← Quay lại trang sách

- 2 -

Trên bước đường về, tôi phải đi qua chiếc hồ có bóng cây trăn phủ tràn mặt nước. Tôi dừng lại ở bên bờ để nghe tiếng gió rì rào trong những cành lá sum sê và tự nhủ thầm trong lòng: “Cây gỗ huyền ảo biết bao! Quí giá biết bao!” Tôi cởi áo quần, nhảy vội xuống nước tay cầm một chiếc cưa bén, và sau khi đã hít một hơi thở khá dài để lặn cho sâu, tôi vừa hụp xuống dưới một cành cây khá lớn thì bắt gặp xác anh tôi. Ông đã treo cổ lên trên cành cây, khuôn mặt sưng vù, tóc xoã trong nước như đám rong rêu, đá lớn chất đầy ở trong các túi áo quần.

Khi vừa chạm phải xác chết một cách đột ngột, tôi muốn kêu lên một tiếng hốt hoảng, nhưng nước tràn đầy cả miệng. Làm sao mà tôi có thể trồi lên được trên mặt hồ? Tôi vẫn ngạc nhiên về sự cố gắng khác thường như thế.

Anh tôi đã tự tử rồi. Nguyên nhân của cái chết ấy, thật là dễ hiểu: ông không thể nào cầm được lòng mình khi bị đánh mất công trình tuyệt phẩm mà sự cố gắng gần như trọn đời mới đạt được thành.

Như thế cậu cũng hiểu rằng, tôi không còn có tâm trí nào nữa để mà chế tạo cây đàn tương tự. Giấc mộng sản xuất cây đàn tuyệt vời thế là tan tành. Tôi cũng giã từ luôn nghề nghiệp cũ bao năm theo đuổi của mình, nghề nghiệp nhắc lại nỗi niềm xót xa giày xéo tâm can. Cũng có những lúc quá đỗi nghèo nàn, tôi muốn đem bán chiếc đàn “huyền diệu” nầy đi nhưng mà lòng không đành đoạn.

Người hành khất già trở nên yên lặng, nước mắt chảy nhoà xuống đôi má hõm nhăn nheo. Pa- ga-ni-ni cũng thấy xúc động. Một lát, để xoá cho tan giây phút nặng nề, Pa- ga-ni-ni bèn hỏi:

- Tại sao bác không cố gắng để thành nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng? Ngón đàn của bác không phải là không sắc sảo công phu?

Sau giây phút im lặng chỉ nghe hơi thở mệt nhọc của người hành khất, những tiếng đổi khác đã được thoát ra từ miệng người nầy:

- Muốn trở thành người nghệ sĩ chân tài, phải có tấm lòng trong trắng. Làm sao mà đạt đến một nghệ thuật cao siêu với một tấm lòng chứa đầy tủi nhục, luôn luôn lo sợ sự nguyền rủa oán hờn? Từ khi tìm gặp cái chết của người anh tôi, tôi không còn sống được một giờ phút yên lành nào nữa. Tôi sống xa cách mọi người, gần như tôi đang sống giữa nước hồ sâu thẳm. Cậu có thể nghĩ rằng tôi điên loạn. Nhưng mà quả tình tôi nói sự thật. Vì vậy, có bao giờ tôi mở cửa sổ đâu? Những khi sống một mình trong gian phòng này, tôi vẫn ngụp lặn ở dưới nước hồ đấy chứ. Kìa, cậu có nhìn thấy anh tôi đó không?

Một thứ ánh sáng kỳ lạ thoáng hiện ở trong đôi mắt của người khốn khổ. Cánh tay phải của ông run rẩy đưa lên chỉ vào khoảng tối bên trong của gian phòng hẹp mà ánh đèn nhỏ không soi sáng tới. Bóng đen của người hành khất kéo dài ở phía sau lưng như một hình thù đe doạ.

- Xem nào… Cậu có nhìn thấy cây trăn đó không? Nó mọc ở kia… Càng ngày nó càng cao lên, cao đụng mái nhà rồi đó, cao tít như khoảng trời kia… Khắp nơi tôi nhìn thấy lá cành nó rườm rà… Cậu có thấy không? Xác của anh tôi lủng lẳng kia kìa!

Những lời nói cuối cùng rầm rì tắt lịm ở trên đôi môi nhợt nhạt của người hành khất già nua. Một ít bọt miếng trào bên khoé miệng của người khốn khổ và trước khi Pa- ga-ni-ni kịp đỡ lấy người thì người đã quì xuống và khóc nức nở. Lát sau, ông ta dần dần trấn tĩnh được mình và đưa hai tay lên trời, vừa nói:

- Có lẽ trời đất sẽ mở lòng để tha thứ cho tôi, nếu tôi đem vật quí nầy trao tặng cho một nghệ sĩ tài hoa như người trai trẻ hôm nay. Cậu hãy cầm lấy, hãy cầm lấy đi, và hãy sung sướng hơn cả anh tôi và tôi với chiếc đàn nầy.

Pa-ga-ni-ni cảm thấy băn khoăn ít nhiều khi mình làm chủ chiếc đàn đã gây bao nhiêu đau khổ cho những chủ nhân của nó. Nhưng cuộc hòa nhạc ngày mai đã đến. Không có cách gì từ chối, hơn nữa cây đàn quí giá cũng làm cho người nhạc sĩ cảm thấy phấn khởi ít nhiều. Một ý nghĩ khác thoáng hiện ra trong óc cậu: nếu đem tài năng của mình làm cho sáng tỏ rõ ràng nhờ nhạc cụ nầy, biết đâu sẽ không an ủi vong hồn của người đã chết và xoa dịu được bớt nỗi đau khổ của người đang sống khắc khoải ở nơi ngõ hẻm hang cùng này đây.

Pa-ga-ni-ni đỡ người hành khất nằm xuống nệm rơm. Cậu tìm thấy trong tủ gỗ mục nát đôi miếng bánh thừa, một ít phó mát và đem đặt trên chiếc ghế cạnh người hành khất:

- Bác hãy cố gắng ăn lấy đôi miếng để lấy lại sức.

Nhưng người hành khất lắc đầu. Đoạn ông ta cất lời:

- Ta tặng vĩnh viễn cho em cây đàn “huyền diệu”. Hãy giữ lấy nó và hãy thề rằng không được đem bán hay giao lại cho người khác.

Vừa nói dứt lời người già cả ấy âu yếm đặt tay lên đầu của người nhạc sĩ trẻ tuổi, và trước cử chỉ của kẻ khốn cùng, cô độc cậu bé cầm lòng không được, để cho dòng lệ chan hoà. Cậu nói bằng giọng ngập ngừng:

- Ngày mai tôi sẽ đến thăm sức khoẻ của bác. Tất cả món tiền mà tôi thâu được trong cuộc hòa nhạc tôi mang về hết cho bác. Bác sẽ có đủ chi tiêu, khỏi phải lo âu về nỗi thiếu thốn.

Đêm ấy, nằm trong quán trọ, Pa- ga-ni-ni không sao ngủ được. Cậu thao thức với cây đàn và sau cùng ngồi dậy đem hết sức tài năng của mình diễn tả qua sức truyền cảm tuyệt vời của nó. Vừa sáng, chàng mua một số thức ăn ngon lành mang đến cho người hành khất. Nhưng vừa bước vào ngưỡng cửa chàng dừng bước lại: một bầu không khí ảm đạm toả nồng. Trong bóng tối mờ, người hành khất già nằm đó, bất động. Một nụ cười héo hắt giữ nguyên trên môi nhưng mà đôi mắt trợn trừng, mở rộng trong nỗi kinh ngạc lặng yên. Pa- ga-ni-ni lùi lại, tự nhủ: ông ta chết rồi. Nghẹn ngào, cậu bé quì xuống. Cậu hiểu rõ rằng từ đây cậu không còn cách gì đền ơn lại người già nua khốn khổ đã sống kéo dài những ngày hối hận dày vò. Nhưng khi trao tặng chiếc đàn cho cậu, người già kia đã muốn giúp đỡ cậu thêm một phương tiện huyền diệu để mà bày tỏ những nỗi khốn khổ của cuộc đời này, phơi bày cả mối tham vọng đê hèn, cả sự thống khổ và niềm tuyệt vọng, cả sự hối hận và sự khốn cùng mà hiện thân của người ấy là một biểu hiện rõ ràng. Cúi xuống bên giường người chết, Pa- ga-ni-ni chỉ biết thì thầm:

- Tôi sẽ đem hết sức mình để làm vinh dự cho bác. Bác hãy nằm yên trong cõi vô cùng. Tôi xin giữ lời hứa ấy.

