← Quay lại trang sách

Vào truyện

Khi người mẹ về đến nhà thì bà chỉ kịp kêu lên một tiếng hốt hoảng và chạy lại phía đứa bé đang ngồi với những ngón tay đẫm máu:

- Trời ơi! Sao con tôi đến nỗi nầy!

Đứa bé giương đôi mắt nhìn lên mẹ, cặp mắt đen láy thẳm sâu long lanh một vẻ dị thường. Cây đàn ghi-ta to lớn đặt ở trên đùi và từng giọt máu chảy hoen thớ gỗ, nổi bật những chấm đỏ trên sắc vàng. Người mẹ chợt hiểu. Từ lâu cây đàn là nỗi khao khát của con bà. Thằng bé Pa- ga-ni-ni hàng ngày vẫn thường nhón chân nhìn lên đầu tủ tỏ ý khát thèm cây đàn mà cha nó thường dùng vào những tối, sau khi uống rượu say mèm từ quán trở về. Chiếc đàn bị kéo xích lại gần tủ, và một chiếc ghế còn đặt bên trên xác nhận bao nhiêu sự việc xảy ra: không nén được sự ưa thích, đứa bé trèo lên lấy cây đàn xuống và sự mê say khiến bàn tay nó đẫm máu trên những dây đàn. Mới năm ngoái đây, khi Pa- ga-ni-ni lên bốn tuổi, trong khi đưa con dạo ở bến tàu, người mẹ bỗng nghe một điệu nhạc vẳng lên từ một chiếc thuyền gần đấy. Tiếng đàn vĩ cầm rèo rắt trỗi lên một bản tình ca êm dịu chừng nào! Đứa bé bỗng dừng chân lại như bị thu hút bởi một sức huyền bí, và người mẹ thấy đôi mắt con mình mờ đi như tâm hồn nó chìm sâu vào cõi thế giới u huyền. Thần sắc của nó dần dần nhợt nhạt như giọng đàn kia đã cướp linh hồn của nó. Khi tiếng đàn được nâng cao vút lên với một điệu nhạc kích động lạ thường thì đứa con yêu của bà từ từ rụng xuống, như một thân cây yếu mềm gãy đổ trên đất.

Từ lâu, người mẹ đã nhìn thấy nỗi say mê âm nhạc trong lòng con mình. Bây giờ bàn tay đẫm máu của nó như là dấu hiệu kỳ quái của một tài năng chớm nở đã tìm lối thoát. Bà vội tìm thuốc băng bó vết thương và cố thu xếp mọi vật để vào chỗ cũ, cho người chồng khỏi nhận biết khi ông ta về. Từ đấy, bà vẫn thỉnh thoảng giấu chồng lấy chiếc đàn xuống cho con và chỉ những hôm người cha bận rộn dưới tàu, Pa- ga-ni-ni mới được tự do ve vuốt những sợi tơ đồng. Pa- ga-ni-ni biết rằng cha mình thô bạo, và chỉ đôi lần trong năm đứa bé mới bắt gặp được nụ cười ở trên khuôn mặt lầm lì của cha. Một hôm, đang đi thơ thẩn trong một lối phố chen chúc kẻ bán người mua, đứa bé bỗng nghe tiếng đàn vẳng lên đâu đó rất gần. Đi về hướng nhạc, nó nhìn thấy trong một quán nhỏ bán rượu, một số người đang đùa cợt ở cạnh quầy hàng trong lúc một người lớn tuổi sử dụng cây đàn vĩ cầm với những ngón nghề hết sức linh hoạt. Đứa bé rón rén bước tới, chui vào hàng rào, bị thu hút như nam châm và khi tiếng đàn bỗng dứt, từng loạt vỗ tay vang dậy, nó vẫn hãy còn ngơ ngẩn.

- Hoan hô Gi-ô-va-ni! Anh có ngón đàn tuyệt diệu! Hoan hô! Hoan hô!

Người nhạc sĩ quay đặt cây đàn ở trên thùng gỗ sau lưng và ngồi xuống ghế, tự thưởng cho mình một chén rượu lớn. Đó là lần đầu Pa- ga-ni-ni nhìn thấy tận mắt cây đàn vĩ cầm. Tiếng đàn êm dịu bây giờ gợi lại trong tiềm thức nó những nét huyền diệu mơ hồ của những năm qua ở cạnh bến tàu… Nó ngước lên nhìn chăm chú như dõi theo một vật lạ đáng yêu, đáng quí chừng nào. Trong khi mọi người nô đùa cười cợt thì đứa bé vẫn ngồi đó, nép sau thùng gỗ, nhìn lên cây đàn đã phát ra những thứ âm thanh kỳ diệu. Cuối cùng, thừa lúc câu chuyện của người trong quán ồn ào kích động bởi chất men rượu nồng ấm, Pa- ga-ni-ni trườn lên, thò tay nắm lấy chiếc đàn, rồi nhanh như một con thỏ chui tọt qua rào, bước ra đường phố. Đứa bé ôm chặt cây đàn trong lòng lang thang qua các con đường, rồi ra bờ biển. Trời cao và xanh, mây lững lờ, mặt biển lặng yên sáng màu ngọc bích lơ thơ điểm những cánh buồm lướt nhẹ ngoài khơi. Ngồi trên tảng đá, Pa- ga-ni-ni bắt đầu sờ soạng sử dụng cây đàn. Và giữa khung cảnh trời nước bao la, một bản nhạc lạ bắt đầu dựng thành như kết tựu được những nét thanh nhã mơ màng của thiên nhiên với một tâm hồn đa cảm. Đứa bé cứ thế tiếp tục đàn những bản hát mà nó đã nghe trong các thánh đường, mãi cho đến khi gió biển từ xa thổi về thoáng lạnh và những ánh nắng cuối cùng tắt lịm về phía chân trời nhấp nhô những dãy núi biếc đã đổi sang màu tím thẫm.

