Chương 15 .
Durilgai không bị thiệt hại vì chiến tranh, cố nhiên ở một số gia đình, phụ nữ đau buồn cho chồng mình, vài người sợ cảnh âm thầm hoặc muốn thay đổi không khí đã bỏ nhà đi với những người đàn ông khác, ăn nằm với họ ở những mức độ tội lỗi hoặc đam mê khác nhau, một số phụ nữ thấy cõi lòng tan nát như thể họ là những chiếc vỏ trứng rỗng không khi được tin chồng đã chết, vài người ăn những củ khoai tây họ trồng và lẽ ra đã bị đói nếu không có những củ khoai đó cùng chất sữa họ vắt được ở những con bò già cốc đang cơn động đực. Song Durilgai nhìn chung vẫn nguyên vẹn, vì nó ở rất xa, hơn nữa, tại những vùng ấy, đất chiếm ưu thế hơn so với con người. Cỏ vẫn mọc và rạp xuống vì gió. Gió nóng vẫn từ hướng tây thổi về, gió lạnh vẫn từ hướng nam đưa tới, và những làn gió ẩm ướt uể oải từ biển, từ hướng đông bay lại. Đôi khi trời mưa gió, thậm chí từ những nơi xa xôi như vậy, chim hải âu vẫn về, vừa nhào liệng xuống phía trên những tấm phên liếp đen sì, vừa kêu bằng cái giọng đói lạnh của chúng.
Một lần Ray Parker bắn được một con hải âu, vội nhặt và giấu đi vì sợ mẹ biết ắt phiền lòng. Cậu đem chôn nó trong một cái rãnh, sau khi đã mổ ra xem. Cậu thường thích làm một điều gì đó đáng ghi nhớ và oanh liệt, song vì không nghĩ ra được chuyện gì khá vĩ đại mà mình lại có thể làm nổi, cậu đã bắn con hải âu kia vào chiều hôm ấy. Sau đó ít lâu hai bàn tay Ray có cái mùi tanh tanh của con chim, và cậu tạm hài lòng.
- Khi bố về liệu con có đi làm không mẹ nhỉ? - Ray hỏi.
- Mẹ mong như vậy, - người mẹ nói. - Con không thể lông bông mãi được. Con muốn làm việc gì nào?
- Con không biết, - Cậu buồn rầu nói.
Cậu lấy con dao rạch rạch vào không khí. Bởi cậu không biết, cậu đã lang thang trên các mảnh ruộng, đã khắc tên mình vào các cây xanh, đã lấy đá ném thia lia trên mặt nước, đã thò tay thật sâu vào những tổ chim kín đáo mà lấy trộm những quả trứng quý báu.
Ray không cần đến các thứ đó lắm. Cậu cần kỷ vật về những tên người Đức đã chết mà bố cậu sẽ mang về. Cậu muốn đội cái mũ sắt, và sẽ lao vào bóng tối để thách thức những người lạ mặt.
- Ray, - mẹ cậu gọi, bởi đã đến lúc chị đòi lại quyền hành, chị vừa đứng vừa lau hai bàn tay vào cái tạp dề mà thực hiện cái quyền đó, - con không thể ngừng lang thang vơ vẩn để làm một việc gì có ích, như chẻ ít củi được à?
Ray lặng lẽ đi làm việc đó.
Khi mang về cho chị một ôm củi, mặt cậu áp sát ngay phía trên, gợi cho chị nghĩ đến chồng cùng những bức thư của anh mà chị buộc lại, để phía sau cái hộp đựng trà. Đôi khi chị cố nhớ tới chồng với từng chi tiết thật nhỏ để hình dung ra anh đang đứng trước mặt mình. Song chị không nhớ nổi. Ngoài tình yêu đối với anh, một điều có thực và tràn ngập tâm hồn chị, lúc này bóng hình anh thật nhạt nhòa. Chị rất hay nhớ tới hình ảnh anh vắt một cẳng chân lên thành xe bò, trèo lên để ngồi cạnh O’Dowd khi họ rời quê hương lên đường chinh chiến, cái lưng anh quay về phía chị.
- Lại đây con, - chị nói khi thằng bé đã ném ôm củi vào cái hõm bên cạnh bếp lò.
- Mẹ gọi gì thế ạ? - Nó hỏi, vẻ ngờ vực.
- Cho mẹ thơm một cái nào. - Chị vui vẻ nói, như thể cái hôn ấy là một quả táo đỏ.
- Ồ, vì sao vậy? - Thằng bé ục ịch rên rỉ.
Ray dịch cái má lạnh lùng của mình ra khỏi mặt mẹ, cắn môi và tỏ vẻ giận dữ.
- Như thế thì lợi lộc gì? - Nó nói.
- Không, - chị nói, - mẹ cho rằng chẳng lợi lộc lắm.
Rồi chị bắt đầu lựa vào bộ quần áo mà chị đã giặt, rẩy nước vào đó và cuộn lại thành những bó.
Chị cũng ra ngoài bãi cỏ. Chị đi vào buổi tối khi công việc đã xong. Có những lúc chị cảm thấy thư thái đến mức đã bừng tỉnh khỏi trạng thái thanh thản ấy với một cái giật mình tội lỗi, để rồi thôi thúc mình tới một trạng thái bồn chồn mới, chị làm như vậy để nhớ đến người chồng vắng nhà. Anh đã không có mặt trong cảnh thanh bình của sự no đủ mà cuối cùng chị đã đạt được. Song trong những bước chân bồi hồi, trên cỏ, trong gió thổi bồi hồi qua cỏ rạp, trong tiếng kêu của bầy hải âu, trong hàng rào dây kẽm gai đen xì, kiên cường kia, anh luôn luôn có mặt. Quả là chị đang tự dày vò mình, nhưng đôi lúc, có thể chính những dày vò ấy lại làm chị vui sướng. Những năm tháng đau khổ sẽ đem lại cái khoái cảm được khổ đau.
Khi bọn trẻ con đi học vắng, chị thường xuyên xuống tận ven đường vào khoảng giữa trưa, và cứ đứng trong ánh nắng chan hòa nhưng không chói gắt của những ngày đầu hạ ấy để chờ xem ai sẽ đi qua. Người ta thường nói chuyện với người đàn bà bên đường ấy và kể cho chị nghe về những mối quan hệ, những nỗi lo âu, về những gia súc và những người đã chết. Họ thường thổ lộ chuyện riêng với người đàn bà này, bởi vẻ mặt chị đòi hỏi điều đó. Đôi khi họ kể chị nghe cả những điều họ vừa nghĩ tới, những ý nghĩ họ không nói cho gia đình mình biết, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ gặp lại người đàn bà này nữa. Còn người đàn bà thì suy nghĩ về tất cả những điều người ta đã nói với mình, những điều đã lấp đầy ắp cái khoảng lẽ ra vẫn trống rỗng. Chị bước vào cuộc đời những kẻ xa lạ, như lúc sau chị dạo bước trong vườn, vừa đi vừa vặt những chùm hoa đã héo. Chị bước vào cuộc đời của họ, hình thành những quan hệ cảm thông và thậm chí cả niềm say mê, điều mà chẳng ai khiến chị ngỡ ngàng mà chấp nhận. Cứ như vậy, theo cách đó, sự vắng mặt của chồng chị dần dần trở thành một nỗi bất hạnh không rõ nét. Nó vẫn ở đó. Song đôi khi chị chẳng buồn suy nghĩ đến nguyên nhân của nó. Môi trường xung quanh chị, ánh nắng và vỏ cây lốm đốm, mối quan hệ của chị với những người xa lạ trong dĩ vãng quá ư sinh động, quả thực còn sinh động hơn nhiều so với những người xa lạ ấy hoặc so với phong cảnh thiên nhiên.