Từ đây bắt đầu cuộc đời vinh quang của Pa- ga-ni-ni. Tất cả những cuộc trình diễn của chàng đều được chào đón nồng nhiệt và tài năng chàng là một vì sao sáng chói giữa bầu trời nghệ thuật. Một hôm động lòng nhớ nhà, chàng muốn quay về thăm mẹ, thăm em và cha. Pa- ga-ni-ni đến Li-wuột-nơ thương lượng quá giang một chiếc thuyền buôn. Vừa bước lên thuyền, chàng cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ và muốn quay lại. Nhưng cánh buồm đã mở rộng và thuyền từ từ ra khơi. Giữa chừng, người thuyền trưởng nhìn trời rồi bảo:

- Chuyến đi này có vẻ không được yên lành. Thế nào cũng gặp một cơn bão lớn. May ra trời giúp chúng ta tránh khỏi nạn này.

- Thế sao ông lại cho thuyền ra khơi mà không nán lại chờ vài hôm nữa rồi sẽ lên đường?

- Tại sao! Tại mười ngàn con lạc đà của vương quốc xứ Thổ nhĩ kỳ mà thuyền tôi phải chở đầy khẳm gạo cho sớm đến nơi. Không đúng kỳ hạn là coi như mất toi hết cả vốn lẫn lời.

Pa-ga-ni-ni ngủ độ hai giờ thì nghe một tiếng động lớn thức tỉnh chàng dậy và chàng bị ném mạnh vào mạn thuyền. Chiếc thuyền đang trôi giữa những cơn sóng cuồng điên. Chàng bèn tìm cách bò lên trên boong. Một cảnh quái đản hiện ra ở trước mắt chàng.

Mặt trăng tròn đầy sáng chói trên những lượn sóng xao động, thỉnh thoảng bị những đám mây che phủ rồi trăng xuất hiện, điểm bạc muôn ngàn đỉnh sóng sùi bọt nhấp nhô. Tiếng rền của sóng, tiếng hú của gió vang động liên hồi phủ đầy cả khoảng không gian. Đoàn thủy thủ tấp nập làm việc như trong cơn sốt cuồng nhiệt. Pa- ga-ni-ni đứng nhìn cảnh ấy và bị thu hút trong sự sôi động hãi hùng. Một tiếng ì ầm từ xa nghe như muôn ngàn tiếng trống thúc dồn và những đống nước ào ào chạy đến như muốn nhận chìm chiếc thuyền nhỏ bé. Gió bão làm cho rối bù đầu tóc của người nhạc sĩ và nước biển bắn vọt lên tẩm ướt mình chàng. Một sự rúng lạnh chạy khắp toàn thân, thốt nhiên Pa- ga-ni-ni có cảm tưởng rằng linh hồn của mình đã tách rời khỏi thể xác tan chìm trong quang cảnh hỗn độn vây quanh. Tất cả những nỗi sợ hãi, yếu hèn, đều vụt biến tan. Pa- ga-ni-ni hiểu rõ vật gì đang chiếm lấy mình với sự hung bạo lạ thường: đó là âm nhạc, nguồn nhạc sơ khai thể hiện trong muôn ngàn âm thanh mà những con người không sao nghe thấy. Lời ca man dại của biển cả, tiếng hú lồng lộn của gió khơi, trở thành một bản hoà tấu kỳ diệu, miên man, bất tuyệt.

Vừa trong lúc ấy một tảng nước lớn giáng xuống người chàng, đánh chàng ngã quỵ ở trên mặt thuyền. Vừa mở mắt được, chàng thấy mặt trăng ra khỏi mây mù đang bị xua đuổi bởi cơn gió bão. Những bức trường thành kỳ quái màu xanh trong suốt hiện lên khắp ngả, rồi một luồng gió bạo cuồng xé toang cánh buồm lớn rộng, xô đẩy con thuyền chao đảo hẳn về một bên. Pa-ga-ni-ni nghĩ thầm: “Phen này ắt không thoát khỏi nạn rồi.” Và nỗi khiếp hãi thình lình hiện đến vò nát lòng chàng khi chàng nghĩ đến cây đàn huyền diệu. Cố thu hết những sức lực còn lại, chàng tìm cách bước xuống thuyền giữa sự chao đảo mỗi lúc dồn dập và mạnh mẽ hơn. Nước đã tràn ngập trong khoang, và trong giây phút, Pa- ga-ni-ni mơ hồ nghĩ rằng chiếc đàn vĩ cầm sẽ lôi kéo cả chiếc thuyền chìm sâu xuống nước. Cây trăn đã mọc từ lâu trong nước và chất gỗ nó làm nên chiếc vĩ cầm muốn quay về lại với cái bản thể của mình. Chiếc thuyền sẽ làm một cái quan tài chôn cất vĩnh viễn Pa- ga-ni-ni và bạn đồng hành.

Giữa cơn suy tưởng ấy, một đợt sóng lớn băng qua mạn thuyền xô dạt một số thủy thủ ra ngoài biển khơi. Những tiếng kêu mơ hồ vẳng lên chìm ngập trong tiếng ồn ào vang động như nơi địa phủ. Như một cái máy, Pa- ga-ni-ni cúi lượm một mảnh ván lớn rơi dưới chân mình, quờ lấy chiếc dây quấn nó vào người thật chặt. Chỉ vài giây sau, một tiếng hãi hùng thoát ra từ miệng những người còn lại. Một luồng sóng lớn giáng mạnh xuống boong thuyền, rồi một luồng nữa, và một luồng nữa, chiếc thuyền tan vỡ bị nhận chìm sâu dưới lớp sóng dồn. Pa- ga-ni-ni bị cơn nước xoáy cuốn đi như một chiếc lá. Bọt trắng xoá mờ chung quanh và cả không gian đầy tiếng kêu gào gầm thét. Qua những vực sâu hoặc bị ném lên tầng cao, chàng không còn đủ sức năng nghĩ tưởng việc gì, chỉ biết bám chặt vào mảnh ván kia bằng cái sức mạnh của một bản năng tự vệ.

Khi choàng tỉnh dậy, Pa- ga-ni-ni nghe đầu đau nhức như búa bổ và tưởng mình còn đang sống giữa vùng trời nước bao la đầy những sóng cuồng gió loạn. Nhưng không, bàn tay của chàng chạm phải đất liền và trong bóng tối chàng nhìn thấy những đốm sáng li ti chập chờn trước mắt. Một đôi tiếng người vọng lại và khi chàng định thần được để nhìn chung quanh mới hiểu nơi mình rơi vào là một động đá có vẻ là nơi thờ tự. Ngọn lửa dần dần được khơi sáng lên và một tiếng hát cầu kinh vang dậy chập chờn ở trong hang động. Một người tuổi tác cao lớn, mặc toàn đồ đen, vừng trán phủ chiếc khăn trắng, theo sau một số đàn ông, đàn bà, tiến đến bảo chàng:

- Những người ở đây đã tìm gặp anh ban sáng ở trên bãi bể. Trọn cả ngày nay anh mê thiếp tưởng không có hy vọng gì sống được. Chúng tôi đã thay quần áo và tìm cách cứu mạng sống cho anh.

Bây giờ Pa- ga-ni-ni mới chú ý đến quần áo của mình, một bộ quần áo sờn cũ của kẻ chăn trừu. Chàng hỏi:

- Các ngài là ai? Và đây là đâu?

Lập tức một người to lớn với một khuôn mặt đầy sẹo, cất lời:

- Thưa sư trưởng, tốt hơn đừng để cho thằng nhỏ nầy sống sót, chỉ sợ nó lại phản bội chúng ta.

Và một số người phụ hoạ:

- Giết đi! Giết nó ngay đi.

Người già ban nãy bỗng thét lên những tiếng căm phẫn lạ thường:

- Các người đã quên hẳn rằng tình thương những kẻ khốn khổ là một đại luật mà chúng ta nguyện suốt đời noi theo hay sao? Người tuổi trẻ nầy chỉ cần đến nơi cầu nguyện với ta và thề rằng gã sẽ không tiết lộ những gì đã nghe đã thấy nơi đây. Chúng ta tin rằng những kẻ phản bội lời thề tất nhiên phải chịu một sự trừng phạt do cái uy quyền thiên lý công minh.

Người có vẻ mặt hung dữ lúc nãy tiếp lời:

- Chỉ cần một sơ suất nhỏ của nó cũng khiến chúng ta đi vào tù ngục hay chịu cực hình.

Nhưng người sư trưởng với giọng quyền hành đầy vẻ xót thương dõng dạc truyền lịnh:

- Hãy làm những gì mà các người thấy thiêng liêng và xứng đáng nhất. Không ai lại bận tâm về nỗi khổ tương lai mà quên giải thoát nỗi khổ trước mắt. hãy cứu người này rồi sau đó sẽ định đoạt cuộc đời của gã cũng chẳng muộn gì.