Trời sắp tối rồi. Pa- ga-ni-ni như choàng tỉnh dậy sau một cơn mơ và đứa bé năm tuổi ấy thất thểu ôm chặt cây đàn trong lòng trở lại những đường phố cũ. Khi đến ngôi quán ban trưa nó thấy một số những người vẫn còn ngồi đấy. Đứa bé hai tay nâng cây đàn lên, trịnh trọng tiến thẳng về phía nhạc sĩ. Một số người kêu lớn lên:

- Thằng ăn cắp đây!

Pa-ga-ni-ni ôn tồn đáp lại:

- Tôi không phải là ăn cắp. Tôi chỉ mược tạm cây đàn một lúc, bây giờ trả lại cho người chủ nó.

Một người hùng hổ la lớn:

- Đánh thằng ranh này một trận nên thân để nó khiếp sợ mà chừa.

Và sấn sổ bước tới gần, định tát vào mặt đứa bé. Nhưng người nhạc sĩ đã đưa tay ra ngăn cản, và nói:

- Hãy khoan, xem thằng bé này mượn đàn làm gì. Ánh sáng trong đôi mắt nó khiến tôi chú ý.

Rồi ông quay sang Pa- ga-ni-ni:

- Này chú bé con, chú đùa với cây đàn này đấy à?

Pa-ga-ni-ni trả lời:

- Thưa ông, tôi chỉ mượn nó để đàn.

- Để đàn? Bộ mày đùa sao?

Người nghệ sĩ già kêu lên với nụ cười hoài nghi. Pa- ga-ni-ni vẫn đứng lặng yên, giương mắt bình tĩnh ngó hết mọi người. Cuối cùng, đứa bé trả lời:

- Một đứa bé con không thể đàn sao?

- Nhưng mày đàn những bản gì?

- Tất cả những gì mà tôi có thể đàn được, như những bài hát nghe trong giáo đường.

- A! Vậy hãy đàn thử một bản nghe chơi. Nếu mày đàn được thì tao tha tội đùa nghịch của mày. Nếu không, thì phải ăn đòn, nghe chưa?

Pa-ga-ni-ni nhón chân, đỡ lấy cây đàn, loay hoay đặt lên vai mình và mím môi lại. Mọi người im lặng theo dõi đứa bé. Những giọt mồ hôi lấm tấm ở trên khuôn mặt gầy gò xanh xao phản chiếu lấp lánh ánh đèn. Tiếng đàn ngập ngừng cất lên mỗi lúc thành dìu dặt và khi đứa bé dừng lại, dậm chân tỏ ý tức giận cho sự kém cỏi của mình thì một loạt pháo tay vang dậy. Gi-ô- va- ni, người nhạc sĩ, kéo Pa- ga-ni-ni vào lòng và nói:

- Em quả là một thần đồng. Ta sẽ bỏ công dạy dỗ cho em. Ta vốn là trưởng ban nhạc cho những gánh hát ở đây.

Từ đấy, Pa- ga-ni-ni đã có được người dìu dắt. Được gần hai năm thì người thầy dạy bảo học trò rằng:

- Bây giờ ta hết khả năng dạy dỗ em rồi, bởi vì tài nghệ của em vượt cao hơn ta rồi đó. Nhưng ta không muốn một kẻ thiên tài như em mất đường tiến thủ. Ngày mai ta sẽ giới thiệu em đến gặp nhạc sư Gia-cô-mô, họa may em sẽ có cơ phát triển hơn nữa.

Khi đứa bé về thuật lại cho cha mình rõ, thì ông cau mày cằn nhằn:

- Trời ơi! Làm sao mà dám đến học bậc danh sư ấy? Giờ học đều được tính bằng một giá cắt cổ, chịu tiền chi thấu!

Nhưng khi Gia-cô-mô gặp được Pa- ga-ni-ni thì sự mừng rỡ của ông đã xua tan hết ý nghĩ tiền bạc. Ông chịu dạy dỗ không công, và kể từ đấy, Pa- ga-ni-ni có thể đi sâu vào trong khu vực kỹ thuật tinh vi của nhạc. Mặc dầu tuổi tác khác nhau rất xa nhưng mối cảm thông giữa thầy và trò khiến họ coi nhau như là bè bạn. Gia-cô-mô còn tìm việc làm cho người học trò vừa là bạn nhỏ của mình trong các giáo đường và kể từ đấy hàng tuần cậu bé đã có một món tiền lớn. Cứ thế danh tiếng Pa- ga-ni-ni càng ngày càng tăng và bao nhiêu cuộc trình diễn cũng cố gắng mời cho được cậu bé tham dự. Thấy con làm ăn có tiền người cha tham lam tìm đủ mọi cách khai thác khả năng của nó bằng cách ép uổng nó phải hiện diện trong bất cứ là cuộc mời mọc nào, và ông cũng theo bén gót để giữ cho khỏi rơi rãi từng đồng xu nhỏ. Ngoài những giờ đi theo sát con mình, người cha ấy nằm say sưa trong các quán rượu. Đến một ngày nọ, vị thầy của Pa- ga-ni-ni bảo với học trò như sau:

- Coi như tài năng của ta dạy dỗ cho em đến đây là chấm dứt rồi. Em hãy về thành Pác-mơ, tìm học Rôn-la, đó là tay đàn vĩ cầm nổi tiếng nhất ở xứ này. Ta sẽ giới thiệu cho em đến đó. May ra người ấy còn có chút gì để mà truyền lại cho em.

