← Quay lại trang sách

- XVII - BẠN BÈ

Tôi tới quán Pê-tray. (Petray)

Chưa có ai. Người bồi hỏi tôi có muốn đọc báo, trong khi chờ đợi.

Tôi cầm tờ báo, như thể trong đó có nói đến tôi, đến hạnh phúc hôm qua của tôi, đến một ông mà mọi người ta đã trông thấy dễ dàng miệng ngậm xì gà, hoa cài khuyết áo, ngực ưỡn ra đằng trước: tới vườn hoa Tuy-lơ-ri, rồi lối đi xem hát, một Đơ Macxay (De Marsay) [50] tóc dài, béo lùn, và sắp thành một nhân vật đáng kể tại Pa-ri.

Cam đoan là tôi có tìm giữa các dòng báo xem có tích gì của cuộc đi dạo chơi thật tràn ngập ánh nắng, nỗi vui thầm kín, niềm vô tư lự khỏe khoắn và lòng tự tin!

Chính Lơgrăng xuất hiện trước nhất, nhưng là một Lơgrăng không ai nhận ra được. – Anh có vẻ một người bị Hội đồng Mười vị[51] theo dõi, mắt trước mắt sau như sợ cái Miệng sắt[52], mình khoác áo choàng sẫm và đầu đội cái mũ rầu rầu.

Anh nhận ra tôi, như trong một cuộc âm mưu, bằng những cử chỉ của kẻ mưu sự. Tôi bắt tay anh và bày tỏ cảm tưởng của tôi về vẻ mặt và cách ăn vận của anh.

“Cậu biết không, tớ lại ưa cậu hơn trong vai kiếm hiệp thế này! Nom cậu như một ẩn sĩ, cậu có vẻ một thày tu trên phong vũ biểu.

Vai kiếm hiệp! anh nói với một nụ cười kiểu Tháp Nexlơ (Tour de Nesle )[53]: năm gã tiện dân đánh một trang công tử - thời ấy đã qua rồi[54] – bây giờ là mười cảnh sát quần một người cộng hòa, mỗi phố một hiến binh, mỗi nhà một tên mật thám! Rõ ràng là cậu mới ở Năngtơ tới! Ông Vanh-tra-xel-lô[55] ơi, bây giờ chỉ còn việc trốn vào một xó và mơ màng như một thằng dở hơi hoặc làm cái thuật luyện đan xã hội như một tay phù thủy… Mình vận quần áo theo cái vở ấy đấy!”

Anh ta nói đúng, chàng đóng kịch ấy!

Hôm qua trong lúc đi dạo, tôi nhớ lại cuộc thất bại ấy hai ba lần – nhưng tôi đã xua kỷ niệm đó đi, tôi quát lên với nó: “Cút khỏi ánh mặt trời của tao!”

Phải chăng tôi đã nói một điều ngu xuẩn? Phải chăng kỷ niệm đó sẽ luôn luôn trở lại ném bong đen đãm máu lên con đường tôi đi? Hiện giờ nó đã làm tối cả hiệu ăn này!

Chúng tôi xưa nay vẫn ăn to nói lớn, giờ đây chúng tôi đang thầm thì!…

Tôi đã không nghĩ tới chuyện ấy nữa, tôi đã không biết gì cả. Tôi đi ngay hôm sau trận chiến đấu, mới chỉ nhìn thấy lính tráng, tấn bi kịch, máu! Tôi đã không ngửi mùi bùn nhơ, tôi đã không cảm thấy con mắt mật thám đằng sau lưng.

Hồi đảo chính, cảnh sát đeo kiếm và đâm chém. Giữa ban ngày; bây giờ thì khác.

Người ta không thể nói được, người ta không thể ngậm miệng được… Lời nói bay ra là bị tóm liền… cử chỉ và im lặng thì bị dò xét… Ôi chao! lời cảm thấy sỉ nhục, như một con chấy đang bò lên sọ! Những cảm giác hôm qua, những hy vọng ngày mai, tất cả nhất đán bị tàn lụi, gạch bẩn…

Đáng thương!