Qua cách ăn mặc và cách phát biểu của người chung quanh, Pa- ga-ni-ni đoán chừng mình bị lạc vào giữa người Vô-Đoa phần đông là kẻ chăn cừu và sống bằng nghề săn bắn trong những dãy núi An-bơ, đã bị giáo hội La Mã kết án như là lớp người chạy theo Ma giáo. Dù quá mệt mỏi, chàng cũng cố ngước dậy nhìn chung quanh, thấy bức tường loang lổ, những bầy lừa san sát ngoài cửa mang những đứa trẻ ngủ thiếp trong những giỏ lớn trên lưng. Nhiều người đàn bà khóc lóc và những đàn ông có một vẻ mặt lầm lì quyết liệt. Người tuổi tác ban nãy có lẽ là kẻ cầm đầu những toán người này. Sau khi tập hợp các người quanh mình lại thành vòng tròn, sư trưởng bắt đầu một cuộc thuyết pháp. Ông ta mở đầu bằng một câu nói: “Niềm tin chân chính phải được chứng tỏ trong những hành động. Và hành động chân chính làm nên con người, trước hết là phải đùm bọc, bênh vực cho kẻ khốn cùng. Đoạn, với giọng nói cương quyết, nhưng thâm trầm, ông kể những nỗi gian khổ thường trực mà người Vô-Đoa chịu hằng ngày hơn là bất cứ một hạng người nào trên mặt đất nầy. Dứt lời, ông lấy miếng bánh khá lớn trong một trái bí khoét ruột, bẻ ra từng miếng phân phát chung quanh. Đoạn, vì thiếu vật dụng, ông cho chuyền một bình rượu để mọi người cùng uống lấy một ngụm. Người mặt sẹo ban nãy theo dõi rất kỹ để xem Pa- ga-ni-ni có dùng bánh, rượu hay không. Sau đó, toàn thể hát lên một bản thánh ca bằng giọng rì rầm đầy vẻ thành kính.

Tiếng hát vừa dứt thì bỗng từ xa vang dậy một tiếng súng nổ, rồi hai, rồi ba, rồi cả một loạt súng dài. Toàn thể bị khuấy động trong một niềm sợ hãi cực độ và một giọng nói vang lên: “Chúng ta bị nội phản rồi! Trốn chạy đi thôi”.

Một bàn tay nắm lấy chiếc đèn bão ném vào thùng nước dùng để dội tắt đống lửa. Một cảnh hỗn độn điên cuồng bắt đầu diễn ra trong cảnh tối tăm. Mọi người tìm cách thoát về phía cửa. Những đứa trẻ con kêu khóc, những người đàn bà kêu gào. Một giọng trịch thượng cố gắng ra lệnh, ban hành trật tự, kỷ luật một cách tuyệt vọng. Một vài người khác chưởi rủa, chạy tìm khí giới giữa lúc bên ngoài tiếng súng mỗi lúc càng tăng. Trong sự xô đẩy cuồng loạn, Pa- ga-ni-ni nghe một người hỏi:

- Những tay súng ở Va-ti-căn bao vây chúng ta phải không?

- Không phải, bọn lính ở Pi-dờ đó.

Giữa lúc chạy trốn, Pa- ga-ni-ni vấp phải tảng đá nhào trên mặt đất. Vừng trăng chưa lên và trong bóng mờ loạng choạng chàng thấy nhiều người lố nhố sau các lùm cây. Vừa gượng đứng lên, thì ba bốn người mặc đồ đồng phục mang súng trường lớn hiện ra trước mắt. Chàng thấy họ thổi cháy bùng ngọn đuốc trên tay và giữa ánh sáng hực đỏ Pa- ga-ni-ni nhận diện được người mặt sẹo vừa rồi và một người chăn cừu già bị còng tay lại, dắt theo phía sau.

Pa-ga-ni-ni cố gắng phân trần mọi lẽ nhưng các người lính tỏ ra không chút quan tâm. Họ dùng dây thừng trói ké tay chàng ra sau, rồi cả bọn kéo ra khỏi hang đá. Bỗng những viên đạn rít lên tới tấp xuyên qua những cành lá thông dày đậm. Một sĩ quan hét lớn:

- Khốn nạn! Lũ chó dại ấy bắn về phía ta.

- Chúng có khí giới!

Pa-ga-ni-ni và các người kia bị đẩy gấp rút ra khỏi hẻm núi. Mệt lả, người như rụng rời, cuộc hành trình này là sự đày đoạ vô cùng não nề đối với sức khoẻ của chàng. Sau ba giờ đi mệt nhọc, số người bị bắt được đẩy lên một chiếc xe, cuối cùng đưa vào một trại giam lớn trong một thành lũy rất là kiên cố. Pa-ga-ni-ni không còn sức để nghĩ ngợi và chìm vào trong giấc ngủ nặng nề. Sáng ngày, một người đội trưởng vào đưa tất cả lên toà án binh. Đến phiên thẩm vấn, Pa- ga-ni-ni sau khi kể hết tên tuổi, lai lịch, chàng cố phân trần rằng mình là kẻ đắm tàu không thuộc môn phái Vô-Đoa. Nhưng vị chánh án, một viên đại tá mang đầy huy chương, hét lên:

- Mầy đừng kể chuyện cho trẻ con nghe như những mụ già lẩm cẩm. Người ta bắt mầy giữa các tín đồ với bọn đạo hữu của mầy trong một cuộc họp “thiêng liêng”. Vậy thì mầy phải chịu tội. Tuổi mầy còn nhỏ, toà án khoan hồng, tuyên phạt năm năm cấm cố.

Một thời gian ngắn sau đó người cai ngục Phrăn-xét-cô không ngăn được nỗi kinh hoàng. Nơi phòng giam cuối dãy, đêm đêm thường nghe nhiều tiếng quái gỡ vang lên, những tiếng chó sủa, những tiếng mèo kêu vừa dứt người ta chợt nghe gà gáy tiếp theo, những tiếng gà mẹ gọi con và tiếng rống dài của một bầy lừa. Toàn thể các tiếng động ấy vang lên hết sức tự nhiên khiến bọn cai ngục tin chắc rằng bầy quỉ sứ bắt đầu phá phách cơ trại của mình. Nửa đêm ông ta run rẩy chạy tìm những người lính gác phụ cận đánh thức họ dậy bằng những lời nói ngập nghịu và dáng mặt tái xanh.

Cuối cùng gã được biết rằng người chỉ huy già ở đây vừa cho tên tù trẻ mượn một chiếc vĩ cầm. Từ đấy, gã đờn mê mệt như kẻ điên loạn. Nhiều ngày Pa- ga-ni-ni gần như bỏ ăn, bỏ ngủ để đàn. Cây đàn được giao cho chàng tuy không bằng cây “huyền diệu”, nhưng cũng thuộc loại tiếng tăm, do một thợ đàn danh tiếng là Bec-công-xi chế tạo.. Thực không ai hiểu vì sao chiếc đàn như thế lại rơi vào tay một kẻ võ phu không biết âm nhạc, là viên chỉ huy của đồn trại này. Kể từ ngày ấy, Pa- ga-ni-ni dùng chiếc đinh đã sét rỉ, đợi hoàng hôn xuống, ghi một vạch ngắn lên bức tường đánh dấu một ngày chấm dứt, thay cho tờ lịch. Sau hai mươi lăm ngày giam không có chiếc đàn, khi người lính gác mang một chiếc vĩ cầm đến thì chàng tiếp đón lấy nó như người lữ hành chết khát ở giữa sa mạc đón tiếp một cái ốc đảo. Tay vừa chạm đến nhạc cụ, sự sống nơi người chàng bùng dậy một cách khác thường, và chàng vụt hiểu âm nhạc mới là cái gì thực tại đối với người chàng. Những âm thanh chàng gợi ra hàng ngày trên chiếc vĩ cầm đem lại lẽ sống cho những chuỗi ngày vô vọng. Đồng thời chàng cũng ý thức được rằng nghệ thuật mà lâu nay chàng hết sức tự hào vẫn chưa làm cho thoả mãn được chàng bởi vì chàng vẫn chưa có cách gì diễn tả được hết bao nhiêu uẩn khúc tình cảm tế nhị, bao nguồn cảm hứng dạt dào, bao nhiêu hiện trạng phức tạp của cuộc đời này.