Rồi ông ôn tồn khuyên nhủ người bạn bé nhỏ của mình:

- Em đừng bao giờ quên rằng ý chí quyết định tất cả. Chỉ có ý chí của những con người kiên nhẫn, những người không bao giờ chịu buông chìu theo những yếu hèn, những người biết đương đầu lại những thử thách của định mệnh, là sẽ đạt đến những gì lớn lao và cao quí nhất trên cõi đời này.

Đến ngày thấy đứa con mình sắp sửa đi xa, người mẹ hiền từ ngồi suốt đêm ở bên giường, không ngủ. Bà ngắm nhìn con trong sự yên lặng kéo dài với niềm xúc động sâu xa và cuối cùng mới thốt lên: “Con ơi! Mẹ ao ước rằng con sẽ đạt được lý tưởng của mình. Con sẽ trở nên tay vĩ cầm bậc nhất của thế giới. Những gì chính đáng mà con ao ước thì mẹ cũng hằng ao ước như con “.

Ngày mai người cha thuê chiếc xe ngựa và cùng với con về thành Pác-mơ. Nhưng khi gõ cửa nhà của nhạc sư thì vị này không chịu tiếp. Người vợ ông ta bước ra bảo rằng:

- Chồng tôi ốm nặng, ông ta không thể cử động từ mấy hôm nay.

Trong khi người cha cố gắng nài nỉ tiếp kiến cho được vị danh sư nọ, thì Pa- ga-ni-ni nhìn thấy chiếc vĩ cầm đặt bên cạnh một vở nhạc ghi chép bằng tay. Có nhiều nốt nhạc viết quá vội vàng và nhiều nốt khác đã bị xoá bỏ. Thoáng nhìn, cậu bé biết rằng đó là một bản hòa ca mà nhạc sư vừa soạn thảo. Nắm vội cây đàn, Pa- ga-ni-ni diễn tả hết bản hòa ca mà không phạm một lỗi nào. Tiếng đàn vừa dứt, thì trên cầu thang một cánh cửa lớn sực mở, và ông Rôn-la hiện ra, mặc quần áo ngủ, trên đầu phủ một khăn choàng bằng len trắng toát. Ông ta kêu lên:

- Coi kìa! Có phải quỉ sứ chui vào nhà tôi đấy không? Bây giờ mới thấy một người trình diễn chính bản hòa ca của tôi sáng tác, hay hơn chính cả tôi nữa.

Pa-ga-ni-ni cúi đầu chào hỏi lễ phép và hai cha con cố gắng nài nỉ để được nhạc sư nhận lời. Người cha khẩn khoàn:

- Chúng tôi từ Giê-nơ đến vì biết rằng chỉ có ngài là người duy nhất có thể giúp đỡ con tôi tiến bộ.

Rôn-la trợn mắt:

- Cái gì? Ông nói tiến bộ thế nào? Ngay như tôi đây cũng muốn đàn giỏi kịp em bé này mà thôi. Tôi sợ rồi nó không còn thầy để mà học. Hoạ chăng chỉ còn mỗi một bậc thầy quan trọng mà nó có thể học tập lâu dài, đó là cuộc đời.

Một hôm, bá tước Nê-Grô là người rất mến tài nghệ Pa- ga-ni-ni và nhận làm kẻ bảo trợ cho cậu, đi chiếc xe ngựa cũ kỹ đến tìm Pa- ga-ni-ni và bảo:

- Hiện nay có một số người Pháp đang ở tại nơi nhà tôi.

Và ông nói tiếp, trịnh trọng:

- Trong đó có vị đại tướng chỉ huy.

Người cha Pa-ga-ni-ni xuýt xoa:

- Quả là danh dự lớn lao!

- Khốn nạn! Chả có vinh dự gì đâu. Sáng nay, tôi vừa cãi cọ khá sôi nổi với ông ta về một vấn đề danh dự.

Vị bá tước tằng hắng, nói tiếp:

- Vị đại tướng ấy cho rằng người dân xứ Giê-nơ của chúng ta đây chỉ là một sự hỗn hợp giữa bọn giặc cướp và bọn lái buôn. Chúng ta không có một chút năng khiếu nào về nghệ thuật. Ở đây không có hoạ sĩ, không có thi sĩ đáng cho chúng ta tự hào. Còn Kha-luân-bố thì chỉ là kẻ đại diện thương mại hơn là một nhà thám hiểm đúng danh hiệu ấy. Nghe người ngoại quốc khinh miệt dân mình như thế, tôi có thỉnh mời đại tướng tối nay đến dự một buổi dạ hội để ngài chứng kiến một người dân thành Giê-nơ, như bất cứ dân nào văn minh trên thế giới này, có thể là một nhạc sĩ bẩm sinh. Do đó, con trai của ngài cần phải hiện diện để mà trình bày tài nghệ.

Vào ngày dạ hội, Pa- ga-ni-ni sửa soạn y phục và đến giữa một quang cảnh hết sức náo nhiệt, tưng bừng. Trong khung cảnh ấy chỉ có mỗi một giọng nói vang lên sang sảng là có uy quyền hơn cả. Đó là giọng nói của một con người gầy gò với đồ quân phục chỉ huy khác biệt lạ thường giữa đám hầu cận chung quanh. Bộ quân phục ấy thật là đơn giản, cũ kỹ, không có chiếc huy hiệu nào. Và con người với màu da vàng cháy, với chiếc mũ nặng nề ấy, là Nã-phá-luân.