Miệng mọi người ngậm lại như máy, mắt chúng tôi hạ xuống, nét mặt chúng tôi cố lừa dối – vì một kẻ diện mạo khả nghi vừa vào và tới ngồi trong góc kia…

Lơgrăng làm hiệu cho tôi, và chúng tôi buộc phải đóng kịch, như ở nhà trường người ta kêu: Vétxơ! khi ngỡ giám thị tới.

Tôi cảm thấy còn khổ hơn khi vận những bộ quần áo lố lăng, khi mẹ tôi làm người ta cười tôi, khi thầy tôi đánh tôi trước đám đông nhà trường! Bấy giờ tôi có thể làm bộ ngông nghênh, ở đây tôi phải đóng vai thằng hèn!

“Cậu nói đúng, Lơgrăng ạ. Hãy tìm cho tớ, như cho cậu, một chiếc mũ xụp xuống tận mắt, một chiếc áo khoác ẩn sĩ, một cái hang phù thủy!

- Nói khẽ, nói khẽ chứ?”

Vừa hay anh bồi nháy mắt về phía bộ mặt khả nghi nọ để làm hiệu cho chúng tôi biết hắn đang nghe ngóng, và tất cả mọi người đều nói: “Khẽ chứ, khẽ chứ!”

Những người bạn khác kia rồi!

Nhưng họ không còn những bộ mặt, ánh mắt và cử chỉ như lần cuối cùng tôi gặp họ!…

Họ cũng vậy, tay đút vào tay áo, chân kéo lê, môi chảy sệ…

Họ thấy tôi làm ầm ĩ quá, thật sự họ thấy như thế. Họ bắt tay nồng nhiệt, nhưng chuyện trò thì nguội lạnh.

Họ lấy đầu gối hích tôi dưới gầm bàn.

Có phải mối hằn học về chuyện cũ, về những xích mích giữa chúng tôi hồi tháng Chạp, nó trở lại bất kể thế nào, và nó đã đào giữa chúng tôi một hố sâu? Có lẽ đã có những lời lẽ không sao gỡ lại được, ngay cả những lời thốt ra dưới đạn đại bác!…

Không! đúng là cái tháng Chạp đè nặng lên chúng tôi, chứ chẳng phải vì nhớ lại những lời tôi nói trong giờ phút tuyệt vọng ấy: chính là mối lo sợ vì những lời tôi có thể thốt ra trong cái hoàn cảnh dò xét và khủng bố mà tháng Chạp đã tạo nên.

Tên có bộ mặt khả nghi vẫn nhìn về phía chúng tôi.

Chúng tôi đã ăn như vậy, trong cái thế giữ mình!

Tôi rút tiền ra.

- “Để tớ trả, các cậu nhé?

- Được, nếu cậu giầu!

- Tớ thết rượu “pha” được không?

- Thôi, thôi”, họ nói giọng mệt mỏi, vẻ mặt thờ ơ, và chúng tôi đi ra.

Lúc vào hiệu ăn này thì tôi vui vẻ và hớn hở. Lúc ra, tôi thất vọng.

Buổi gặp nhau một tiếng đồng hồ ấy chỉ cho tôi thấy rằng tôi sẽ phải tìm niềm vui, miếng bánh, nghề nghiệp, vinh quang trong cống rãnh nào!…

- Các cậu này! Tôi cho rằng chẳng thà chúng mình chết vào hồi Đảo chính…

Với tình hình như thế, tôi đã không có thì giờ nói chuyện riêng với ai, và tôi đã không gặp những bạn thân.

Tại sao Rơnun và Rốc lại không có mặt ở đó?

- Rơnun đâu? Hiện nó làm gì?

- Nó vào Bộ giáo dục làm chân ngoại ngạch.