Bây giờ chàng lại bắt đầu một cuộc tập dượt, không phải như một bậc thầy mà với thành tâm cố gắng của một học sinh. Từ lúc bình minh trời chưa hừng sáng, đến lúc hoàng hôn nhận chìm nhà ngục trong bóng đêm dài, Pa- ga-ni-ni cứ đàn tiếp tục, chỉ dừng lại trong thời khoảng ngắn ngủi để dùng thức ăn đạm bạc mà bọn canh ngục đưa vào. Nửa đêm, Pa- ga-ni-ni có thể choàng dậy để đàn, và tưởng chừng như có sức vô hình quỉ quái ám ảnh hồn chàng khiến cho cơ thể cử động không yên theo một sức năng diễn tả dạt dào. Cũng có nhiều lúc quá đỗi mệt nhọc, chàng muốn ngừng lại, nhưng các ngón tay như bị một sức phù phép điều khiển cứ bám chặt lấy cây đàn không chịu rời ra. Những phút bị sự lôi cuốn như thế, Pa- ga-ni-ni khóc ròng, quằn quại trong nỗi dày vò, bởi một sức mạnh ngoài sự chi phối của mình. Có lúc Pa- ga-ni-ni ngồi đàn suốt hai mươi tám giờ liền. Sau đó, chàng nằm phủ phục, gần như kiệt quệ.

Tháng năm cứ thế trôi qua, và một ngày nọ người chỉ huy trưởng già nua với chòm râu bạc làm lễ mừng ngày sinh nhật lục tuần. Giữa buổi dạ tiệc, “người nhạc sĩ điên” được cho gọi đến. Ban đầu Pa- ga-ni-ni diễn tả một điệu nhạc buồn sầu thảm, và tiếp sau đó những người tham dự sửng sốt tưởng chàng là cái kỳ quan thứ tám của thế giới này. Mười lăm ngày sau, người chỉ huy già đến tìm nhạc sĩ tận nơi ngục thất. Ông bảo:

- Xa người ta lấy làm buồn, nhưng cho ngươi được tự do, đó là điều ta sở nguyện. Ta đoán chắc rằng câu chuyện nhà ngươi nhập cuộc với bọn Vô-Đoa chỉ là việc làm điên rồ của tuổi thiếu niên.. Bây giờ ngươi được tự do ra khỏi nơi này, và cố chứng tỏ với thiên hạ rằng ngươi là nghệ sĩ lớn lao. Khi đã đạt được vinh quang, thỉnh thoảng có giây phút nào rảnh rỗi, ngươi hãy hồi niệm mà nhớ đến ta. Ngươi nhớ đến người chỉ huy già nua bị sự trừng phạt phải ra canh giữ chốn hoang vu này. Cây đàn vốn là kỷ niệm của gia đình ta, ta tặng ngươi làm kỷ niệm.

Và sau một năm mười một tháng, Pa- ga-ni-ni rời khỏi nhà giam lên đường đúng vào ngày hai mươi tám, tháng bảy, của năm một ngàn tám trăm lẻ năm. Tiết trời khá nóng và nắng chói chang trên dãy đồi cao kéo dài như những trường thành, mênh mông, huy hoàng như một giấc mơ vinh quang. Chàng nghĩ đến những người bạn đồng hành hai năm về trước trên chiếc thương thuyền bây giờ không biết tản mác nơi nào, hay đã chôn vùi từ lâu ở trong bụng cá dưới những vùng nước thẳm sâu. Tự nhiên chàng cảm thấy một ý niệm lạ lùng: bao nhiêu sợ hãi, thấp thỏm về đời ám ảnh tâm hồn từ trước bây giờ vĩnh viễn xoá tan. Những năm tù ngục đã gạn lọc hết những gì xưa kia làm cho khắc khoải hồn chàng, những nỗi sợ hãi về sống, về chết, về tình yêu, về hận thù, về người, về trời, về hạnh phúc và đau khổ, và tất cả những hiện trạng ở trong thực tại, đều thành vô nghĩa với chàng. Chàng biết rằng mình lớn hơn những sự kiện ấy, chàng được võ trang một sức sống mạnh để bước vào đời, và chàng không thể cho phép mình được tự hủy hoại mình.

Khi đến Li-vuốc-nơ, Pa -ga-ni-ni tham dự liên tiếp mấy đêm hòa nhạc. Đêm nào chàng cũng được sự tán thưởng nồng nhiệt. Vào đêm cuối cùng, chàng được mời đến biểu diễn tài nghệ ở nơi lưu trú những người tàn tật. Khi mới gặp gỡ những người khốn khổ ngồi đứng trước mình, Pa-ga-ni-ni cảm thấy một nỗi ngỡ ngàng. Từ trước đến nay chàng vẫn quan niệm rằng người đàn bà là hiện thân của vẻ đẹp, là sự toàn thiện về mặt thể chất. Nhưng đây, ở trước mặt chàng, là một cô gái lưng gù, một người đàn bà què liệt chống trên nạng gỗ, một người bò lết trên đất để tự di chuyển. Một niềm xúc cảm thúc đẩy trong hồn, và người nhạc sĩ nhớ lại câu nói của vị sư trưởng ở trong hang động ngày nào: “Lòng thương với kẻ khốn cùng”… Tiếng đàn bỗng nhiên vang lên khắp phòng những tiếng kêu gào đau khổ và tiếng nức nở triền miên. Người nhạc sĩ bỗng nhớ lại những năm bị giam giữ trong đời mình, nghĩ đến ngày được giải thoát, và từ tiếng đàn thống khổ chuyển sang một lòng nhớ ơn vô hạn tràn trề. Những người tham dự bị lôi cuốn theo tiếng nhạc, đến khi tiếng đàn vừa dứt mỗi người cảm thấy ngỡ ngàng hình như không biết mình lạc về đâu. Tất cả triều đình tham dự, và nhà vua, và hoàng hậu, và tất cả quan khách vỗ tay như sấm, hoan nghênh một bậc thiên tài.

Sau khi trình diễn liên tiếp tám mươi mốt buổi hòa nhạc lớn, Pa- ga-ni-ni trở lại Mi-lăng rồi tìm đường về quê hương để thăm gia đình. Mẹ chàng đã quá già nua với mái tóc bạc, cha chàng đã qua đời từ lâu. Trước khi tắt thở, ông đã bày tỏ những lời hối hận về sự đối xử tàn tệ với đứa con mình. Một thời gian sau, Pa- ga-ni-ni được tin trên báo nhạc sĩ vĩ cầm tài danh của Pháp, La-Phông, đến Mi-lăng để trình diễn. Lập tức chàng từ giã mẹ và đến dự cuộc hoà nhạc. Chàng nhận thấy rằng La-Phông có một tài nghệ hết sức điêu luyện, nhưng tài nghệ ấy không vượt qua được giới hạn của sự bình thường. Chàng lấy danh thiếp viết một đôi dòng gởi thăm, và hẹn gặp gỡ tại khách sạn. Qua ngày hôm sau, La-Phông vội đến tìm chàng. Đó là người vóc dáng tầm thước, khuôn mặt đầy thịt với đôi mắt sáng có luồng nhãn quan linh hoạt của tay diễn viên điêu trá, lành nghề. Sau khi mở lời chúc tụng Pa- ga-ni-ni, La-Phông muốn được cùng chàng so tài ở trên sân khấu Mi-lăng.

Cuộc so tài diễn ra trong một khung cảnh vô cùng hứng thú. Trong các gian phòng khán giả ngồi chật, đợi chờ một cách hồi hộp giây phút gây cấn bắt đầu. Trước hết, cả hai độc tấu một số soạn phẩm của mình, rồi cùng biểu diễn song-hoà-khúc của Kreutzer. Sau đó mỗi người trình diễn những gì đặc biệt nhất của tài năng mình. La-Phông rất được quần chúng tán thưởng, nhưng đến khi Pa- ga-ni-ni trình bày “Vũ khúc những mụ phù thủy” thì người nhạc sĩ nước Pháp thấm thía được rằng mình phải đương đầu bất lực với tay phù thủy chính hiệu của đàn vĩ cầm. Khi tiếng đàn dứt, tất cả gian phòng đứng lên đồng loạt hô vang như sấm: “Hoan hô Pa- ga-ni-ni! Vạn tuế Pa- ga-ni-ni, chúa tể của đàn vĩ cầm!” La-Phông cúi gầm mặt xuống bước vội ra khỏi hí trường.