Một hôm, khi chị đứng bên đường cái, mong chờ những sự kiện hoặc những gương mặt; chị đang lấy tay che mắt để hình dung ra những điều ấy thì một gã Digger trai trẻ nào đó đi ngang qua, mũ đội lệch một bên. Khi đi dọc con đường, gã ban đầu hơi xấu hổ. Gã trơ tráo, nhưng chưa đến nỗi quá đáng, ở môi trường này một nơi xa lạ đối với gã. Vì vậy gã bước tiếp và nhổ nước bọt vì gã đang bị nhìn chòng chọc, rồi gã quay mặt đi nhìn thửa ruộng đối diện. Khỏe mạnh và trơ tráo như gã mà lâm vào cảnh này thì cũng chẳng khác gì một cô gái.
Người đàn bà nửa quan sát gã, nửa không, thấy rằng lúc này có thể gã sẽ đi qua mà không thừa nhận cái quyền được nói chuyện của mình. Chị đỏ mặt và suýt phát khóc vì cái điểm yếu đã che đậy của mình, bởi vì lẽ ra chị đã phải trèo ra ngoài hàng rào mà bảo: Tôi đang chờ nghe anh nói chuyện, về cuộc chiến tranh, về chết chóc và tình yêu đây.
Song gã trai trẻ vẫn bước tiếp, gã ngắm đôi ủng đỏ của mình bị bụi đường biến thành màu trắng. Mắt gã phủ nhận sự có mặt của chị. Rồi bỗng gã quay nhìn chị, như thể mãi lúc này gã mới nghĩ đến việc ấy, và hất hất cái đầu có đội chiếc mũ vênh váo kia, vẫn không nhìn chị, hoặc chỉ hơi thoáng nhìn qua mí mắt gã nói:
- Chào nhé. Có biết người nào tên là Horner ở dọc con đường này không?
- Horner? - Chị nhắc lại, sửng sốt, như thể mãi đến giây phút ấy chị mới nhìn thấy gã trai trẻ lạ mặt này; với cái quai mũ bằng da mắc vào môi dưới, lúc này hầu như gã đã hoàn toàn bình tĩnh.
- Ồ, không, - chị nói, cố trấn tĩnh và sửa lại một món tóc xõa xuống sau tai trái. - Tôi chưa nghe nói người nào có tên là Horner. Dọc đường này thì không có. Nhưng con đường dài lắm, phía cuối, nơi anh sắp đến ấy, người ta đến sinh sống chưa đông lắm đâu.
- Chà, - gã nói, - tin nghe cũng chẳng lành gì.
Gã lại gần chị, bên lề đường, nơi chị đang đứng cạnh hàng rào, ở đó khu vườn đã đầy cỏ bờm xờm, đất quá khô cứng, chẳng cây nào khác mọc được.
- Họ là bà con của má tôi, - gã vừa nói vừa tung một đồng tiền xu. - Jack có vài mẫu đất. Anh ta bị đau ngực. Má tôi muốn tôi đến thăm họ. Vì vậy tôi đến. Tôi không thích vợ chồng nhà Horner lắm. Jack cứ ngồi nhổ nước bọt khắp nơi. Nhìn những người ốm như thế chán lắm. Họ đã để một cái xô ở bếp cho anh ta nhổ vào. Họ bảo một bên phổi anh ta không còn nữa. Trước đây anh ta là thợ xén lông cừu. Quê ở Bombala.
- Ồ, - chị nói.
Vào những dịp như thế chị không cho, mà nhận những lời nói. Song hình như người ta mến chị. Họ tin ở đôi mắt và nước da nâu của người đàn bà trầm lặng ấy. Vì vậy, gã Digger trẻ đã sẵn sàng giãi bày dưới cái bóng trầm lặng của chị. Chẳng có gì về bản thân mình mà gã không tiết lộ.
- Tôi mới trở về được vài tuần nay, - gã nói. - Chúng đã cắt một miếng thịt chân tôi, cái bọn đê tiện chết tiệt này. Nhìn xem, - gã vừa nói vừa kéo một ống quần lên. - Chuyện ấy xảy ra ở gần Dickiebush. Người ta ghép một mảng da lên đó.
- Chỗ ấy chắc phải đau, - chị vừa nói vừa nhìn vết thương, chẳng tỏ vẻ ghê tởm cũng chẳng tỏ vẻ cảm thông, tuồng như chị chỉ đang xem xét cái chân đã bị nghiền nát hoặc cắt rời của một con côn trùng kỳ lạ.
Tuy nhiên chị cũng không lạnh lùng. Và gã Digger hiểu điều đó. Thái độ xa cách của chị một phần do cái cảnh bụi đất và ánh nắng mơ màng mà họ đang chia sẻ trong vạt cỏ dại ven đường.
- Lạy Chúa, cũng khá đau đấy, - gã Digger trai trẻ nói. - Song tôi sẽ quay lại choảng nhau với lũ khốn ấy một lần nữa. Nếu họ chịu để tôi đi. Hoặc là để lần sau. Tôi muốn đánh nhau một trận ra trò.
- Chồng tôi cũng đang ở tiền tuyến, - chị bảo gã, bằng cái giọng vô tư, đồng thời cũng ấm áp và ề à của mình.
- Anh ấy ở đơn vị nào? - Gã thanh niên hỏi.
Chị bảo gã số hiệu và tên đơn vị, điều đó càng khiến cho cuộc nói chuyện của chị thêm bí ẩn.
- Có lần anh ấy bị thương. Họ gắp ra cho anh ấy một mảnh đạn hay một mảnh gì đó. Anh ấy cất vào một cái hộp cho chúng tôi. Anh ấy được một mề đay, - chị nói.
- Chà, - gã Digger vừa nói vừa nhìn vào trong nhà. - Có đủ các loại mề đay.
Gã quan tâm nhiều hơn tới bản thân mình, một cái tôi vẫn nguyên vẹn và những cơ bắp trên cái cơ thể rắn chắc của gã.
- Đủ loại, - gã nói.
- Song tôi chắc loại này cao quý. - Vợ người đã giành được tấm mề đay ấy hân hoan nói.