Khi đến chính giữa sân khấu, Pa- ga-ni-ni cúi chào mọi người với cái thân hình gầy gò xanh xao của mình. Cậu ta để ý thấy vị chỉ huy vẫn cứ tiếp tục trò chuyện với người chung quanh ở một chiếc bàn cách đây độ chừng năm thước. Điều đó khiến cậu buồn lòng, nhưng cậu nhủ thầm: “Rồi ông ta sẽ biết cách yên lặng”. Cậu vội đưa chiếc vĩ cầm lên vai trình bày bản nhạc “Mùa xuân của Côn-nê-bi-ô”. Những tiếng đàn êm, dịu dàng trải khắp gian phòng như những sợi bạc óng ánh, càng lúc càng thêm lan rộng và thấm sâu hơn, nhưng không lấn át được giọng sang sảng của vị chỉ huy. Thình lình Pa- ga-ni-ni bỏ mạnh cây đàn xuống mặt bàn trong một cử chỉ tức giận tràn trề. Cậu ta định rời gấp khỏi sân khấu, bỗng nghe Nã-phá-luân kêu giật lại với một giọng nói quyền hành:

- Kìa, chú nhỏ! Có việc gì vậy? Không muốn tiếp tục đàn nữa hay sao?

Và Pa-ga-ni-ni đứng dừng lại, dõng dạc trả lời:

- Tôi chỉ trình diễn khi nào ngài chịu nghe tôi.

Nã-phá-luân ngẩn người trong một vài giây rồi bỗng phá ra cười lớn. Với một giọng nói của kẻ bề trên, ông ta bảo người nhạc sĩ trẻ tuổi:

- Hay lắm! Biết ăn nói đấy chú bé! Thôi, cầm lấy đàn đi. Ta sẽ giữ gìn không cho ai được quấy rầy trong lúc chú đàn.

Một sự im lặng tuyệt đối bao trùm khắp căn phòng rộng và Pa- ga-ni-ni dạo những bản dân ca miền Cót-sơ, đưa Nã-phá-luân quay về dĩ vãng của mình. Người chỉ huy bỗng quên hẳn hiện tại và trong giây phút thấy mình trở về khu chợ A-giác-xi-ô chói nắng ngày nào, thấy lại những cô gái nhỏ vui đùa bên đống lửa hồng vào dịp ngày hội mùa xuân. Ngày ấy, Nã-phá-luân mới lên mười và bây giờ đây khói bụi chiến tranh cùng với tháng năm đã làm cho người cằn cỗi. Tiếng đàn dẫn dắt người tìm về ngôi làng cũ, ở bên bờ biển, cách chợ A-giác-xi-ô độ một dặm đường, làng Mi-lơ-li nhìn ra một ngọn hải đăng ngời sáng. Người như tưởng mình đi dạo trong khu vườn rộng bao la, đầy cam và lựu, đầy những hoa hồng, giữa hương và sắc chan hoà. Trên những ngọn đồi rợp bóng quanh vùng có một tảng đá cô độc nhô lên giữa vùng cây cối. Nơi đây thân mẫu của người đã dọn sẵn một hang động để Nã-phá-luân có thể học tập hàng giờ, trong dịp nghỉ hè… Thình lình vị chỉ huy bỗng giật mình: một loạt vỗ tay như sấm vang dậy chung quanh. “Thật là đứa bé kỳ lạ!” Nã-phá-luân vừa bảo thầm như vậy vừa vỗ tay phụ hoạ theo trong một dáng điệu trầm ngâm.

Được mười lăm tuổi, Pa- ga-ni-ni muốn rời gia đình, đi về những miền xa lạ biểu diễn tài năng của mình. Cậu bé sớm trưởng thành ấy không chịu nổi sự kèm thúc của một người cha nghiện ngập quan niệm con mình như một cái máy làm tiền và tìm mọi cách ép buộc Pa- ga-ni-ni làm việc không kể gì đến sức khoẻ. Trong sự câu thúc, dày vò, Pa- ga-ni-ni cảm thấy tâm hồn mình mệt mỏi hơn lên, đồng thời âm nhạc hàng ngày nâng chàng lên khỏi cuộc sống tầm thường, nung nấu thêm ý trưởng thành và những khắc khoải tuyệt vời. Một hôm, Pa- ga-ni-ni thưa với cha mình:

- Trong bao năm nay con đã cố gắng làm tiền để nuôi cha mẹ. Số tiền mà con dành dụm có thể cung cấp cho gia đình ta qua khỏi những ngày túng thiếu. Ngày mai, con phải về tỉnh Luýt-cơ để dự một cuộc hòa nhạc lớn lao. Con muốn là kẻ độc hành, không người bảo trợ.

Người cha chồm hẳn người dậy trong sự kinh ngạc giận dữ. Đoạn ông gằn giọng:

- Mày không thể nào đi một mình được.

- Con sẽ đi đến một mình. Con đã quyết định như thế.

- Đồ chó chết!

Người cha hung hãn nhào đến, muốn vồ chặt lấy đứa con trong đôi tay mình, nhưng nó đã nhảy biến ra khỏi cửa. Trong cơn hùng hổ, ông cầm cây đèn bằng đồng ném về phía nó. Pa- ga-ni-ni ngã quị hẳn xuống, chạm ngã chiếc bàn gần đấy, ly chén ngã đổ loảng xoảng. Một giòng máu đỏ chan hoà toé ra từ đầu cậu bé. Nhìn con nằm yên bất động, người cha thốt nhiên cảm thấy một nỗi kinh hoàng, một niềm hối hận. Về phần Pa- ga-ni-ni, sau sự ngất xỉu vì choáng váng, cậu thấy một nỗi chua chát hòa lẫn với niềm thống khổ làm cho tê liệt thần trí của mình. Trong khi người cha băng bó vết thương vừa cất những lời rên siết thê thảm, thì người con vẫn nằm yên, nhắm mắt để tránh nhìn mặt cha mình.