Tại Vê-rôn-nơ, Pa-ga-ni-ni còn dự một cuộc đấu thách tay đôi công cộng, trong đó người ta tìm cách “gài bẫy” để cố triệt hạ uy tín của chàng. Van-đô-bra-ni, nhạc trưởng giàn nhạc của Đại kịch viện, khi sắp bắt đầu hòa tấu, báo cho Pa- ga-ni-ni hay rằng ông ta vừa soạn xong hòa tấu bè nhạc, bè này gồm có một đoạn khúc mắc mới lạ, không ai có thể diễn tả ngay được. Pa- ga-ni-ni bảo Van-đô-bra-ni hãy cứ để bè nhạc ấy lên giá đàn, và chàng diễn tả ngay tức khắc. Khi đến đoạn mà Van-đô-bra-ni bảo là không thể diễn tả được ngay, Pa- ga-ni-ni để cung đàn xuống. Và để tỏ cho đối thủ của mình hiểu thêm về tính khiêm nhường của y trong sự viết nhạc, Pa- ga-ni-ni lấy một cọng lau thế cho cung đàn. Chàng vẫn tiếp tục diễn tả bằng cọng lau ấy, xuất kỳ còn thêm nhiều lối khó khăn hơn nữa với sự điêu luyện hết sức thung dung. Toàn thể khán giả buổi hoà tấu ấy ngây ngất hoan hô.

Pa-ga-ni-ni đến Vơ-ni-dơ vào lúc giữa trưa. Tất cả thành phố chan hoà trong ánh sáng, một nguồn ánh sáng tưng bừng nhảy nhót reo ca. Đặt chân lên những đền đài cổ tích, chàng tự nhủ rằng: “Nếu mỗi viên gạch, mỗi hòn đá này biết nói, nó sẽ kể lể với ta bao nhiêu sự tình thống khổ mà nó chứng kiến trải qua bao đời. Gạch đá của thành phố này đã chứng kiến bao chuyện tình, bao nỗi hận thù, bao điều tội lỗi, đã thấy chảy từng giòng sông đầy máu, đầy vàng”. Từ đó, chàng sang La-mã và gặp gỡ Rốt-xi-ni. Dù được tán thưởng nồng nhiệt khắp nơi, chàng vẫn không thấy hài lòng bằng nghe bậc danh tài này vừa gặp gỡ chàng, ôm chầm ngay lấy, kêu lên:

- Pa-ga-ni-ni! Không phải anh trình diễn nhạc, mà anh chính là hiện thân của âm nhạc. Thực chưa bao giờ tôi thấy được một thiên tài lớn lao như vậy.

Pa-ga-ni-ni tiếp tục những cuộc trình diễn ở Náp-lơ nhưng đến nơi đây sức khoẻ của chàng kiệt quệ và chàng bị chứng sưng phổi khá nặng. Người chủ khách sạn, sợ bệnh truyền nhiễm và sợ chết chóc có thể đem đến tai hoạ cho mình, nửa đêm cho người khiêng giường Pa- ga-ni-ni bỏ ở giữa đường, giữa lúc chàng đang cơn nóng mê man. May thay, một nhạc sĩ của ban hát vốn rất hâm mộ tài năng của chàng tình cờ đi ngang qua đấy, bắt gặp Pa- ga-ni-ni trong tình trạng ấy, vội vàng kêu một số người giúp đỡ đưa chàng về nhà săn sóc. Rồi chưa nguôi giận, người nhạc sĩ ấy cầm một chiếc gậy khá lớn đến tìm người chủ khách sạn và chẳng nói chẳng rằng gì hết phang mạnh vào đầu ông ta những đòn quyết liệt, rồi chửi:

- Khốn nạn! Ta phải trừng trị về tội mày đã ném một thiên tài ra cửa. Sát nhân! Những lũ con buôn chúng mày chỉ biết yêu quý có mỗi thứ tiền!

Nhờ sự tận tâm săn sóc của người bạn này, bịnh tình Pa- ga-ni-ni lần lần thuyên giảm, nhưng chàng vẫn còn hết sức mệt mỏi, chưa ngồi dậy được. Nhận thấy thời gian trôi qua nhanh chóng, chàng cố tranh thủ sáng tác, vừa nằm vừa ghi tác phẩm của mình. Chỉ trong một thời gian ngắn chàng đã soạn được ba mươi hai bản nhạc. Bản nhạc cuối cùng gọi tên là: “Khúc ca diễn hành bi thảm” được chàng gởi tặng đại tướng Pi-nô. Vị đại tướng này đã từng xông pha nhiều năm trong các chiến trường, bây giờ tuổi thọ bát tuần đã gởi thư đến nhạc sĩ nhờ chàng sáng tác theo đúng đề tài nói trên. Làm xong, chàng cho gởi liền đến nơi, nhưng trước khi nhận được bản nhạc ấy thì vị đại tướng đã qua đời rồi. Bản nhạc lại được gởi tặng cho một người khác tên là Bát-tô, một người học vấn uyên bác mà chàng rất có cảm tình. Nhưng khi người phát thư vừa đưa đến thì Bát-tô đã ngã quỵ vì bịnh đau tim bất thần khá nặng. Khi nghe tin bản nhạc mình không trao đến tay người bạn, và cả hai người đều giã từ cõi đời trước khi thưởng thức, Pa- ga-ni-ni buồn lòng cầm lấy bản nhạc ném vào lò lửa.

Một hôm, quay lại La-mã, đến thăm người bạn thân thiết của chàng là Rốt-xi-ni, chàng thấy bạn đang sống trong tình trạng lo âu gần như hoảng hốt. Biết rằng bạn mình có những nỗi khổ, Pa- ga-ni-ni gạn hỏi thì Rốt-xi-ni cho biết như sau: Suốt bốn tháng nay chàng lo trình diễn một đại nhạc hội với vở Mathilde de Chabran. Mọi việc đã được chuẩn bị sẵn sàng và hôm nay đây, bắt đầu trình diễn. Nhưng chiều hôm qua, trong cuộc diễn thử cuối cùng thì người nhạc trưởng đau nặng, và tuyên bố rằng không thể tham dự hôm nay. Điều đó cũng có thể là một thứ âm mưu mà một số người ghen ghét tài năng của Rốt-xi-ni bày đặt để làm cản trở công cuộc tổ chức của chàng. Nhưng các giấy vé đã thanh toán hết và bây giờ đã là hai giờ chiều. Thật không biết làm sao để cứu gỡ khỏi cơn bế tắc.

Pa-ga-ni-ni đòi bạn cho chàng xem vở nhạc kịch, và ngồi vào ghế, theo cái thói quen thông thường uống liền nhiều tách cà phê vừa dừng lại để thưởng thức bản nhạc. Đọc xong, chàng kêu to lên: “Thật là tuyệt diệu! Một vở nhạc kịch lạ lùng!” Rồi chàng hỏi bạn:

- Anh có chiếc vĩ cầm nào sẵn ở đấy không?

Rốt-xi-ni liền trao cho bạn một cây vĩ cầm đắt giá. Suốt liền một tiếng đồng hồ, Pa- ga-ni-ni diễn xuất toàn bộ bản nhạc, chỉ cần đọc qua lượt đầu. Giữa lúc bạn chàng vẫn ngồi than thở: “Khổ quá, cuộc trình diễn đầu tiên của Rốt-xi-ni sẽ bị đình lại. Độ nửa giờ sau là sẽ cho loan báo khắp phố phường về cái tin này” thì chàng liền bảo:

- Không việc gì phải đình hoãn. Đêm đại nhạc kịch vẫn cứ tiếp tục như thường. Bạn hãy tin lại cho cả hí viện được biết. Chỉ cần in lại những quảng cáo lớn với câu chú thích rằng người nhạc trưởng lâm bịnh, và tôi sẽ thay thế y.

- Đừng có nói điên!

- Thật chưa bao giờ tôi lại bình tĩnh, sáng suốt như là giờ này. Bạn Rốt-xi-ni, vở kịch của bạn chắc chắn sẽ gặt hái được một thành công lớn.

- Nhưng mà làm sao có thể nhớ được một nhạc kịch dài như vậy? Dù là nghệ sĩ thiên tài như bạn cũng không thể nào học kịp. Phải mất hằng tuần, hằng tháng, chưa chắc đã xong.

- Anh đừng nghĩ bậy, tác phẩm của anh làm tôi ưa thích vô cùng. Đọc qua, tôi đã hiểu kỹ, và tôi còn hiểu sâu xa hơn nữa. Anh hãy nghe đây.

Trước sự ngạc nhiên của Rốt-xi-ni, người nhạc sĩ thiên tài ấy trình diễn toàn bộ nhạc kịch không một nốt nào sai lầm.

- Trời ơi! Anh thực là người phi thường! Thế nào nhạc kịch của tôi cũng phải thành công.

Rốt-xi-ni kinh ngạc kêu lên như thế.