- Chuyện đời thật hài hước, - gã Digger vừa nói vừa nới cổ áo ra và dựa lên hàng rào, vì vậy chị không tránh nổi mắt khỏi cục yết hầu trên cái họng căng thẳng của gã. - Tôi gần như đã đính hôn với một cô gái ở đó. Cô ta là người Bỉ, cô ta không phải loại xấu gái. Cố nhiên người chỗ đó cũng khác. Ông già nhà cô ta mở một quầy tạp hóa, bán các đồ lặt vặt ấy mà, xúc xích và các thứ.
Trọng lượng cơ thể gã khiến cái hàng rào võng xuống trong nắng đẹp. Gã ngả người trên dây kẽm, đu đưa chầm chậm theo nhịp những lời thổ lộ của mình, còn chị cứ nhìn chằm chằm chờ đợi từng lời. Chị nhìn hai thái dương xương xẩu của gã và nhận ra rằng mình già hơn gã.
- Thế anh hủy hôn với cô gái quầy tạp hóa nữa à? - Chị hỏi.
- Vâng, - gã nói.
- Vì sao?
- Tôi không biết. Người ta phỗng mất của tôi, có thể như vậy. - Gã hồn nhiên nói.
Gã đã ngừng đu đưa. Trong khoảng khắc người đàn ông và người đàn bà ấy ý thức được rõ rệt cùng một nỗi sợ nào đó mà hai người đang chia sẻ. Giờ đây người đàn bà cũng có cơ bị mất trắng tay tất cả.
- Bị bệnh viện người ta cho về, có thế thôi, - Digger nói, chủ yếu để mình nghe. - Tại bệnh viện tôi đã toan viết thư. Tôi đã lấy giấy ra. Song tôi lại không viết. Bây giờ cũng sẽ không viết. Tôi không thể.
Người đàn bà xoa xoa da hai cánh tay.
- Tôi có một tấm ảnh, tôi sẽ cho chị xem, - gã nói. - Cô ta đấy. Ảnh chụp không được đẹp lắm. Song chị có thể nhìn được, cố nhiên người Pháp và người Bỉ khác nhau, song chị có thể thấy cô ta thuộc loại con gái tử tế.
Người đàn bà, lúc này đang đứng trong một thế giới mờ nhạt của những viễn cảnh xa xăm, bị phơi trần phũ phàng trong ánh sáng của tất cả mọi trải nghiệm làm người, ngắm nghía khuôn mặt cô gái con nhà tạp hóa. Gương mặt đầy hy vọng. Với niềm tin ở tình yêu, gương mặt ấy cố bộc lộ hết những chiều sâu của nó. Gương mặt ấy chưa phải chịu cảnh phũ phàng.
- Cô ấy tên gì? - Amy Parker hỏi.
- Whyvonne, - Digger nói ngay. - Tôi chẳng bao giờ có thể nhớ hết cả phần sau.
Amy Parker rất bình thản, cho dù chị đã rùng mình thương cảm tất cả những con chim bị tan xác hoặc bị thương. Chị tiếp tục nhìn chằm chằm vào bức ảnh nâu mà Digger cầm bằng những ngón tay chai sạn, vào cái cổ tay to mập có những sợi lông màu đồng thẫm của gã đàn ông.
- Ở một bên quầy hàng, - Digger nói, - họ kê hai chiếc bàn đá cẩm thạch nhỏ, tại đấy người ta có thể ngồi uống một ly rượu. Tôi thường vào quán. Ở đó họ có nhiều loại rượu khác nhau, đủ màu sắc, và khối chuyện bất ngờ. Cô ta đứng đó. Bọn thanh niên đã vẽ lên mặt bàn song cô ta dường như chẳng để ý đến những việc ấy. Lát sau cô ta đến ngồi, cô thường ngồi với tôi và người ta bắt đầu coi chuyện đó là tất nhiên. Tôi không dám chắc rằng đó là lỗi của tôi.
Song mắt gã không tích cực bằng cái mồm. Còn Amy Parker mắt chằm chằm nhìn cô gái con nhà tạp hóa hoặc cổ tay gã đàn ông, cũng không khiến gã tích cực được. Chính chị cũng đang cần trợ giúp. Tất cả những gì chị cho là đương nhiên khiến chị run rẩy. Cái thân thể khốn khổ của chị chờ đợi một sự đụng chạm vô liêm sỉ nào đó.
- Nhà chị ở đây đẹp thật đấy, - gã vừa nói vừa bỏ tấm ảnh vào túi, bởi hiện tại quan trọng hơn.
- Cũng chẳng đẹp gì lắm, - chị vừa nói vừa lùi một chút vào bóng những cây thược dược. - Chúng tôi dựng lấy. Tôi đã ở đây gần cả cuộc đời.
Chị có thể thấy là đôi mắt thú vật rành rành của gã đàn ông khiếm nhã kia trong khoảng khắc rõ ràng cố nhìn vào bên trong cái cuộc đời mà chị không muốn thổ lộ với gã.
- Nói tiếp đi. - gã vừa nói vừa tì mạnh hơn vào hàng rào và nhìn nước da tái xanh bí ẩn trên mặt chị, cái màu do những bông thược dược gây ra, khóm thược dược đỏ tươi, to, rậm rạp đang cọ xát vào chị và đẩy chị vào bóng lá xanh rờn của chúng.
Chị không thở được trong cái ngột ngạt kinh khủng của lá cây rậm rạp ấy nên lại phải quay ra, rồi bắt đầu nhìn dọc con đường và lầm bầm về các đứa con của mình.
- Chị đã có con à? - Gã khẽ hé môi hỏi.
Khi bóng cây ra khỏi khuôn mặt chị, gã lại nhận ra rằng chị là một trong những người đàn bà mà gã đã gặp ngoài đường phố hoặc đã ngồi đối diện gã trên các chuyến tàu điện, tay xách nách mang, những người đàn bà mà gã không quan tâm, họ cũng chạc tuổi chị.
- Tôi có hai cháu, - chị khẽ nói. - Chúng đang lớn trông thấy. Đôi khi chúng khá được việc.
Chị nhận thấy rằng gã thanh niên chẳng mấy chốc sẽ bỏ đi. Trong bộ tạp dề trắng được hồ cứng, nom chị thật khỏe mạnh, chỉ có điều khi chị nhìn gã bằng vẻ thờ ơ của một kẻ xa lạ miễn cho một kẻ xa lạ cái nghĩa vụ phải giãi bày thêm tâm sự, chị thấy vẻ nhẫn tâm của đôi mắt thằng con trai mình và một cái gì đó ở cái miệng đầy đặn của nó mà chị thường buộc phải nhìn hau háu.
- Tôi phải đi đây, - gã Digger nói. - Đi tìm những người bà con của mẹ tôi.
- Chúc may mắn. - Chị nói với một giọng trong trẻo song rõ ràng chị không quen nói như vậy.