- Hiện nó ở đâu?

- Vẫn ở phố Trường-Thuốc nhưng không ở số nhà 39 nữa: về mạn trên, gần nhà Sarie ấy.

Tôi đến đấy.

Bà gác cổng đón tiếp tôi không tốt – tựa hồ như bà tưởng tôi cũng bọn ấy.

“Ở gác năm”.

Tôi đến vào buổi tối, nghĩ rằng lúc ấy Rơnun đã ở Sở về.

Quả nhiên anh ta có nhà, vận áo rơđanhgôt, anh không khoác áo ngủ nữa.

Nhưng chán nản đến chết!… Anh có vẻ mệt mỏi và rầu rĩ làm sao! Chiếc áo ngủ không làm anh già đến thế. Vậy do đâu mà mặt anh xám đi, con mắt trũng xuống?

- “Cậu ốm à?

- Không…”

Lidet bước vào.

Ôi! Không, cô không còn là Lidet nữa![56].

“Gió máy làm sao làm cả hai anh chị thay đổi thế này?… Anh chị có giận tôi không?… Không phải vì tôi đến thăm, anh chị khó chịu chứ?

- Ồ không, không!”

Một tiếng “không” từ đáy lòng thốt ra.

“Trái lại bọn mình rất sung sướng được gặp lại cậu! Bọn mình cứ ngỡ cậu mất tích, bị bắt, chết rồi.

- Quả là tôi đã chịu phần cực nhục…”

Tôi kể cho họ nghe cảnh sống của tôi ở Năngtơ.

Tôi đến nhà Rốc, anh ta ít khi đến hiệu Pê-tray vì ở xa quá.

Rốc cũng không còn ở chỗ cũ nữa.

Mọi người đều dọn nhà khác cả. Họ bị người gác cổng và hàng xóm biết là người cộng hòa: biết họ đã vắng nhà trong khi xảy ra những biến cố tháng Chạp. Họ sợ bị phát giác và truy tố, thế là họ đem khăn gói, hòm xiểng và nỗi khổ đi chỗ khác.

Tôi gặp Rốc còn khó hơn là gặp Rơnun. Cuối cùng, chính anh, sau khi nhòm qua lỗ khóa, mở cửa cho tôi, mình vận áo sơ mi.

Tôi thấy anh rất thay đổi.

Tuy nhiên, anh đỡ suy xụp hơn những người khác một chút. Anh tìm thấy trong thất bại một niềm an ủi.

Anh vốn ưa mưu sự, thích thứ ủy ban trong bóng tối. Ấy là tin tưởng hay bệnh cuồng? Quả thật anh cuồng tính và anh xoay đầu nhìn khắp mọi phía trước khi nói. Thậm chí anh còn nhìn cả dưới gầm giường và gõ cộc cộc vào tất cả các tủ. Anh biết rằng nếu có người núp ở trong tiếng gõ sẽ đục hơn.

Rốc bộc lộ với tôi – trong phạm vi có thể - không nhiều lắm – Sau này, anh sẽ nói hết với tôi, ngay khi anh được “đoàn trưởng” cho phép truyền cho tôi khẩu lệnh.

Vì có anh đảm bảo cho tôi, nên cũng không lâu. Quân cảnh sát chắc đã biết tin cậu về rồi!”

Vì quá cẩn thận, anh lại nhìn khoảng giữa tường và ngõ phố, và mở hẳn cái tủ mà anh có ý ngờ.

Chẳng có ai.

Mặc kệ! Anh vẫn rón rén trên đầu ngón chân để tiễn tôi ra cửa và tôi trở về nhà thất vọng.

Tôi tì tay vào cửa sổ trong im lặng của buổi tối, và tôi suy nghĩ về những điều tai nghe mắt thấy từ hai hôm nay!