Đêm trình diễn ấy hí viện đầy ắp cả người, và khi Pa- ga-ni-ni tiến đến chỗ bàn nhạc trưởng, quần chúng vỗ tay vang lên như sấm. Sự điều khiển tài tình của chàng nâng đỡ dàn nhạc, kích động tinh thần của họ, và mọi người đều được dịp biểu lộ tài năng của kỹ thuật mình.. Sau khi bế mạc, buổi hát đã gặt hái được thành công ngoài sức tưởng tượng, nhạc sĩ tài danh Rốt-xi-ni bảo với bạn mình:

- Những nhà soạn kịch ở xứ sở này có một dịp may đặc biệt là thiên tài Pa-ga-ni-ni sử dụng vĩ cầm chứ không soạn nhạc. Bởi lẽ nếu Pa-ga-ni-ni chọn đường này thì chúng tôi phải bỏ nghề tất cả.

Sau một thời gian nghỉ ngơi Pa- ga-ni-ni qua Đức, qua Tiệp và đến nơi nào cũng được chào đón nồng nhiệt và được tặng thưởng những vật vô cùng quý giá. Ở Áo, danh vọng của chàng đã được mọi người biết đến vì bao năm qua báo chí không ngừng nói về tài năng của chàng như một hiện tượng kỳ quái, lạ lùng bậc nhất từ trước tới nay. Khi nghe chàng đến, mọi người nô nức mua vé đến nỗi giá tiền được tăng gấp năm, rồi gấp mười lần. Hằng ngày Pa- ga-ni-ni ở một khách sạn xa cách thành phố để có được sự yên tĩnh, nghỉ ngơi và trau dồi lại nghệ thuật của mình nên phải đi đến hí viện bằng một xe ngựa mà chàng thuê suốt thời gian lưu trú. Hôm đầu, khi vừa muốn trả món tiền thuê xe của chuyến thứ nhất thì người đánh xe từ chối và bảo chàng rằng:

- Thưa ngài, đồng tiền mà ngài cho tôi không làm vinh dự bằng một chỗ ngồi để được thưởng thức tài nghệ của ngài.

Pa-ga-ni-ni vội lấy trong túi áo một thiệp mời để trao cho người đánh xe.

Trong cuộc trình diễn, chàng đưa thính giả vào một thế giới vô cùng huyền ảo đến nỗi qua sáng hôm sau, số vé dành cho năm đêm trình diễn tiếp theo đã được thiên hạ tranh nhau mua hết trong một buổi sáng.

Khi chàng vừa mới xuất hiện ở trên sân khấu thì một nhân viên cảnh sát tiến đến bảo chàng:

- Chúng tôi đợi ngài khá lâu, bởi vì ở trên dãy ghế thượng hạng có một con người ăn mặc bẩn thỉu, râu ria không cạo, ngồi giữa quan khách. Chúng tôi không có cách gì bắt người ấy ngồi chỗ khác vì gã có một thiệp mời của ngài. Nhưng thưa ngài, dãy ghế ấy được dành sẵn cho các ông hoàng bà chúa và những vị quan cao cấp. Bây giờ biết phải đối phó ra sao?

Pa-ga-ni-ni nhìn xuống dưới phòng và thấy rõ người đánh xe đang ngồi thoải mái ở dãy thứ nhất. May thay, anh ta không đem theo chiếc roi nào.

Sau bản thứ nhất, tiếng vỗ tay như sấm dậy vang lên khắp phòng và người đánh xe tỏ ra hoan hỉ hơn cả. Anh ta nhảy chồm liên hồi trên chiếc ghế ngồi, và hét lên như la hoảng ở giữa mọi người: “Tuyệt diệu! Pa- ga-ni-ni! Ngài đàn tuyệt diệu! Tuyệt diệu!”

Khi tiếng vỗ tay vừa dứt, gã lại gào to: “Đàn đi! Trời ơi! Tiếp tục đàn nữa!”. Các nhà quý tộc và các quan khách không ai tỏ vẻ khó chịu gì về thái độ của anh ta, và cứ sau mỗi bản nhạc người ta còn có ý chờ xem thử anh ta hưởng ứng thế nào. Qua mấy hôm sau, Pa- ga-ni-ni nghe tiếng gõ cửa và khi mở ra, chàng thấy người đánh xe bước vào với dáng điệu hết sức thành kính, nói rằng:

- Ngài quả là bậc thiên tài, còn tôi, tôi chỉ là kẻ nghèo khổ. Ngài gặt hái được nhiều tiền bằng sự trình diễn thú vị, còn tôi thì chỉ thâu lượm được rất ít ỏi bằng sự đánh xe rước khách nhọc nhằn. Ngài hãy nghĩ cách giúp tôi nuôi nấng bầy con nheo nhóc.

Pa-ga-ni-ni mời người khách ngồi, và hỏi:

- Ông muốn tôi sẽ giúp đỡ bằng cách nào đây?

- Thưa ngài, chỉ bằng một cách giản dị nhất trên thế giới. Ngài cho phép tôi được treo trên chiếc xe ngựa tồi tàn của tôi một tấm bảng nhỏ gọi tôi là kẻ đánh xe hầu trực của ngài.

Pa-ga-ni-ni trả lời:

- Mời ông hãy uống một ly rượu ngọt, còn về đề nghị của ông thì ông có thể tùy ý mà làm.

Một tuần sau đó, “Người đánh xe riêng của Pa- ga-ni-ni” được cả thành phố biết đến. Hàng ngày, trên xe anh ta, cắm đầy đủ các loại hoa và ở hai bên người ta còn thấy có tấm bảng trắng kẻ những chữ vàng: “Xe ngựa của Pa- ga-ni-ni”.

Dần dần người ta có một mốt mới là phải đi thử trên chiếc xe ngựa Pa- ga-ni-ni một lần để hợp thời thượng. Những kẻ đã ngồi trên chiếc xe đó đều có cảm tưởng như mình được ngồi vào chỗ thiên tài, khiến cho từ sớm đến tối người đánh xe phải chở không hết khách. Chỉ hai tháng sau, một vị huân tước đến thương lượng mua xe ấy với một số tiền lớn lao là năm chục ngàn đồng vàng. Với số tiền ấy người đánh xe ngựa mua ngay khách sạn mà Pa- ga-ni-ni đến trọ.

Tất cả người dân thành Viên-nơ gần như điên loạn vì lòng sùng mộ Pa-ga-ni-ni. Báo nào cũng đăng ảnh chàng, tiệm nào cũng treo hình chàng. Các hàng kẹo bánh bán một loại kẹo gọi là kẹo Pa- ga-ni-ni, và những tiệm mũ cũng chế kiểu mũ giống như của chàng. Ngay chính khi chàng vào mua một chiếc găng tay, người ta đưa hiệu “Lạc đà”, và khi nghe chàng trả lời: “Xin hãy cho tôi một thứ nào đặc biệt hơn” thì người bán hàng vội vàng đưa một đôi găng “theo kiểu Pa- ga-ni-ni” trên thêu hình chàng một bên và cây vĩ cầm một bên. Ở các hiệu ăn những người bồi bàn đãi khách “Thưa ngài, ngài ăn theo lối Pa- ga-ni-ni, phải không?” Rồi có “sườn heo Pa- ga-ni-ni”, “bánh mì Pa- ga-ni-ni”, “giò chả Pa- ga-ni-ni”… Cho đến phụ nữ cũng uốn vòng tóc theo lối Pa- ga-ni-ni, và trên hộp thuốc, ống điếu, nút áo, cũng có hình chàng. Nhiều người chế tạo đèn Pa- ga-ni-ni, rồi đến dệt vải Pa- ga-ni-ni, khăn choàng Pa- ga-ni-ni. Giá tiền tương đương với một vé hát được gọi là đồng Pa- ga-ni-ni.

Trong buổi trình diễn lần thứ bảy có một người vóc dáng tầm thước, mặt mày dịu hiền và mơ mộng ngồi trong dãy ghế cuối cùng dự cuộc trình diễn của chàng. Trước tài nghệ của Pa- ga-ni-ni người ấy không sao nén được cảm xúc và những dòng nước mắt cứ tuôn trào ra trên má.

Và dưới ánh đèn lờ mờ, trong một gian phòng chật hẹp và rách rưới, ngay trong đêm ấy người đó ghi vào nhật ký như sau: “Tôi đã được nghe một vị thiên thần hát bản hòa ca của Pa- ga-ni-ni”. Người đó chính là nhạc sĩ đại tài Frăng Suy-be (Franz Schubert).