Khi gã đi rồi, chị vào cái phòng nơi chồng chị đã mỉa mai việc chụp ảnh và nở một nụ cười gượng gạo, miễn cưỡng với chị. Lúc này chị nằm lên giường, vẫn mặc bộ tạp dề hồ cứng, cọ hai cánh tay vào cái mền đan móc và ngả đầu lên chiếc gối. Một nỗi bất hạnh lớn đè nặng trong căn phòng gỗ, ở đó ruồi bay vo vo và một con ngài to, màu xám bám chặt vào tường như chết. Rồi chị bắt đầu khóc, hoặc vì cái cô dâu con nhà tạp hóa kia, hoặc vì chồng chị, hoặc vì cái buổi chiều đau đớn này. Nhưng như vậy lòng chị lại nhẹ nhõm.
Và khi hai con chị bước vào, lảng vảng và bắt đầu hỏi có chuyện gì xảy ra thì chị ngồi dậy, quần áo nhàu nát và bảo rằng chị vừa bị nhức đầu. Chúng tin, khi ấy chị thấy mắt thằng con trai không có cái vẻ nhẫn tâm mà chị đã ngờ, mà đó là đôi mắt của chồng chị, vì vậy chị lại tràn ngập dịu hiền và hy vọng.
Đến kỳ hạn Stan Parker trở về nhà. Do sự chậm trễ nào đó của bưu điện, việc anh về không được thông báo trước, anh rảo bước dọc đường cái, mang theo chiếc ba lô và chiếc mũ sắt cho thằng con trai, anh về đến nhà khoảng cùng thời gian gã trai trẻ Digger đã đi qua khi trước, vào đầu buổi chiều, và nói:
- Ồ, cuối cùng anh đã về đây, Amy ạ.
Vì anh về bất ngờ mà chị lại mắc bận một đôi việc khẩn cấp và quan trọng nên chị hôn anh một cái rất yếu ớt, khác với điều chị đã hình dung và tập dượt trước, hầu như lập tức kể anh nghe về một chiếc bản lề của một cái cửa bị lỏng ra, việc đó ám ảnh chị bởi chị đã cố mà không vặn chặt được.
- Được rồi, - anh nói. - Chúng ta sẽ lo liệu việc đó. Nhưng rồi hẵng. Bây giờ có nhiều thời gian. Để làm mọi việc.
Chiều hôm đó có vẻ có thì giờ. Ngôi nhà mở rộng cửa. Những thảm ánh sáng rộng, vàng óng trải dài trên sàn nhà. Ong bay vào qua các cửa sổ, và lại bay ra phía bên kia ngôi nhà yên ắng, nơi hai vợ chồng chị đã ngồi và bắt đầu nhìn nhau.
- Anh sẽ phải kể em nghe nhiều về cuộc chiến đấy. - Chị bẽn lẽn nói lúc anh ngồi uống tách trà chị rót, cứ thổi phù phù vì trà còn quá nóng.
Anh rời miệng khỏi tách trà cho khỏi nóng.
- Khi nào có dịp hẵng, - anh nói.
Song chị không có ý định bắt anh phải kể chuyện ấy.
Thực ra chị không quan tâm. Chị chỉ tin ở cuộc đời hai người đã cùng chung sống và giờ đây sẽ lại bắt đầu, khi chị đã quen với một người đàn ông khác, chồng của chị, đọc được những nếp nhăn mới trên khuôn mặt anh, và nói chung thấy vững dạ khi sờ thấy anh. Chỉ vào khoảng khắc ấy đôi mắt anh mới mở ra giữa hai người.
- Tất cả những lá thư chúng mình đã viết cho nhau, - anh nói, - chúng mình sẽ hủy đi hết. Thật là lãng phí thời gian. Mà em có thể dùng làm gì?
- Em giữ chúng. - chị vừa nói vừa mân mê cái khăn trải bàn. - Em thích những bức thư ấy.
- Giữ thư từ cũ không tốt đâu, - anh nói. - Không lành mạnh. Ta bắt đầu đọc lại những chuyện cũ và quên mất ta đã tiến lên. Mẹ là một ví dụ. Bà có cả một ngăn kéo đầy thư từ cũ. Những bức thư ấy đã bạc màu.
Bởi đã cho người đàn bà da nâu chậm hiểu, đồng thời cũng là vợ anh, biết những mẩu bí mật về bản thân mình khi thổ lộ tâm can trong đêm tối, giờ đây anh thấy băn khoăn. Bởi đã thổ lộ về bản thân mình, anh nhận thấy chị là một người xa lạ. Chị giấu kín ý nghĩ của mình, cứ ngồi nhìn tấm khăn bàn mà mỉm cười và ta chẳng tài nào hiểu nổi. Tóc chị đã bắt đầu bạc song gương mặt chị rất rạng rỡ, vào giây phút ấy anh không thể đoan chắc như thế là đẹp hay đáng bực mình.
Rồi anh lại khuấy tách trà, và từ những xoáy nước trà nâu đỏ tỏa ra một niềm thỏa mãn. Chị ngồi đối diện anh, sặc mùi bánh nướng và sự vĩnh cửu. Sẽ có nhiều cơ hội để hiểu thấu lòng chị.
- Các con có khỏe không? - Anh hỏi để phá vỡ yên lặng.
- Chúng khỏe, - chị nói. - Bây giờ chúng cao ngẳng. Thelma đôi khi đùa nghịch, búi tóc ngược lên. Khi ấy nom nó ra dáng người lớn lắm. Nhưng nó rất buồn về bản thân mình. Nó mắc cái bệnh suyễn ấy. Ồ, em cho rằng sẽ khỏi thôi. Rồi nó sẽ phải đi khỏi nơi này. Và cả thằng Ray nữa. Cả hai đứa sẽ đi. Ray là một thằng bé khỏe mạnh. Đôi khi hung tợn. Nó nóng tính. Thằng Ray có thể làm bất kỳ chuyện gì, nếu nó muốn. Hoặc đốt trụi ngôi nhà trong một cơn nóng giận. Nó không thích bị trách cứ. Nó không chịu để ai động đến mình. Em có thể yêu quý thằng Ray, anh Stan ạ, nếu như nó chịu để em làm thế. Em có thể khiến nó nên người, song nó lại thấy xấu hổ vì thái độ nhẹ nhàng của em.
Người bố chẳng biểu lộ là anh không còn tin rằng sự can thiệp của con người có thể ảnh hưởng đến bất kỳ chuyện gì. Ngược lại, anh vừa lắng nghe vừa phỏng đoán câu chuyện về những đứa con mà anh vẫn chưa gặp. Anh uống trà đến bỏng cả miệng, nhìn vợ phía bên kia bàn, phấn khởi vì tình yêu của chị dành cho các con và nhận ra rằng so với anh thì chị hiểu chúng hơn. Anh trông chờ ở chị. Chị sẽ là cái cầu nối giữa bọn trẻ và anh. Thế là anh cảm thấy dễ chịu hơn.