Ôi chao! tuổi trẻ, tuổi trẻ của ta ơi! Ta đã giải phóng mày khỏi ách người cha, và đã đưa mày, hãnh diện và kiên quyết, vào cuộc chiến đấu!

Nhưng không còn chiến đầu; chỉ có mùi vị của cuộc đời nô lệ, và những người có giọng nói to vang nay phải ngậm miệng[57]. Thật đến phải tự bắn vỡ sọ, nếu không có đủ can đảm làm một thằng hèn!

Khi đóng cửa buồng tôi thét lên một tiếng mà tôi đã ghim lại trong cuống họng ở các tiệm cà-phê, tại nhà các bạn, suốt dọc đường đầy những cảnh sát và lính tráng: nghe tiếng kêu ấy, chắc ở buồng bên người ta phải tự hỏi không biết ở đâu đấy có lợn lòi bị chó ăn thịt!

Chà! Ở nhà trường họ nói rằng đám trẻ con Xpactơ để cho cáo cắn vào bụng! Tôi cảm thấy như tim bị cắn xé, và như dân Xpactơ, tôi lại không được nói gì cả hay sao?

Tôi không được nói gì cả hay sao?… trong bao nhiêu tuần, bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm?…

Nhưng thật là ghê gớm! Thế mà tôi là kẻ đã bắt đầu thấy ham sống!… đã thấy bầu trời trong sáng và phố phường vui vẻ thế!…

Khốn khổ! Chỉ còn cách chui rúc như con vật trong hang, hoặc bò ra để liếm gót kẻ chiến thắng!

Tôi cảm thấy thế!… đấy là bùn… đấy là đêm tối!…

Tôi đóng cửa sổ lại, cử chỉ như một người dạy thú cài then chiếc cũi trong có con hổ, và tự giam mình với nó.

GIẾT VUA

Tôi nảy ra một ý nghĩ!…

Nó siết chặt đầu tôi, bám diết óc tôi. Suốt đêm tôi không ngủ được.

Bình tĩnh một chút xem nào! Các bạn mày nói đúng – mày phải che mắt lại, giấu kín nhiệt tình, nhè nhẹ bước chân…

Mày phải đi tới đích cho khéo, để có thể đến nơi, xốc tới và hành sự.

Một mình thì tôi sẽ không dám!

Tôi cần phải đi hỏi những ai có kinh nghiệm và gần gũi những người có thế lực trong đảng.

Có Lina, Đuytripông mà tôi đã quen từ hồi 51.

Tôi thấy hai người đang chếnh choáng trước cốc apxanh thứ năm kể từ buổi tối, và họ lảo đảo bước về phía tôi, sùi bọt mép và kinh tởm, mắt trợn trừng, miệng há hốc.

“Buông ra!…”

Tôi gạt họ quá mạnh, một người ngã dúi vào một xó; anh ta đứng dậy vụng về với dáng điệu như người que.

Cũng là vì tôi cáu tiết và bất bình, không thấy họ say, giữa lúc tôi đến để nói chuyện cứu nước!… Phải, tôi đến vì chuyện ấy!

Cứu nước! – Vậy thì ai muốn cứu nước?

Không phải là anh này, cũng chẳng phải anh kia! Tôi không dám thổ lộ với một ai điều tôi đã mơ ước, cũng không nói là để dành tiền để thực hiện dự định của tôi!… Vì rằng tôi để dành tiền thật, tôi sống rất đạm bạc.

Tôi tiếc những đồng xu đã cho những người mù, đã đem mua hoa.

Chẳng ai nghe tôi, hoặc có nghe thì cũng chẳng khuyến khích.

“Hành sự đi! để xem sao”, một vài người đáp.

Một số khác bất bình và hoảng sợ.

