thang của Hăngri Muyêcgiê.