Buổi chiều cứ thế trôi đi cho tới khi bọn trẻ trở về và đàn bò diễu qua. Người đàn ông và người đàn bà bắt đầu nhìn nhau, ít vẻ căng thẳng mà chan chứa thương yêu. Giờ đây anh lấy làm mừng là đã mở toang những bí mật của bản thân mình như một cái tủ, để phô ra tất cả bên trong. Người đàn bà chẳng còn xấu hổ không dám sờ vào bàn tay chồng, điều mà chị đã muốn trong một thời gian dài. Giờ đây chị nắm lấy bàn tay ấy và ngắm nhìn khi nó nằm đó và xoa xoa nó bằng bàn tay nóng bỏng của chính mình rồi gắn liền nó với chị bằng những ngón tay xương xẩu của mình. Thế là cuối cùng họ đã đoàn tụ. Miệng và tâm hồn họ mở rộng cho nhau. Họ ghì sát lấy nhau, mắt nhắm lại không chấp nhận một hàng rào thể xác nào đối với cuộc hòa hợp toàn vẹn này.
Đêm ấy, sau nỗi e thẹn và bỡ ngỡ, họ luôn vui cười trong ánh đèn ở gian bếp, chẳng vì lý do tuyệt vời nào ngoài niềm hạnh phúc của mình, và tiếng cười tràn ngập ngôi nhà, lan ra cái thế giới của ánh trăng và điêu khắc, thế giới của những chú ngựa trắng cùng những cây cối vững chãi, những bể chứa nước, những con chim không thấy đầu mà một vầng trăng lớn đã sắp đặt ở đó. Bọn trẻ, đang bắt đầu quen với bố, đã cười vì những chuyện ngớ ngẩn và cười chỉ để mà cười. Lúc này chúng thực ra đã mệt bã người, song một nỗi cuồng nhiệt khiến chúng vẫn đứng vững. Cậu con trai khỏe mạnh, cái đầu hầu như lọt thỏm trong chiếc mũ sắt Đức, băn khoăn không biết có nên làm trò thêm chút nữa rồi mới bỏ đi cùng với chiếc mũ hay không. Cô con gái gầy gò thì đứng nguẩy hai cái đuôi sam khó chịu ra đằng sau và vặn vặn một chiếc băng tay bằng sợi tổng hợp mà nó đã đem đổi bằng một cái trâm gài tóc hình đầu chó cho một đứa con gái khác.
Suýt nữa Stan Parker đã hỏi tuổi các con nhưng kịp nhận ra anh không nên quên chuyện đó. Có những lúc đứa con gái nhỏ bé tỏ ra nghiêm trang, chín chắn.
- Con Thel sắp sửa có bạn trai lúc nào không biết chừng, - anh nói, nửa như với bản thân mình.
- Rồi ra các con sẽ làm gì? - Người mẹ nói. - Chưa học hết phổ thông đâu đấy!
- Con ghét tụi con trai, - cô gái vừa nói vừa vặn vẹo cái cổ mảnh mai. - Con sẽ không, không bao giờ lấy chồng.
- Không bao giờ, - thằng con trai reo lên, nó đang cưỡi lên chiếc ghế tựa để có thể ngả đầu lên ván lưng vậy mà câu nói nghe vẫn không được rõ. - Con sẽ không lấy vợ. Con muốn làm một việc gì đó. Con muốn dự một cuộc đua ngựa, hoặc đi bộ xuyên Australia. Thế bố mẹ có biết là có nước trong rễ vài loài cây và ta có thể nhổ rễ lên mà mút nước, nếu ta biết đúng loài cây đó không? Người da đen làm thế. Có lẽ con có thể làm một nhà thám hiểm. Hoặc một võ sĩ quyền Anh. Con có thể dùng hai tay chiến đấu. Con đã nện cho một thằng tên là Tom Quodling vì nó không chịu nộp hòn bi nó hứa đưa nếu con thắng, và con thắng thật. Thế là con lấy hòn bi ấy. Đó là một hòn bi màu lục.
- Các con đang nói ngớ ngẩn đấy, - người mẹ nói. - Đã đến giờ đi ngủ rồi.
- Ô, saooooo? - Thằng con trai vừa càu nhàu vừa cọ cái đầu ngái ngủ vào ghế.
- Mẹ đã bảo vì sao rồi.
- Tất cả bọn con trai đều ngớ ngẩn, - đứa con gái nói.
Nó đứng một góc phòng, khuỷu tay chắp sau lưng, canh khuya đã khiến nước da tái nhợt của nó trở nên xanh xao. Nó ẻo lả nhưng có khả năng làm những điều rất độc địa. Nó thích những chuyện bí mật. Nó trao đổi những điều bí mật với những đứa con gái khác. Thậm chí nó còn ghi những điều đó vào một quyển sổ cất trong hộp đựng nữ trang, còn chìa khóa hộp thì đem giấu đi. Nó rất muốn có một chiếc dương cầm để tập những bản nhạc mà nó nghe lỏm được của bà trưởng trạm bưu điện, song vì ở nhà không có dương cầm, những bản nhạc giọng kim ẩm ương nó mang từ phòng bưu điện về ấy cứ lưu lại trong đầu nó, đôi khi nó thường ầm ừ cho mình nghe bằng vẻ hơi bí mật và hợm hĩnh.
- Bọn con trai xỏ lá lắm, - nó vừa nói vừa lắc lư người và nói như thể nó phải nhắc lại ý kiến đó trước mặt bố để lưu lại mãi mãi.
- Tao đá cho mày bây giờ! - Thằng con trai quắc mắt nói, nhấn mạnh từng lời không kém.
Chúng ghét nhau đến chừng nào mới đủ? Vì chuyện này không rõ ràng, nỗi căm ghét khiến chúng thất vọng trừ trong những giây phút lãnh đạm hoặc trong giấc ngủ.
- Thôi cảnh này nhà mình đủ rồi, - người bố nói. Anh phải có thái độ, chúng là con cái, anh lại tự nhủ mình với một nỗi khổ tâm. - Hôm nay là một ngày bình yên, phải không nào?
Chúng nhìn anh bằng một vẻ hoài nghi, nhìn con người xa lạ đồng thời là bố chúng ấy, rồi bắt đầu lỉnh đi ngủ, ngụy trang bằng những chiếc mặt nạ của tình thân ái. Quả thực, cái yên bình của ban đêm bắt đầu len vào bên trong ngôi nhà, chúng phải thừa nhận điều đó hơn là thừa nhận lời bố nói. Thằng con trai chìa miệng lên hôn mẹ, chị tận hưởng cái hôn ấy thoải mái đến nỗi đâm bắt đầu băn khoăn không biết thái độ ấy có đáng xấu hổ không, rồi chị bước ra ngoài, đóng cửa lại. Đứa con gái nhìn ra ngoài cửa sổ một lát, chẳng để ý gì đến vẻ đẹp của ban đêm vì nó bị nỗi niềm riêng của mình ám ảnh. Nó lấy cái lọ nước hoa Pháp bố mang về ra ngửi mấy lần. Chỉ vào giây phút ấy nó mới thật ngập tràn vẻ yên bình, xinh xắn. Khuôn mặt đẹp như bông hoa huyền bí của nó tỏa sáng trong tấm gương khi nó cầu nguyện sau hai bàn tay chắp lại như cái nụ dài, chưa hé. Nó cầu nguyện, sắp đặt những mối quan hệ, như đã được chỉ bảo, thành các phạm trù tình yêu. Rồi, khi đã giải quyết xong việc đó, nó lên giường và mơ thấy mình dạo bước dọc những hành lang dài của âm nhạc khắc khoải cùng giấc ngủ.