“Anh đừng nghe họ!… Anh chỉ làm cho mọi người kinh khủng và cái đó chẳng đi đến đâu – một cụ già, đã trải qua thử thách mà tôi phải tin là can đảm, bảo tôi với mối thiện cảm và kinh hãi. Hãy suy nghĩ trong mười năm! Mười năm nữa. HẮN VẪN CÒN ĐẤY, rồi anh xem!…”

Và khi tôi thì thầm: “Chính là để cho Hắn không còn đấy nữa!” thì ông cụ đưa ra lý lẽ cuối cùng:

“Dù sao, không phải vì anh coi nhẹ tính mạng của anh như một thằng điên mà anh có quyền coi nhẹ tính mạng của những người mà hành động của anh ngay buổi tối hôm ấy, làm cho bị tù đầy hàng loạt! – Anh không có quyền như thế!…”

Không nên nghe ai cả.

Tôi không có đủ can đảm.

Tôi tình nguyện sẽ đi đầu, ra hiệu lệnh. Tôi tình nguyện làm việc đó! Tôi sẽ đi đầu nhóm để chỉ huy bắn; nhưng chỉ có thế thôi … Thêm nữa, tôi yêu cầu cuộc khởi nghĩa phải sẵn sàng ở đàng sau… tôi; việc ấy phải khởi đầu cho một cuộc chiến đấu!…

Dù tôi có tóm được Bônapactơ trong tay, tôi cũng sẽ không giơ được cánh tay lên, tôi cũng sẽ không giáng được vũ khí xuống nếu như chỉ có mỗi mình tôi đã tuyên án tử hình!…

Tôi đã muốn có ý kiến và sự ủng hộ của những người có uy tín, trước khi thổ lộ với đám bạn thân ý nghĩ đã qua óc tôi và đang nung nấu trái tim tôi.

Vì không trông mong được gì ở phía ấy, toàn sợ hãi, thương hại hoặc ngờ vực, tôi quay về đám bạn không tên tuổi, nhưng chắc chắn và gan dạ, kể cho họ nghe dự định của tôi và thất bại của tôi.

Rốc trả lời tôi như mọi người khác đã trả lời:

“Cái đó chẳng có ích lợi gì hết, gì hết!… Cậu đừng nghĩ tới chuyện đó nữa!’

Nhưng anh nói thêm: “Có những người gan dạ hơn những kẻ cậu đã gặp đang lo việc ấy. Người ta sẽ báo tin cho cậu biết. Đừng chạy vạy nữa, đừng cựa quậy!… Cậu sẽ bị bắt và làm chúng tớ có khi cũng bị bắt lây đấy!…”

Chà! anh nói có lý!… Không phải dễ dàng mà giết được một Bônapactơ!

Vậy thì trong lúc này chớ có liều mạng, nhân danh nền Cộng hòa.

Ước mơ của tôi đã chết!

Bây giờ cơn hăng giết vua đã qua, tôi hình dung câu chuyện thật ghê gớm, và tôi tưởng như máu nóng vọi vào mặt tôi – một con người tái nhợt, mà tôi đã đâm chết… Đáng lẽ cần phải đông người và không riêng ai là kẻ sát nhân!

Bây giờ thì chỉ còn lê cái thân xác một cách ngu xuẩn ảo não cho tới lúc nó bị hủy hoại vì bệnh tật chứ không phải vì chiến đấu – nghĩ vậy mà tôi run cả người!…

Tôi giữ lại những đồng trăm xu, những đồng vàng, để mua vũ khí, và cũng để nhỡ khi bị bắt thì trong túi áo gi-lê có tiền, khiến người ta khỏi cho rằng tôi can đảm là vì cùng khổ và tôi đã đợi đến lúc hết xu mới hành động.

Tôi không còn cần tiền cho chuyện ấy nữa thì ít nhất tôi cũng có thể dùng nó để tìm an ủi.

Nhưng an ủi không đến!