Khi chàng sang Đức, thì sự thành công lại càng rực rỡ. Sau buổi trình diễn Pa- ga-ni-ni nhận được từng giỏ lớn đầy những thư sực nức mùi thơm, rất nhiều hoa hồng, hoa tím. Sở bưu điện phải đặc cách một ngành riêng biệt để giải quyết việc thư tín của chàng. Chưa bao giờ ở Bá Linh có một tài năng đã được ca ngợi nồng nhiệt như thế. Đến khi thành phố Đăng-dic (Dantzig) bị nạn lụt lội kinh khủng tàn phá, chàng bèn tổ chức hai buổi hòa nhạc lớn lao và đem tất cả số tiền thâu được giúp đỡ nạn nhân chịu cảnh thiên tai. Nhà vua có mặt liên tiếp trong hai buổi ấy vỗ tay không ngớt để tán thưởng chàng, và gọi chàng đến tận nơi để nói những lời cảm tạ cùng lời khen ngợi nhiệt thành. Vua nói: “Trong cuộc trình diễn của đêm giã từ thành phố, xin ngài toàn quyền sử dụng nhà hát, cơ sở ấy được giao hẳn dưới quyền điều khiển tận dụng của ngài”.

Qua ngày hôm sau chàng nhận được một bức thư của vua truy tặng chàng là đệ nhất giám đốc của sự diễn tấu, với lời khen thưởng “tài năng hiếm có” của chàng. Đến buổi giã từ, khi chàng lên đường sang Vạt-xô-vi (Varsovie) là thủ đô xứ Ba-lan thì quần chúng và các hội đoàn đã đứng tề tựu bên đường để đưa tiễn. Viện mồ côi đã được chàng giúp một số tiền lớn, đồng thanh ca một bài ca để tiễn đưa chàng. Gần bốn mươi đoàn thể thuộc vào xã hội thượng lưu Bá-linh đi theo sau xe Pa- ga-ni-ni diễu quanh thành phố. Hàng vạn vạn con người chen chúc ở bên lề đường vẫy khăn và ném hoa tiễn đưa. Nhà vua Phrê-đê-rít Ghi-dôm (Frédéric Guillaume) tự mình thay đổi giờ giấc đi dạo buổi sáng để có thể chào được chàng lần cuối hầu tỏ lòng nhớ ơn chàng.

Sau cuộc trình diễn ở Vạt-xô-vi thành công rực rỡ, lúc trở về phòng của mình chàng tiếp một người trai trẻ gầy gò tìm đến thăm chàng. Khuôn mặt của con người ấy phản ảnh một nét cao thượng nhưng vừng trán nhuộm đầy vẻ u buồn. Người ấy ôn tồn ngỏ lời với chàng:

- Thưa ngài, chưa có một người nào đã mở rộng cõi trời cho tôi nhìn thấy như ngài vừa làm. Xin ngài cho phép tôi được bày tỏ một lời cầu nguyện. Tôi…

Thấy người trai bỗng dừng lại, Pa- ga-ni-ni tiếp lời:

- Xin hãy cứ nói điều gì mà ông muốn được tỏ bày. Tôi đoán rằng ông là một nghệ sĩ, có lẽ là người chuyên đàn vĩ cầm cũng nên?

Người kia trả lời:

- Vâng, nhưng mà không hẳn như thế, tôi chuyên về đàn dương cầm và tôi soạn nhạc.

Đoạn người ấy giở ra cuộn giấy lớn về những bản nhạc đã làm. Pa- ga-ni-ni lướt qua nhiều tờ, nhịp theo vài đoạn, hết sức thán phục. Bao nhiêu nhọc mệt mà chàng cảm thấy sau sự hòa nhạc đã tan biến mất như một phép lạ. Chàng cầm cây đàn của mình như không có gì suy nghĩ, trình diễn toàn bản một hơi, trỗi dậy khúc nhạc thanh tao, dìu dặt lạ thường. Rồi chàng đặt đàn xuống bàn nói bằng một giọng chan chứa nhiệt tình:

- Ông thực là một nghệ sĩ lớn lao! Bước đường tương lai của ông còn dài và rất tươi đẹp. Ông hãy tiếp tục sáng tác và xin cho tôi hân hạnh được biết quý danh.

Khuôn mặt tái xanh của người nhạc sĩ bỗng đỏ bừng lên vì nỗi hân hoan và người ấy trả lời:

- Tôi là Frê-đê-ric Sô-panh (Frédéric Chopin)

Sô-panh nói tiếp:

- Xin ngài cho tôi ít dòng lưu bút trên bản nhạc này để cho trọn đời tôi không bao giờ quên được giây phút gặp gỡ quý giá như thế. Ngài đã cho tôi nghe được điệu nhạc kỳ diệu lạ lùng và tôi không thể nào ngờ tưởng rằng chính tôi có thể sáng tác được những bản nhạc ấy.

Pa-ga-ni-ni vội vàng đề tặng một lời trân trọng. Năm ngày sau, khi chàng giã từ thành phố, nhiều người trong đó có Sô-panh tổ chức một buổi họp mặt để tiễn đưa chàng. Trong cuộc họp ấy vị giám đốc Dưỡng- thành sở âm nhạc trao tặng cho chàng một hộp đựng vàng khá nặng với những giòng chữ như sau: “Những kẻ thán phục tài năng của ngài kính gởi đến ngài Pa- ga-ni-ni món quà kỷ niệm. Vạt-xô-vi, 19 tháng 7, năm 1829”

Pa-ga-ni-ni ngồi cạnh Sô-panh và chàng bảo người nhạc sĩ trẻ tuổi:

- Trước khi chia tay cùng bạn, tôi muốn nói lên một điều nhận xét của tôi về sự sáng tác: tôi nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể đạt được nghệ thuật khi nào mỗi nốt nhạc mà chúng ta viết đều đủ khả năng gợi được một hình ảnh nào: tảng đá, dòng sông, trời xanh, hoa hồng, núi non, biển cả, và cùng hình ảnh ấy chúng ta gợi lên một tình cảm nào rõ rệt. Niềm vui cũng như nỗi buồn, tình yêu và lòng nhớ ơn, bao nhiêu xúc động phải được diễn tả một cách mãnh liệt bằng tất cả những năng lực của tâm hồn mình. Này bạn Sô-panh bất cứ âm thanh của bản nhạc nào mà không có thể cho những người nghe thấy được ; thực sự thấy được, đều là âm thanh nghèo nàn.

Nhưng những thành công càng lớn lao thì bên cạnh đó Pa- ga-ni-ni lại phải đương đầu với một dư luận của những kẻ thù cố tình bôi nhọ tài năng của chàng. Tất cả những kẻ ít có tài năng nhưng lại giàu lòng đố kỵ, cũng như phần đông bất tài thường cảm thấy người mình nhỏ bé trước cái thiên tài vĩ đại Pa- ga-ni-ni, tìm bằng mọi cách phao vu rằng chàng không phải là một người thường, mà chỉ là con đẻ của loài quỉ, không có cha mẹ đích thực. Nhiều người nhất định là khi chàng đàn thì chính quỉ sứ điều khiển cây cung kéo đàn của chàng, còn chàng chỉ là một cái xác chết mà thôi. Người ta nhất quyết bảo rằng: “Một đứa trẻ cũng có thể biết dễ dàng Pa- ga-ni-ni không phải là người bằng xương bằng thịt như mọi người khác. Đó chỉ là loài quỉ sứ trá hình để cố lừa phỉnh cảm giác chúng ta bằng những xảo thuật huyền bí”.

Một sự phao truyền như thế vẫn làm xúc động được khá nhiều người. Quần chúng vẫn ưa những chuyện gay cấn, quái đản, nên tin vào lời đồn đãi một cách dễ dàng.. Hơn nữa tài năng quá đỗi phi thường cùng cái hình dạng xấu xí bên ngoài của chàng dễ làm cho một số người nông nổi tin theo sự phao vu ấy. Cuối cùng Pa- ga-ni-ni buộc lòng phải nhờ vả đến mẹ mình viết một bức thư chứng nhận rằng chàng chính là con đẻ của bà và cho đăng tải bức thư lên báo, bức thư đầy lòng thương yêu, trìu mến của chính mẹ chàng. Nhưng sự đăng tải ấy vẫn không cách nào ngăn cản được vu khống càng ngày càng mạnh và từ khâm phục, quần chúng bắt đầu có người thấy ghê sợ chàng. Nhà vua cùng với một số quý tộc mến yêu tài nghệ của chàng đứng ra bảo trợ, cam kết rằng chàng chính là người thực, mà cuối cùng vẫn không sao dẹp được dư luận quái ác cố tình phủ nhận tài năng đích thực của chàng. Rồi trên mặt báo, nhiều người bắt đầu gọi chàng bằng cái danh hiệu “nhạc sĩ vĩ cầm của quỷ sứ”, hoặc “quỷ sứ biết đàn”, và cho rằng nghệ thuật của chàng không có chút gì bình thường và tự nhiên cả.