Những ngày tháng sau chiến tranh trôi đi chậm chậm nhưng dữ dội tại Durilgai. Stan Parker lại bắt đầu đi làm. Nhiều người không biết là anh đã trở về, vài người chẳng quan tâm, vài người đã quên không nhớ người đàn ông đó là ai. Vài người nhìn anh lần đầu tiên và căm giận vì anh đã xâm phạm đến rìa khu vực họ mới giành được quyền sở hữu. Song anh chẳng thấy khó chịu chút nào vì điều đó. Anh cứ đi khắp nơi. Đôi khi đầu anh chúi xuống, như thể sự bình yên là quá nặng nề. Anh già hơn trước, cố nhiên. Anh bắt đầu tăng cân. Anh là một người nặng nề và các cơ bắp chẳng bao lâu sẽ rão ra. Song anh vẫn còn trong thời kỳ sung sức. Anh có thể hất một bao thức ăn cho súc vật lên vai không mấy khó khăn, tì lên mớ tóc hoa râm bù xù trên cái cổ rám nắng.
Giờ đây anh là một con người già dặn, có sức khỏe, song cũng rất ôn hòa. Đôi mắt anh chìm đắm trong hy vọng. Anh đã quan sát cách cư xử của những con kiến, cách bay của những con diều hâu, những chuyển động của các chú bê con trong bụng mẹ, những người đếm tiền và suy nghĩ về cái chết, anh đã quan sát những điều đó tương đối tỉ mỉ và thật chính xác, song ở trạng thái mơ màng của người đang ngủ, trong đó anh đang chầm chậm động đậy và có lẽ một ngày nào đó anh sẽ từ đó nhìn ra ngoài. Thế là anh cứ đi, có lúc tưởng lạc đường. Vào những buổi sáng sớm, khi vải quần ướt sương dính vào chân anh và màn sương mù còn che phủ, những cái mạng nhện trên đám cỏ cao giương tấm bia nhỏ bé của chúng bên đồng cỏ, những sự vật lờ mờ, thực tế và triển vọng, giấc mơ và vật thể hòa trộn với nhau trong cùng cái thế giới nửa hư nửa thật ấy. Ngay cả khi mặt trời đã lên, lúc đầu còn hơi xù xì nhưng đỏ chói, rồi xuyên qua màn sương, tỏa sáng lên đất đai, đồng ruộng, dựng cỏ cây đứng dậy trong ánh sáng ngời ngợi rõ rệt, Stan Parker vẫn khó thấy hoàn toàn tin tưởng. Vào thời bình khi ấy, anh vẫn rụt rè không dám thừa nhận bất kì cái gì là chắc hẳn, có thật, hoặc cái gọi là vĩnh cửu. Rất nhiều điều còn cần phải chứng minh. Chỉ anh chứng minh được.
Anh trở về ít lâu thì Doll Quigley đến. Cô Quigley như giờ đây mọi người vẫn gọi, những người đã biết cô khi còn là một cô gái gầy guộc, vẫn đi chân đất cho thật thoải mái. Doll không thay đổi nhiều lắm. Cô sinh ra vốn lớn trước tuổi trẻ lại, hoặc nói cách khác càng già càng trẻ ra. Phẩm cách của cô bình dị như bộ đồ xám cô mặc. Đó là một bộ váy dài và phẳng phiu, chẳng ai để ý bằng chất liệu hoặc đang trang trí cái gì, chỉ biết nó che thân cho cô và là một bộ đồ tử tế. Cô còn gài một chiếc ghim hoa nữa, có lẽ có tráng men và điểm những hình trang trí nho nhỏ mà chẳng bao giờ mọi người để ý. Song nó vẫn ở đó, phía dưới cái cổ dài của cô nơi làn da màu hung đã tạo thành bướu. Tuy nhiên người ta vẫn chẳng để ý đến điều đó, trừ bọn trẻ con bị mê hoặc. Chỉ có cái mặt của Doll mới đáng kể.
- Em mang những cái này đến, - cô vừa nói vừa lấy hai bàn tay dài màu hung che mắt.
Có vài chiếc bánh cứng như đá vàng vàng be bé trong một cái hộp.
- Để ăn đổi món, - cô nói hoặc hy vọng như vậy.
Những hạt đường lấp lánh trên những chiếc bánh thô kệch của Doll. Cô dùng cái bàn tay dài thứ hai, trên đó những hạt cám đã khô - bàn tay đã bị mất một ngón vì một cái máy cắt rạ, để đưa mời những chiếc bánh ấy.
- Cảm ơn Doll. Bánh trông ngon đấy, - anh nói, nhận những chiếc bánh màu vàng làm vụng kia.
Người đàn ông và người đàn bà rất lúng túng khi họ đứng ngoài nắng trao đổi chuyện trò. Cô vẫn lấy tay che mắt. Những lời nói chậm rãi và rời rạc như cát của cô trôi qua dòng nước thời gian, cho tới khi anh đứng bên mép nước của dòng sông ở Wullunya, và rất nhiều sự kiện từ thời trai trẻ của anh, khá là đầy đủ, êm đềm và huyền diệu, trôi qua. Đó là cái mà Doll Quigley đã đặt vào tay anh trong buổi sáng với những chiếc bánh ấy. Cô đưa đến sự toàn vẹn.
- Ô, - lát sau anh nói, - sao chúng ta lại cứ đứng vậy? Em vào nhà không?
- Không, - cô nói. - Ở đó chẳng có chuyện gì mà nói.
Cô chẳng muốn hỏi han về những vết thương và tấm mề đay của anh như những người khác.
- Không, - cô nói, - gà đang đẻ. Bây giờ em nuôi gà tây, anh ạ. Năm con gà tơ.
Rồi cô mỉm cười. Cô có đôi mắt trong xam xám chưa từng nhận biết tội lỗi.
- Ô, - cô nói. - Em mừng là anh đã trở về, Stan ạ. Em biết anh sẽ trở về. Em đã cầu nguyện điều đó.
Không hiểu cái điều bí mật mà anh cảm thấy có thể chia sẻ được với người đàn bà này là cái gì? Tâm hồn họ hầu như hòa nhập với nhau, cũng như đời họ.
Song những cái bánh cứ xô đẩy nhau trong tay anh, trong cái hộp mỏng mảnh mà cô đã đựng chúng. Thế là sự lúng túng lại trở về, và anh cảm ơn cô về những lời cầu nguyện; ngoài chuyện đó anh chẳng làm được gì nhiều.