Trong phố xá vẫn bấy nhiêu nắng, vẫn bấy nhiêu hàng bán hoa; ở vườn Tuy-lơ-ri, vẫn bấy nhiêu phụ nữ da vàng óng; vẫn bấy nhiêu tiếng động và ánh sáng trong các tiệm cà-phê; với ba xu người ta vẫn có được một điếu xì gà hung vàng phun khói biếc – nhưng tôi không còn cái ánh mắt ấy nữa, cũng như cái sức khỏe ấy nữa! Tôi không còn cái cô tư lự sung sướng, cái trí tò mò nồng nhiệt nữa; lòng tôi đầy chán chường.

Hẳn tôi cũng có cái vẻ già nua mà tôi chê trách ở các bạn tôi; tôi đã già đi như họ, có khi hơn họ nữa, bởi vì tôi đã trèo cao hơn họ trên chiếc thang ảo tưởng!

Ồ! Tôi muốn quên chuyện đó đi… cười nhạo… say sưa vì chuyện khác!

Nhưng húc đầu vào đâu bây giờ?

Đã tám hôm nay chúng tôi chạy khắp các hiệu ăn đêm, đạp ghế đánh người! không thể dàn hàng chống quân lính, chúng tôi bổ vào đầu dân thường. Chúng tôi đuổi theo bọn sung sướng chúng hài lòng về việc xảy ra và đang đú đởn; chúng tôi gây sự với chúng như kiểu những thằng rồ!

Chúng tôi đóng lại, qua đêm tại các quán ăn khu Chợ.

Chúng tôi nốc rượu vang trắng, nuốt sò. Nhưng rượu đó thiêu đốt người và làm sôi lên trong huyết quản làn máu đông đặc hồi tháng Chạp!

Niềm nhớ nhung những tiếng động ầm ĩ, nỗi luyến tiếc đám quần chúng cộng hòa trở lại trong đầu óc tôi, xen vào cơn say thú vật của tôi, và làm cho nó trở thành hung dữ.

Tai vạ cho kẻ nào nhìn tôi và cho tôi cái cớ gây gổ!

Người ta cấm chúng tôi không được làm ồn quá.

Nhưng chúng tôi tới là để làm ồn! Chính vì ở Pa-ri, bị đè bẹp và đã chết, chúng tôi không thể lên tiếng, không thể hô hào quần chúng, thét to: “Nên Cộng hòa muôn năm!” nên chúng tôi mới đến đây và chúng tôi gào thét.

Ở đây, nỗi uất ức của những kẻ bị bịt miệng trào ra, họng chúng tôi vỡ và trái tim say mềm…

Số tiền năm trăm phơrăng của tôi còn lại bao nhiêu đã tiêu tan nhanh với lối sống đó!

Tiền may quần áo, tiền đi đường, món thiếu nợ ông Mu-tông đã làm một lỗ hổng lớn.

Tôi chỉ còn vài đồng năm phơrăng; tôi tìm thấy chúng nằm lẫn với những đồng xu to đầy trong các túi.

Ôi chao! tôi đã lầm!

Bây giờ tiền đã hết, tôi mới tự nhủ đáng lẽ - ngay tối – hôm mới đặt chân tới đây tôi đã phải sắm lập tức một ít đồ đạc xoàng, chở tới một căn buồng thuê một trăm phơrăng một năm mà tôi trả trước sáu tháng.

Như thế tôi sẽ có một trăm tám mươi hai đêm đảm bảo thật là của tôi! thìa khóa bỏ túi!

Tôi có thể nhìn thẳng vào tương lai.

Chà thôi! – Tôi không thể sung sướng được! Vài đồng xu thêm hay bớt!

Vả chăng, dần dà cơn hăng xẹp đi, và lòng tin bị tổn thương, từ cơn thất vọng biến tính, chỉ còn lại một niềm đau đớn, một sự mỉa mai cay độc.

Tôi lại trơ ra với bốn mươi phơrăng hàng tháng – vẫn số tiền như hồi tôi tới gặp Matutxanh giữa nền cộng hòa và giữa cảnh sống lang thang.