Mãi khi người mẹ trở về, đứa bé mới chịu mở mắt. Hiểu biết nỗi lòng của con, bà nói:

- Bây giờ con đã đầy đủ khả năng để tự tạo lấy con đường mà đi. Mẹ không muốn giữ con lại bên mình vì một chút lòng quyến luyến hẹp hòi. Hằng ngày, mẹ sẽ cầu nguyện cho con thành đạt vẻ vang.

Đêm ấy, Pa- ga-ni-ni trằn trọc không sao ngủ được. Ngày mai, cậu bé giã từ tất cả, lên đường đi về với những cảnh sống mà cậu không sao hiểu được sẽ dẫn dắt mình đến bến bờ nào. Ngôi nhà quen thuộc, người mẹ yêu dấu, bao nhiêu vật dụng gần gũi, chỉ còn đêm này nữa là sẽ xa cách lâu dài. Cậu bé ngồi dậy, cầm lấy cây đàn. Ngày mai, chỉ còn có nó là bạn đồng hành trên những nẻo đường xa xôi, là kẻ duy nhất hòa đồng tâm sự. Pa- ga-ni-ni diễn tả nỗi lòng nhớ nhung của mình bằng tiếng tơ đàn, bởi vì chỉ có bằng giọng nói ấy chàng mới biểu lộ hết tâm trạng mình. Khi tiếng đàn đã dừng lại trong đêm khuya vắng, dư âm của một mối sầu giã biệt vẫn còn vương vấn khắp nơi. Nơi phòng người mẹ, Pa- ga-ni-ni tưởng nghe những tiếng thở dài.

Và sáng hôm ấy, Pa- ga-ni-ni chuẩn bị rất sớm hành trang lên đường. Thoát khỏi hẳn sự kềm chế của một người cha thô bạo, Pa- ga-ni-ni cảm thấy thoải mái, hít thở no đầy không khí tự do. Trên con đường dằng dặc ấy, Pa- ga-ni-ni thong thả mà đi, mỗi tối ghé vào quán trọ dành cho mọi người, để kiếm chỗ ngủ. Những đêm trăng sáng, hay là sao tỏ, vào thời tiết hè nóng nực thì cậu ngủ lại giữa trời, nằm trên nệm rêu của một ngọn đồi nào đó, hoặc trong một khu rừng thông và cảm thấy lòng sung sướng vô biên. Giữa một tạo vật không ngừng sinh hoạt trong đêm bằng những tiếng nói âm thầm, Pa- ga-ni-ni choàng dậy đáp lời ngôn ngữ thiên nhiên bằng cái tiếng nói dìu dặt của cây đàn mình.. Và nhiều đêm dài, Pa- ga-ni-ni cứ đàn như thế, cố gắng diễn đạt những nguồn cảm hứng u uẩn làm cho khắc khoải lòng mình. Có lúc, trước khi mặt trời đi ngủ hay là thức giấc, Pa- ga-ni-ni tìm cách đua tài với các bầy chim bằng cách diễn đạt tiếng nói của loài bay nhảy trên sợi tơ đồng. Hai ngày trước khi đến thành Luýt-cơ, Pa -ga-ni-ni thực hiện một cuộc hòa tấu tuyệt vời với một họa mi. Lúc đó là ngày mười sáu tháng sáu của năm một ngàn tám trăm, vào một buổi chiều, khi đang ngồi trên mặt đất gồ ghề, dựa lưng vào một thân cây, Pa-ga-ni-ni cảm thấy tâm hồn của mình tan chìm trong cái yên lặng quái đản của những bụi cây bờ đá phản chiếu tia lửa đỏ rực của bóng mặt trời hoàng hôn. Không một tiếng gió lay động lá cành, không một tiếng người, cả loài muôn thú cũng đều lặng tiếng im hơi. Bỗng nhiên giữa khoảng tranh tối tranh sáng, tiếng chim họa mi bốc dậy, ban đầu ngượng ngập rồi cứ mỗi lúc càng linh hoạt hơn, càng thắm thiết hơn. Pa- ga-ni-ni cầm vội cây đàn dè dặt hòa nhịp, rồi nâng giọng vút lên cao. Tiếng đàn chỉ được gợi lên một cách nghẹn ngào nhưng chim họa mi trả lời trong sự thông cảm bằng những giọng hát mỗi lúc càng thêm nhiệt tình. Và cứ thế, họa mi hát với tiếng đàn, hát theo một cách say sưa kỳ lạ, tưởng như lồng ngực bé nhỏ của chim cũng muốn vỡ tan. Trong nỗi say sưa tuyệt vời, Pa- ga-ni-ni cảm thấy rõ sự ngăn cách giữa người và thiên nhiên đã bị xoá tan, và đây là sự đối thoại hoàn toàn của hai tâm hồn. Pa- ga-ni-ni thấy mình biến thành một phần của rừng cây đá núi, của cái khu vực chứa đầy sinh vật âm thầm đã ràng buộc mình trong niềm thân thiết lạ thường. Mãi cho đến lúc tiếng chim ngừng bặt, vừng trăng nhô lên ở trên khung cảnh lặng lờ phóng toả một vùng ánh sáng hiền dịu thì người nhạc sĩ bỗng nhiên run lạnh đột ngột, bỗng thấy một niềm sợ hãi. Sau đó, Pa- ga-ni-ni chìm dần trong một giấc ngủ mê mệt. Mảnh vải dùng bọc thùng đàn không che chở nổi cậu bé khỏi cái giá lạnh ban đêm càng lúc càng thấm sâu hơn.