Tất cả những sự vu khống phao truyền như thế ban đầu không có tác động đáng kể đến tâm hồn chàng, nhưng trong sự mệt mỏi của một con người sống nhiều bằng sự hoạt động, cuối cùng Pa- ga-ni-ni cảm thấy bất lực, và chàng tìm sự an ủi những nỗi đau khổ của mình trong sự chăm sóc thằng bé A-si-li-nô, đứa con duy nhất của chàng..

Một hôm, trong số những người chờ đợi trình diễn có một nhạc sĩ trẻ tuổi đứng ở hàng đầu là Phrăng Lit. Đến khi Pa- ga-ni-ni hiện ra ở trước thính giả thì Lit có cảm tưởng rằng người ấy bay đến chứ không phải đi như là người thường. Khi cuộc trình diễn bắt đầu thì Lit hoàn toàn ngơ ngác vì chàng nghĩ rằng không phải là mình nghe nhạc mà đang lạc loài giữa cơn bão táp, nghe những tiếng gió đích thực, tiếng biển ồn ào sôi động đích thực, diễn tiếp quanh mình. Không, chiếc đàn vĩ cầm không sao diễn đạt được những âm thanh như vậy. Lit nghe tiếng những giọt nước mưa rơi tan thành bụi nhỏ, tưởng như thấy những chớp nhoáng sáng loà ở giữa bầu trời u tối. Thần kinh của chàng xúc động tột độ. Bàn tay của “tên quỷ sứ” ở trên sân khấu không phải chỉ cò năm ngón mà có đến năm mươi ngón.. Những ngón tay ấy bay vút lên những dây đàn tạo ra chớp nhoáng, gây ra sấm sét.

Pa-ga-ni-ni cúi gập mình xuống gần như cọ sát mái đầu xuống dưới đôi gối khẳng khiu và bỗng thình lình ngẩng hẳn người lên như chiếc lò xo. Người ta còn nghe thêm một lần nữa tiếng hú kinh hoàng của cơn bão tố. Rồi mây tan, gió tạnh, mặt trời bừng chói, vài giọt nước mưa vẫn còn rơi rụng lác đác, rồi cả điệu nhạc tan dần như một hơi thở lặng im.

Sự thành công của Pa- ga-ni-ni thực là khủng khiếp nhưng hình như chàng không cảm thấy nỗi vui lòng. Lit tưởng như nhìn thấy nét cau có và giận dữ của người nghệ sĩ, khi người nghệ sĩ gục đầu xuống chào thính giả rồi ngẩng lên, đôi vai cùng nhún trong một điệu bộ tuyệt vọng và đôi mắt sáng vẫn nhìn chăm chú chiếc đàn.

Đêm ấy, sau khi lang thang hết các đường phố hoang vắng vì bị ám ảnh bởi những điệu nhạc nghe thấy, Lit về nhà rất khuya, ngồi với chiếc đàn dương cầm và chàng thấy rằng tất cả những gì mà mình hài lòng từ trước đến giờ không còn giá trị gì nữa. Nghệ thuật của chàng phải được đổi mới, phải được đổi mới hoàn toàn. Từ trước đến giờ tiếng đàn của chàng không bày tỏ được một tình ý nào cụ thể, và chỉ diễn tả toàn những xúc động mơ hồ. Chàng phải làm sao nói lên cho được rõ ràng như thấy ở trước mắt mình từng tiếng chim kêu, gió thổi, từng nỗi si mê, từng những cảnh đời. Dày vò trong những suy tưởng như vậy chàng ngủ một giấc đầy sự khuấy động mệt mỏi. Sau khi tỉnh dậy chàng vội sửa soạn áo quần, và điểm tâm xong đến xin yết kiến Pa- ga-ni-ni.

Sau khi chào hỏi lễ phép, chàng tự giới thiệu:

- Thưa ngài tôi là Lit. Tôi… Tôi…

- Tôi đã nghe người ta nói rất nhiều về ông, nhưng tôi thú thật là chưa được đến dự một phiên hòa nhạc nào của ông cả. Bây giờ, chúng ta có thể cùng nhau chuyện trò.

Pa-ga-ni-ni dắt tay người nhạc sĩ trẻ đưa vào phòng khách. Lit lúng túng nói:

- Tôi được hân hạnh xem ngài trình diễn hôm qua và tôi cảm thấy những lời tử tế của ngài vừa rồi thật làm cho tôi hết sức băn khoăn. Ngài thực ở trên…

Pa-ga-ni-ni ngắt lời:

- Bạn hãy còn trẻ, chúng ta nói chuyện về bạn thì hơn. Bạn có điều gì muốn cùng trao đổi và để tôi được chia xẻ hay không?

Lit không nén được cảm động, dừng lại một lát mới hỏi:

- Tôi muốn diễn tả trên đàn dương cầm những gì mà ngài diễn tả trên đàn vĩ cầm, điều ấy có thể thực hiện được không?

- Không, bạn à. Tôi tưởng rằng điều đó thật khó lòng. Mỗi nhạc cụ có những đặc tính của nó, nhưng bốn dây đàn của chiếc vĩ cầm có một khả năng phong phú hơn nhiều.

- Thưa ngài, tôi đã bắt đầu học nhạc như ngài từ lúc năm tuổi. Vượt qua bao nhiêu tháng năm, tôi không ngừng nghỉ luyện tập một cách nhiệt tình. Tôi tự nguyện rằng tôi sẽ trở thành Pa- ga-ni-ni của đàn dương cầm.

Pa-ga-ni-ni mỉm cười thân mật rồi nói:

- Như thế có lẽ dễ dàng thành đạt hơn là trở thành Pa-ga-ni-ni của đàn vĩ cầm. Tất cả những sự khó khăn của đàn dương cầm nếu đem so sánh với một số điệu nghệ thuật của đàn vĩ cầm thì chỉ đáng xem như trò đùa con trẻ mà thôi. Này bạn, tôi chỉ nói lên một điều mà ai cũng có thể thấy ở trên thực tế: một người sử dụng dương cầm không sao kích động quần chúng như tôi đã từng thực hiện.

Những lời Pa- ga-ni-ni vừa nói không có chút gì kiêu hãnh, khoe khoang, mà được phát biểu một cách giản dị, chân thực.

Lit không ngăn được thất vọng, nhưng chàng thành kính trả lời:

- Thưa ngài, tôi cảm tạ ngài hết sức. Tôi sẽ không bao giờ cho phép mình được nghỉ ngơi nếu tôi chưa thành người đàn dương cầm số một của Âu Châu này. Ngài đã chỉ giúp cho tôi con đường mà tôi phải theo, tôi xin cảm tạ ơn ngài.

Pa-ga-ni-ni nhìn thẳng vào mặt người nhạc sĩ trẻ, không giấu được sự ngạc nhiên. Nhưng người này đã lặp lại bằng một giọng điệu cương quyết lạ lùng:

- Tôi sẽ đạt đến những gì mà nhiều người không thể nào đạt được. Nhất định tôi sẽ phải có những gì không thể có được. Dưới những ngón tay của tôi, cây đàn dương cầm sẽ nói lên được ngôn ngữ mà chưa có ai nghe thấy bao giờ. Thưa ngài, hôm qua ngài đã chỉ rõ con đường mà tôi phải theo.

Pa-ga-ni-ni bèn nói:

- Nếu có một người thành công trong sự nghiệp này, thì chắc hẳn rằng người đó là bạn.

Rồi chàng đặt tay lên vai của người bạn trẻ, một tay đặt lên mái tóc người ấy. Lit nhắm mắt lại, cảm thấy được sự vỗ về, một sự khuyến khích vô biên. Đồng thời trong giây phút ấy chàng có niềm tin dứt khoát rằng mình sẽ thành công.

Pa-ga-ni-ni bèn sang trình diễn ở Anh. Người dân xứ này từ lâu được xem như là những kẻ lạnh nhạt, nhưng giữa các cuộc trình diễn đã la hét vang dội, hoan hô, vỗ tay, tung mũ, múa gậy như những người điên. Giá vé trong cuộc trình diễn tăng lên theo một nhịp điệu không ngờ và Pa- ga-ni-ni mỗi lần ra phố khó lòng di chuyển giữa những đám người hiếu kỳ ngưỡng mộ tài chàng, bao vây chung quanh. Ngoài những ngày giờ trình diễn chàng còn lưu trú trong một nhà thờ vắng vẻ để tránh những sự quấy rầy. Mặc dầu báo chí không còn ủng hộ chàng như trước nữa, nhưng mối nhiệt tình của lớp thính giả vẫn còn hết sức nồng nàn. Triều đình nước Anh mời