Nhưng bây giờ với bốn mươi phơrăng người ta không thể sống như hồi trước tháng Chạp. Vả chăng ngay hồi ấy người ta cũng đã không sống nổi. Đã phải mắc nợ những người cung cấp thực phẩm cho Ăngiơlina, hoặc nợ ông Mu-tông.

Tôi có thể chịu tiền trọ trong một khách sạn khu phố La-tinh.

Nhưng không. Không nợ nần gì cả!

Tôi đã khổ sở quá chừng với món nợ A-lêc-dăng-đrin.

Vả chăng tôi sẽ phải sống bên đám con cái tư sản ấy, chúng không có nhiệt tình mà cũng không có ngọn cờ. Tôi khinh chúng và muốn xa lánh chúng.

Tôi thích chui vào cái xó của tôi hơn: ban ngày làm việc cho người khác để kiếm vài xu cần thiết thêm vào số thu nhập khốn nạn của tôi; buổi tối làm việc riêng cho mình, tôi tìm đường, nghiền ngẫm cái tác phẩm trong đó tôi có thể đặt trái tim tôi, với những phiền muộn hoặc những căm giận của nó.

Nào Vanhtrax, hãy bước vào con đường sống nghèo khổ và cần cù! Mày không thể nạp đạn vào sung! Hãy chuẩn bị một quyển sách hay!

… Hiệu ăn Pê-tray không còn nữa.

Tôi tiếc những chiếc khăn mặt trắng, bó hoa, không khí “tiệm cà-phê” của nó. Với cùng giá đó, bọn tôi tìm đâu được một nơi có vẻ sạch sẽ, bóng dáng của sang trọng, mùi hoa thơm như căn phòng tôi đã ăn bữa đầu tiên vui vẻ và hy vọng đến thế sau khi thoát khỏi Năngtơ.

Bọn tôi tản mát mỗi người một ngả. Không còn có chỗ hẹn hò nữa. Người ta ăn một mình! mỗi người một nơi, một mình trước chiếc bàn của những hiệu bán sữa tồi tàn. Ăn một mình – Chà! người ta có cho tôi ăn cả dĩa mười xu chứ không phải nửa dĩa, tôi cũng sẽ nói: “Cất đi, bỏ rau đi, để gân lại, muốn làm gì thì làm, nhưng hãy cho tôi một người bạn để tôi có thể vừa chuyện trò vừa lấy bánh mì chùi nhẫn chiếc dĩa men xanh đến mất cả mầu của nó!”

Ăn một mình…

Hãy cho tôi niềm vui sướng của một bữa ăn nghèo ngồi chung với một người bạn nghèo. Chúng tôi sẽ quên chuyện nhà bếp ám muội, đầy những bí mật không tên, chúng tôi sẽ không nhận thấy bắp cải có mùi phân, và khoai tây cháy ra than, cũng như thịt bê dai, thịt bò nhũn, chúng tôi sẽ cười những cái đó nếu có hai người cùng ăn. Khi ăn một mình tôi xấu hổ, tôi khổ sở về chuyện đó. Tôi để lại thức ăn đó trong lòng nổi lên của chiếc dĩa nhỏ - dạ dày tôi không có can đảm nuốt hết vì trái tim tôi không vui ngay từ đầu. Bữa ăn hai người, dù đạm bạc đến mấy, là bữa ăn của chiến sĩ, trò chuyện trong bùn chỗ đóng quân, bữa ăn một mình trong một căn phòng bẩn thỉu, chẳng quen biết ai và phải nuốt vội vàng, trả tiền và đi, giống những bữa ăn của đám tù ngồi quanh một cái bàn trong quán những ngày cảnh sát giải họ đi trao cho nơi khác. Người ta đã tháo cùm tay cho họ một lúc, và họ ăn những thức xin được hoặc mua được bằng những đồng xu cuối cùng đầy rỉ xanh, đôi khi vấy máu. Nhanh lên rồi lại cùm tay! Lên đường giữa đám ngựa với chiếc xích buộc vào yên ngựa! Khi ngồi trong quán sữa lẻ loi bên cạnh những người không quen biết, tôi có cảm giác tù nhân ấy. Có tất cả cái buồn bã đó trong bữa ăn của kẻ vận áo rơ-đanh-gôt ngồi một mình trong cùng những quán ăn về giá cả thuộc giới áo b-lu-dơ, áo thợ.