Hôm sau, khi choàng tỉnh dậy, mặt trời đã lên khá cao, Pa- ga-ni-ni giật mình hoảng hốt vì cây đàn đã biến mất. Nhạc sĩ ngồi ngẩn ngơ tiếc người bạn thân của mình, đồng thời là phương tiện sống quan trọng của chàng. Đối với Pa- ga-ni-ni, mất đàn coi như mất hết tất cả, vì chính có nó chàng mới trở thành một người đầy đủ. Trong cơn thất vọng não nề, Pa- ga-ni-ni đi vào thành phố với niềm tuyệt vọng của kẻ bại trận.. Qua những dãy phố chen chúc khách hàng, những người tứ xứ, hàng hoá muôn màu, giữa những tiếng động, tiếng cười vang dội điếc tai của một thành phố có vẻ no đầy hạnh phúc Pa- ga-ni-ni vét món tiền nhỏ cuối cùng mua vài thức ăn chống sự đói nhọc đang dày vò mình. Thốt nhiên, bằng cái thính giác tinh tường của mình, chàng nghe một tiếng vĩ cầm vẳng lại giữa sự sôi động phố phường. Chàng bỗng nhớ lại ngày nào, còn nhỏ, chàng đã đi theo tiếng đàn tương tự, đánh cắp cây đàn của một nhạc sư để dò dẫm đàn suốt một buổi chiều…

Khi chàng đi đến thì thấy một người già nua áo quần rách rưới ngồi bên góc một quán rượu dạo một bản đàn sầu thảm. Có một vẻ gì trong sự xuất hiện đột ngột của con người ấy khiến chàng chú ý. Người già cả ấy dạo đàn khá hay, hơn chàng dự tưởng. Những bàn tay sần sùi vì bệnh phong bại làm cho cong cúm khó coi, run rẩy từng lúc, khiến cho thỉnh thoảng bản nhạc vấp phải những nốt sai lầm. Nhưng trong khi đàn người hành khất tiêu điều ấy lắng nghe tiếng nhạc của mình say đắm chừng nào! Mái đầu sói nhẵn như một chất ngà cũ kỹ cúi gập hẳn xuống và một nụ cười làm cho nhăn nhó khuôn miệng không còn một chiếc răng nào. Nụ cười có một vẻ gì kỳ quái, vô hình chứng tỏ một cuộc thoát ly, một sự cố gắng thống khổ để mà quên lãng thực tại. Hẳn là tiếng đàn đã đưa tâm hồn nghệ sĩ về một cõi đời đẹp hơn, một cõi thế giới từ lâu không còn hình bóng.

Đám đông phần nhiều đi ngang qua người nghệ sĩ với một thái độ hững hờ và chỉ thỉnh thoảng mới thấy một người nghiêng tay ném xuống một đồng bố thí. Pa- ga-ni-ni không còn đồng nào trong túi, cảm thấy một niềm thương hại vô hạn đối với người hành khất già. Cậu quì bên cạnh người ấy nói nhỏ:

- Bác ơi, tôi thấy gần như bác chẳng thâu được bao nhiêu. Tôi cũng là kẻ chuyên đàn vĩ cầm. Bác hãy cho tôi đàn thử giây lát xem nào. Tôi tin rằng kẻ qua đường sẽ giúp bác được nhiều hơn.

Người hành khất nghễnh ngãng kia nhíu mày hỏi lại:

- Gì vậy? Ai nói gì vậy?

Khuôn mặt ông ta quay nhìn về phía Pa- ga-ni-ni đượm màu xác chết hơn là người sống.

- Tôi cũng chuyên đàn vĩ cầm. Bác hãy để tôi đàn thay cho bác. Chắc kiếm tiền được nhiều hơn.

- Đàn vĩ cầm à?

Người hành khất bỗng đặt cây đàn xuống, nắm chặt cánh tay Pa- ga-ni-ni khiến cậu hốt hoảng kêu lên. Cậu bé không ngờ một người như thế vẫn còn sức lực như vậy. Nhưng người nhạc sĩ già kia kéo chàng sát lại bên mình và nói:

- Tôi gần mù loà nhưng vẫn còn nhìn thấy được chừng nào. Tôi thấy là cậu còn trẻ, rất trẻ. Thôi được! Cứ đàn thử đi xem nào!

Pa-ga-ni-ni cầm lấy cây đàn, cây đàn quá cũ nhưng thuộc vào loại có giá. Thoáng chốc, giữa những tiếng ồn ào vang động, điệu nhạc vang lên, và đám thính giả quây quần càng lúc kéo đến chung quanh cậu bé càng đông. Điều đó khuyến khích chàng nhiều, và nỗi say sưa dần dần xâm chiếm lấy chàng, cặp mắt bắt đầu long lanh ngời sáng ở trên khuôn mặt xanh xao. Những nét man dại thỉnh thoảng lồng vào trong những cung đàn réo rắt. Đến lúc gần như ngút hơi, cậu dừng tiếng đàn và từng đống tiền ném xuống như mưa trên cái nón cũ tồi tàn của người hành khất. Trong giây phút ấy, cậu thoáng có một ý nghĩ: “Thế là ngày mai người ta nhận diện ra mình là kẻ ăn xin cầu thực bên đường, và chắc trong cuộc đại hội so tài, không thiếu những lời khinh bỉ”.

Tuy vậy, Pa- ga-ni-ni không hề hối hận về sự giúp đỡ của mình. Trái lại, chàng còn cảm thấy tự hào vì đã giúp ích cho người khốn khổ hiện đang đếm chuỗi ngày tàn. Người hành khất già cất lên giọng nói khàn khàn mệt nhọc:

- Quả cậu là một nhạc sĩ lành nghề. Ai đã dạy cậu đạt được kỹ thuật tuyệt vời như vậy?