Sau đó Amy Parker bước ra điệu bộ vui vẻ. Sáng hôm ấy nom chị rất xinh, đến mức lẽ ra anh phải ngắm nhìn. Song vào khoảnh khắc này anh đang bối rối. Có một cái gì đó anh phải bảo vệ.
Lát sau Doll Quigley chào tạm biệt, trở về với người em của cô, với những con gà tây và đám gia cầm.
- Cái gì thế kia? - Amy Parker hỏi và nhìn chằm chằm.
- Cô ấy đem những cái này đến, - anh nói, vì buộc phải cho xem những chiếc bánh được tặng ấy.
- Ồ, chẳng bao giờ em ăn đâu, - vợ anh nói. - Những cái bánh rắn như đá muôn thuở của Doll chứ gì? Em cam đoan là chỉ có một cục bột cám viên lại thôi.
Chị đã nhìn thấy những cái bánh song lại không thấy sự mếch lòng của anh, hoặc giả thấy được thì có thể chị đã lấy làm thích. Anh là một cậu bé ở ngưỡng cửa sau, đang chờ đợi những diễn biến tiếp theo.
Amy Parker, cầm lấy những chiếc bánh, cố nhiên chị phải làm thế, và anh nghe tiếng chúng rơi vào một cái hộp sắt tây, quá nhanh và quá mạnh.
- Tội nghiệp cô Doll thân mến, - vợ anh nói. - Cô ấy thật quý hóa. Lại còn nghĩ ra việc nướng những cái bánh này nữa. Cô ấy đã chẳng dám nói với em. Em cho rằng cô ấy phải lòng anh, anh Stan ạ, như mấy bà cô già bám lấy một người đàn ông nào đó.
Anh nghe tiếng chị xát hai bàn tay vào nhau để phủ những hạt đường thô còn bám vào.
Song Stan Parker tiếp tục suy nghĩ về Doll Quigley, cái dáng vẻ yên lặng, trong sáng của cô phớt lờ những dòng thời gian mạnh mẽ và vẩn đục hơn. Có lẽ là do ngu dốt. Hoặc nếu không thì những mục đích của Chúa đã được một vài bà già, nữ tu sĩ và những kẻ ngu ngốc thấu suốt. Nhiều lúc Stan Parker thấy đờ cả người trong tình trạng quá mê lú của mình. Rồi trong khoảnh khắc anh thường bộc lộ tâm can, như trường hợp bắt gặp cái nhìn của Doll Quigley. Khi đó anh thường bắt đầu quan sát chính đôi tay đang làm việc của mình hoặc nhớ lại gương mặt một bà già trong một ngôi nhà thờ đổ nát hay một cái cây khô héo đang nhú những chồi sắc nhọn đầu tiên.
Vợ chồng nhà Armstrong đến Durilgai một hoặc hai lần sau khi Stan Parker trở về. Rõ ràng là họ bỡ ngỡ. Họ đến bằng một chiếc xe hơi sang trọng và không trò chuyện với những người họ gặp, không phải vì kiêu hãnh mà bởi họ không bao giờ muốn lưu lại lâu tại bất cứ nơi nào. Vì cậu con trai Tom Armstrong, từng là trung úy, đã tử trận, và đã được nhắc tới trong các bản thông báo, đã được tặng huân chương - báo chí đã đăng tất cả những điều đó - ông bố già bị đột quỵ gì đó khiến một bên mặt xệ xuống. Người ta cảm thấy ái ngại cho ông già Armstrong. Giờ đây ông ngồi trên chiếc xe hơi màu lục của mình, bên thành xe là một con rắn bằng đồng thau ngoằn ngoèo đáng sợ, ông ngồi đó đội mũ lưỡi trai, vận chiếc áo khoác đẹp bằng vải tuýt của Anh và cứ nhìn về phía trước, trừ khi bà vợ thúc khuỷu tay để chỉ một vật gì hoặc một người nào đó. Khi ấy ông thường khẽ khàng giơ bàn tay mình lên ra hiệu chào trong không khí, cho bất cứ ai muốn nhận. Chỉ có điều là ông già Armstrong lãnh đạm. Da các ngón trên bàn tay tê liệt của ông chun lại thành những nếp lạnh lẽo.
Tuy vậy, vợ ông lại có vẻ tươi tỉnh, như một cây ngô trĩu bắp. Tóc bà từ đỉnh đầu tỏa xuống như tơ râu ngô và nom khá mượt mà tươi mát so với những cử chỉ lạnh lùng nhưng thích hợp của bà. Bà mỉm cười vẻ thông hiểu và thích nói đến các thứ bệnh tật, những bệnh không kéo dài và dễ chữa, hoặc những ca tiểu phẫu, như thể những đóa hoa cẩm chướng và dây nho la liệt xung quanh.
Khi đến Durilgai, vợ chồng Armstrong rong xe đến Glastonbury, nơi giờ đây không bao giờ họ ở nữa, bởi khu ấy chưa xây dựng xong. Thợ thuyền đã được cho rút khi họ nhận tin báo tử của Tom, do vậy mà cái cầu thang vẫn tiếp tục lộ thiên, còn vôi vữa thì rắn lại thành đá ở nơi trộn, người ta đã lấy trộm những viên gạch rời vào những đêm trời tối. Cặp vợ chồng già Armstrong thường đảo qua khu vườn hiu quạnh một, hai vòng, ghì chặt sống áo vào người, như thể để ngụy trang, bà Armstrong vẫn tìm kiếm vết tích của trận hỏa hoạn khủng khiếp ấy, thường đứng lại ở nơi từng có những luống hoa bên dưới đám cây kế sữa và đậu mèo để ngắt những bông hồng từ các bụi hoa làm thành những nắm hoa tội lỗi. Những nắm hồng to của chính bà. Bà không thể hái thật nhiều và thật nhanh, cứ như thể bà muốn những bông hoa ấy mà chúng lại không phải của bà. Rồi vợ chồng Armstrong thường trở về bằng xe hơi của mình, bởi gió chiều thổi rất nguy hiểm trên đồi ở Glastonbury. Đôi chân họ không thoải mái khi ngồi đóng bộ áo choàng len kẻ sọc của người Scotland, còn những bông hồng rũ xuống trên lòng người đàn bà luống tuổi, đôi khi bà ném chúng qua thành xe, băn khoăn tự hỏi vì sao mình đã hái những bông hồng héo rũ ấy.