Buồn thay, cuộc sống từ khi mọi người xa cách nhau!

Người ta không còn gặp nhau buổi tối như xưa nữa. Phải đi tìm nhau, trèo lên nhà người này, người nọ. Người thì vừa đi khỏi, người thì chưa về. Người này chắc ở vườn Luyc-xăm-bua, người kia ở Ô-đê-ông, nhưng dọc đường ai nấy đã thay đổi ý kiến và chẳng đi gặp ai ở Ô-đê-ông hay ở Luyc-xăm-bua. Nếu bạn ở nhà thì buồn thay, cái buồng trọ! Buồng trọ của bọn tôi mới chật chội và tối tăm làm sao, đồ đạc cũ kỹ, tường dán giấy rách nát, thiếu ánh mặt trời và thiếu không khí. Phải ngồi trên những chiếc ghế gẫy, một cái hòm rỗng, như trong một ngôi nhà người ta đang lập biên bản sau cuộc vỡ nợ hoặc bên cạnh người chết. Trong buồng trọ của người nghèo, dễ muốn im lặng hơn là muốn trò chuyện. Người ta vui vẻ và linh hoạt ở bàn ăn của bà me Pê-tray, ở chỗ hẹn của những bữa tiệc tám xu, chứ hai người trong một hang nhà trọ ấy thì người nọ hầu như thấy xấu hổ trước mặt người kia, vì cái bẩn thỉu và cái nghèo khổ đè quá nặng lên vai và lên tim người ta.

Thật là một điều bất hạnh khi không còn bà mẹ Pê-tray nữa.

Tôi chưa mất mát những người họ hàng mà tôi đã yêu mến – chú Jô-dep hiện còn sống, những cô bác và những cô em họ cũng thế - nhưng tôi thấy hình như có những nơi người ta luyến tiếc như luyến tiếc một người thân. Con người mình như mất một cái gì – một mảnh đời đã tàn và để lại đêm tối trong tâm hồn.

Tôi cảm thấy lạc lõng như có một tai họa gì đã xảy ra ở đó. Tôi thiếu bức tường để tựa, thanh gỗ ngang chiếc ghế, tấm khăn giải bàn, tôi thiếu cái bắt tay suốt lượt quanh mình, nụ cười của bà chủ, và cái chào nửa chừng của anh bồi.

Chú thích:

[50] Hăngri Đơ Macxay, một kẻ hãnh tiến điển hình, xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết của Banzăc.

[51] Hội đồng bí mật gồm 10 người, công cụ của giới quý tộc kiểm soát nước Cộng hòa Vơ-ni-dơ thời xưa, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18.

[52] Tờ báo bảo hoàng, phái chính thống.

[53] Một lâu đài thời cổ ở Pa-ri, nổi tiếng vì có nhiều chuyện ly kỳ bí mật xảy ra ở đó.

[54] Là thời mà Lơgrăng cùng Vanhtrax dự định viết kịch chung với nhau. Valex đã bỏ đi nhiều đoạn nói về chuyện ấy, tuy nhiên dưới đây, chương: Tôi sắp làm kịch cũng đả động tới vấn đề này.

[55] Lơgrăng “Ý hóa” tên của Vanhtrax, gợi lên tên Maxaniellô, người anh hùng nhân dân Ý đã làm cho Naplơ nổi dậy chống lại ách đô hộ Tây Ban Nha.

[56] Trích dẫn thơ của Bêrănggiê.