Và không đợi câu trả lời, người ấy kéo tay cậu bé đứng dậy, ra khỏi đám đông vẫn còn tiếp tục vây quanh:

- Cậu hãy đến đây với tôi. Tôi sẽ biếu cậu món quà đặc biệt.

Pa-ga-ni-ni bước theo cụ già, trong lòng phân vân không hiểu một người khốn khổ như thế có gì đặc biệt để làm quà tặng cho mình. Cả hai đi sâu vào trong ngõ hẻm tối tăm, giữa những bức tường ám khói, vào một ngôi nhà sụp đổ điêu tàn, và phần bên dưới có những bức tường loang lổ làm thành một cái hang hốc cho người khốn cùng nương náu qua ngày. Vào trong, một làn không khí nặng nề ngột ngạt, chứng tỏ bao nhiêu ngày tháng qua rồi nơi trú ẩn này không hề để lọt một chút khí trời quang đãng. Người hành khất già bước vào với cái dáng điệu quen thuộc và sự vững vàng của kẻ mộng du. Ông ta cầm lấy hộp quẹt bật lửa thắp chiếc đèn dầu leo lét, và cả một sự rối loạn bày ra trước mắt Pa- ga-ni-ni: sách báo, vở nhạc, thiên thần bằng gỗ, bó hoa úa tàn, ống khói sét rỉ, những lục huyền cầm cổ kính, những hồ vĩ cầm đủ cỡ, tản mát đó đây, chồng chất lên nhau, và treo lơ lửng trên tường. Trong một góc tường nhiều chiếc bao lớn đầy rơm, rách lủng, để rơi vãi đầy trên đất. Trước cặp mắt nhìn của người trai trẻ, người hành khất già nói lên giữa tiếng cười gằn:

- Đây là gian phòng chứa đựng kho tàng.

Rồi ông cúi xuống trên một bao rơm, sờ soạng lôi ra một cái hộp đàn vĩ cầm chôn giấu ở tận đáy bao.

Ông nói:

- Đây là cây đàn huyền diệu.

Những bàn tay dài xương xẩu nổi đầy gân xanh run như lá cây trước gió khi mở nắp của hộp đàn. Ông kéo ra ngoài một nhạc cụ sơn nâu đỏ, rồi buông một tiếng thở dài. Trong một vài giây, cặp môi của ông lắp bắp không nói lên được lời nào. Lát sau, ông già mới cất lên được những tiếng nhẹ nhàng hòa trong hơi thở:

- Đàn đi. Cậu hãy đàn thử xem nào.

Pa-ga-ni-ni không còn nhìn thấy người ngồi trước mắt. Một niềm vui sướng kỳ lạ bừng dậy trong đôi mắt sáng mở rộng. Nhiều lần như con diều hâu rình mồi, người già đột nhiên chồm đầu về phía chiếc đàn rồi về phía người trai trẻ. Pa- ga-ni-ni cầm lấy chiếc đàn, đưa ngón tay cái lướt nhẹ lên những sợi tơ, một sự rung chuyển ngọt dịu lạ thường đáp lại sự ve vuốt ấy. Quả là cây đàn của một công trình bậc thầy, và chưa bao giờ người nhạc sĩ trẻ cầm được vật quí như thế trên đôi tay mình. Lập tức, với sự nôn nóng lạ thường, Pa- ga-ni-ni cầm lấy cung đàn và một hòa điệu vang lên như những tiếng gọi kỳ diệu thiêng liêng. Thoáng trong giây phút, cả sự nghèo khổ, tàn tạ trước mắt đều như tan biến, và những khung cảnh kỳ ảo lạ lùng, những hải đảo xa nở đầy hoa đẹp, những rừng xa gió thổi rì rào, những buổi mặt trời sụp xuống lặng yên trong sự trinh trắng nguyên vẹn của thời sơ khai, từ từ hiện lên, rồi trên cơ sở của niềm yên tĩnh khá kỳ quặc ấy, tâm hồn xáo động của người nhạc sĩ bùng dậy như là sóng tràn lửa cháy. Khi tiếng đàn dừng, những thứ dư âm kỳ ảo vẫn còn vang vọng khắp phòng và cả hai người đối diện tưởng chừng như mình lạc loài từ một thế giới huyền hoặc để quay về lại trần gian.

- Tôi chưa bao giờ được dạo trên một cây đàn tuyệt diệu thế này. Làm sao mà bác có được vật quí đến thế?

Người hành khất già ngồi yên trên chiếc ghế nhỏ suốt trong thời gian lắng nghe tiếng nhạc, ngắm nghía người trai trẻ trước mặt mình với một đôi mắt gần như mù loà. Trong sự lặng yên, khuôn mặt nhăn nheo bỗng điểm nụ cười sung sướng.

- Tôi biết bây giờ tôi có thể chết một cách yên lành. Từ lâu, tôi vẫn mong đợi tìm được một người có thể sử dụng vật phi thường này. Cậu sẽ hiểu rõ vì sao mà cây đàn ấy thuộc phần sở hữu của tôi. Chuyện cây đàn này đồng thời cũng là câu chuyện về sự lỗi lầm gớm ghiếc mà tôi phạm phải trong đời.

Vừa nói câu ấy, người hành khất già sờ soạng đi tìm chai rượu phủ đầy bụi bặm rót vào trong ly, rồi tiếp:

- Tôi vốn xuất thân từ một gia đình giòng dõi làm đàn ở tỉnh Măng-tu. Người anh của tôi và tôi từ thuở bé thơ đã chuyên chú vào nghệ thuật làm đàn, cố tạo ra những cây đàn có một dư âm đặc biệt. Sau những năm dài hành nghề, với những cố gắng không ngừng, anh tôi đi đến thành công. Người đã chế tạo được chính cây đàn mà cậu cầm ở trên tay, sau khi đã thử gần sáu chục kiểu ở trong xưởng thợ của mình. Trong những bài toán khó khăn, bí hiểm của Xtra-đi-va-ri-uýt, của A-ma-ti, anh tôi đã tốn công sức kiếm tìm mới áp dụng được một cách thiện nghệ. Tôi cũng thí nghiệm theo phương thức ấy. Tôi cũng biết rằng phải có thứ gỗ phẩm chất đáng giá, phải chất sơn láng bên ngoài pha chế một cách nào đó mới đạt được sự êm dịu kỳ ảo của những âm thanh, làm nên giá trị độc đáo của một cây đàn ở giữa muôn ngàn nhạc cụ thông thường. Chắc cậu cũng hiểu rằng chất sơn láng của một chiếc đàn có tầm ảnh hưởng ra sao. Nếu pha chế nhiều chất rượu, âm thanh trở thành gay gắt, ồn ào, nếu pha quá nhiều chất dầu, âm thanh ngọt dịu nhưng mà nặng nề.

Nhưng cái chìa khoá của sự bí mật không nằm ở nơi chất màu sơn láng bên ngoài. Không, nhất định không phải như thế.

Anh tôi vốn là một người tính tình trầm tĩnh một cách kỳ quái khiến người có một thái độ dè dặt ít ai hiểu nổi. Ông ta giữ gìn nghệ thuật làm đàn của mình với một tinh thần cẩn trọng khác thường và cả đối với tôi đây, là em máu mủ, ông cũng không chịu tiết lộ kết quả những điều tìm kiếm của mình.

Một hôm, chế tạo xong chiếc đàn này ông đã ngồi đàn nhiều giờ liên tiếp. Tôi hiểu ngay rằng anh tôi đã đi đến sự thành công không kém Xtra-đi-va-ri-uýt. Nhưng ông ta đã đạt đến bằng phương thức nào? Đêm sau tôi bèn phục rượu ông ta cốt để khai thác sự bí mật ấy, và cuối cùng tôi toại nguyện.

Người hành khất già ngừng nói. Nhiều lần ông ta đưa tay vuốt lấy chiếc trán nhẵn bóng của mình. Cặp mắt gần mù loà kia như đục mờ thêm trong sự lạc loài giữa những ý niệm xa xôi. Tưởng như trong giây phút đó, ông đã quên hẳn con người ngồi trước mặt mình.

Cuối cùng, Pa- ga-ni-ni bèn hỏi:

- Và rồi sao nữa?

Mí mắt của người già nua nhấp nháy liên hồi ; ông ta thở dài, nhắm đôi mắt lại như để dễ nhớ bao nhiêu chuyện cũ đã qua và tiếp tục kể bằng cái giọng nói khàn khàn, thỉnh thoảng dừng lại trong sự ngập ngừng.

- Anh tôi bảo rằng ông đã lấy chất gỗ trăn (aune _ tiếng Pháp) mọc sâu dưới nước. Ở gần làng chúng tôi có một hồ nước khá sâu, xuất hiện sau cơn động đất, ở cạnh ven rừng, đó là một khu rừng hoang vu xa cách nhà cửa dân cư. Vốn thích những sự dạo chơi thơ thẩn một mình trong những khu miền vắng vẻ, anh tôi chú ý đến cây trăn ấy, vào một ngày hạ đẹp trời. Chòm lá của nó nhô lên phủ đầy mặt nước. Sau khi xuống tắm ông ta khám phá ra cây gỗ ấy. Và lặn xuống sâu, ông đã sờ soạng tìm xem thớ vỏ của cây. Tất cả gia đình sống về nghề đàn vẫn thường tin theo truyền thuyết là gỗ trăn mọc dưới nước là chất gỗ quí hơn hết để chế tạo đàn vĩ cầm. Anh tôi bèn đem cưa đến cưa những nhánh lớn dưới nước, và tạo nên chiếc đàn nầy mà ông đặt tên là đàn “huyền diệu”.

Nhưng rồi một chuyện khủng khiếp xảy ra.

Sau khi nghe anh thổ lộ, tôi không làm sao ngủ được. Sự ghen tị làm tôi trằn trọc không yên. Nửa đêm, tôi bèn nhổm dậy đánh cắp cây đàn và rời khỏi nhà.

Giọng nói của người hành khất mỗi lúc càng yếu ớt hơn:

- Như thế, tôi đã đánh cắp công trình của người anh tôi, công trình của bốn mươi năm cố gắng không ngừng. Thật tâm tôi không cố ý chiếm đoạt vĩnh viễn kết quả công trình gian khổ của người, nhưng muốn có sẵn dưới tay để mà ra công nghiền ngẫm kỹ thuật chế tạo nên một cây đàn tương tự. Tôi sẽ đi tìm chất gỗ nói trên, và sẽ gia công nghiên cứu để tạo cho được một cây đàn khác không kém quí giá. Sau khi tìm hiểu coi như đầy đủ, tôi bèn đem chiếc vĩ cầm đánh cắp về trả lại cho người anh, hy vọng sẽ làm dịu bớt những cơn giận dữ bằng cách bồi thường một món tiền lớn xứng đáng với cái giá trị tôi sẽ tạo thành. Tôi không quan thiết đến chuyện bạc tiền, mà chỉ băn khoăn về danh dự mình và cái vinh quang của sự thành đạt.