Stan Parker một lần có cớ để sang Glastonbury, sau khi con vịt béo giống Muscovy bay ra khỏi bãi nuôi gia cầm vì vợ chồng anh chậm cắt cánh, tuy vẫn hay nhắc tới chuyện ấy luôn. Con vịt chạy thẳng sang Glastonbury để tha hồ tung tẩy, ẩn náu trong chốn hoang tàn đó, để chịu đựng tất cả những nỗi hãi hùng và sức mạnh thiên nhiên nhằm duy trì cái ảo tưởng về tự do của nó. Stan Parker leo lên đồi đuổi theo, rẽ cỏ cao mà chạy, đến nỗi hạt cỏ rụng cả ra, còn hoàng hôn thì cứ lơ lửng xuống dần thật đẹp. Tại một nơi, có một cây cải bắp mọc hoang. Dưới gốc có mùi thum thủm. Giữa đám cỏ linh lăng của nhà Paddy, từ đó những nhánh nho chua bò lan ra ở nơi trước kia có khóm dành dành và hiện vẫn còn đó, chỉ có điều tàn tạ không thể nhận ra, lá và nụ đã vón cục và mục thành những cuộn giấy màu nâu, anh cúi xuống nhặt một bó thư cũ. Những bức thư này cũng nhợt nhạt và mốc thếch. Những điều bí mật của chúng càng bí mật hơn trong nét chữ mờ mờ nhưng cứng cáp của một người nào đó, dường như đã nhúng bút mực và viết ra những điều muốn nói.
Stan Parker muốn đọc những bức thư đẫm nước ấy trong bụi cây ngột ngạt này và phát hiện một điều bí ẩn nào đó biết chừng nào! Bao giờ nỗi khát khao tội lỗi muốn đọc những bức thư giấu tên cũng khiến cho bàn tay run rẩy. Vì vậy, nếu không nhớ đến Tom Armstrong, anh đã sẵn sàng đắm mình vào tội lỗi và tri thức, dù những bức thư ấy có phải của anh ta không. Anh ném bỏ bức thư xuống đất và bước vào bên trong ngôi nhà xây dở mà chẳng ai từng nghĩ đến việc đóng cửa vì chẳng có lý do gì để mà đóng.
Thật vô lý khi ngôi nhà này giống y hệt với cái trước kia đã bị cháy. Một gã ba trợn nào đó có lần đã cắm trại, nơi có treo những tấm thảm, và đã nhóm lửa trong lò sưởi sinh đôi rồi bôi cứt đái be bét lên bức tường trống. Một kẻ nào đó đã viết những lời thổ lộ tình yêu theo kiểu thôi thúc của thể xác. Song Stan Parker lại nhớ tới chính cái gương mặt đầy lý trí của anh chàng Armstrong khi anh bước vào căn phòng, nơi gót chân anh đã đá phải cây đàn hạc vào buổi tối hôm có pháo hoa dạo nọ. Bởi vì đó không phải hôm có cháy, về sau anh nhận ra như vậy. Pháo hoa có trước đám cháy. Tom Armstrong với chiếc cổ cồn loại tốt, tóc chải mượt, mọi thứ đều chuẩn mực, toát lên vẻ tự tin của con nhà giàu. Cho tới khi Madeleine quỳ gối bên ngoài ngôi nhà phát hỏa, hoặc vào lúc cuối cùng, khi cái đầu anh ta bị văng đi.
Stan nặng nề bước qua ngôi nhà trên thực tế không thuộc về gia đình nhà Armstrong ấy. Những cây leo đã chiếm lĩnh cái cầu thang đang xây dở, chẳng rõ chúng luồn qua kẽ hở nào mà lan ra, bò ngoằn ngoèo ở những chỗ trước kia là khói. Người đàn ông đứng tại đỉnh ở chỗ cao nhất mà anh có thể tới, từ chỗ được đám dây leo che khuất anh nhìn ra và băn khoăn suy nghĩ về cô gái của Tom Armstrong. Không ai nghe tin gì về cô ấy, không biết cô ấy đã lấy chồng chưa và cũng chẳng biết cô ấy còn khiêu vũ không; Madeleine đã biến mất như thể cô ấy chưa từng tồn tại, nếu như không có khoảnh khắc trên cầu thang ấy.
Rồi Stan Parker tựa đầu vào cái công trình dở dang bằng gạch đó và hình dung khá rõ nét anh sẽ kết thúc việc phản bội vợ mình như thế nào khi có dịp. Giờ đây cái buổi tối bình thản này không cho phép anh có cảm giác tội lỗi. Dưới bầu trời rộng lớn đang tối dần, trên đỉnh ngôi nhà hoang vắng đã mất linh thiêng ấy, những dây leo nhàu nát trong hai bàn tay anh tựa thịt da, sự mát mẻ mềm mại của da. Chỉ có điều anh không nhớ được đầy đủ. Dù cố mấy anh cũng không nhớ được những lỗ chân lông trên da nàng, những mạch máu trong mắt nàng, hơi thở của nàng trên cổ anh. Toàn bộ những ngăn trong tâm trí anh, nơi từng chi tiết riêng được chứa đựng, dường như đã tiêu tan, giống như những căn phòng trên cái tầng thượng quan trọng nhất kia, nơi anh đã chạy qua, đem thân mình đối chọi với sức tàn phá của ngọn lửa, để tìm nàng, điều mà anh đã không chờ đợi ở tuổi thanh niên thiếu tự tin, giờ đây lại thức dậy.
Giờ đây người đàn ông đứng tuổi ấy đứng vò nhàu những dây leo trên đỉnh ngôi nhà xấu xí kia. Những nếp nhăn khó chịu đã hiện lên trên mặt anh, hầu như hoàn chỉnh. Song, cố nhiên sẽ chẳng ai nhìn thấy vì ngôi nhà hoàn toàn hoang vắng. Trừ con vịt nọ, nó lạch bạch nặng nề trong bụi cây thấp, để lộ ra đôi mắt màu vàng. Ồ, anh đã đến đây để bắt con vịt, vừa bóp nhàu những dây leo cay nồng anh vừa nhận ra điều đó, lấy làm mừng là có lý do.
Thế là anh nguyền rủa chú gia cầm:
- Tao sẽ tóm thằng khốn nạn kia, - anh nói.
Trong lúc con vịt còn đang tiếp tục lạch bạch thì người đàn ông chạy ào xuống phía sau ngôi nhà, cái thân hình to lớn của anh trở nên nực cười khi nó lao thật mạnh vượt ra ngoài những hồi ức của anh. Rồi anh trấn tĩnh lại, lấy hơi, nhặt một cành cây dài bị gió bẻ gãy mà anh thấy nằm dưới đất và lao vào chú vịt lúc này đã ân hận một cách tuyệt vọng, ấn nó xuống đất bằng cái chạc cành cây, ấn như thể anh muốn đẩy chú gia cầm ấy qua lòng đất cho nát ra, cho khuất mặt còn hơn là bắt sống nó.
- Tóm được thằng khốn nạn rồi, - anh quát om sòm.
Con vịt rít lên, đập cánh, rồi giãy cái cổ dài và khỏe lên chống cự. Tính ngang ngạnh ghê gớm và những chỗ phồng ở cuối mỏ nó đã trở nên rất đáng thương tâm. Song lúc này người đàn ông đó căm ghét nó không để đâu hết.
Rồi anh bỗng toài người xuống cuối cành cây, tay vẫn nắm chặt, cúi xuống và tóm chú gia cầm ở cái chạc ra. Sau một hai tiếng rít, chú vịt từ tay anh tuy có nặng vẫn rủ xuống gọn gàng.
Người đàn ông quay lại và bắt đầu đi xuống đồi. Chẳng ai nhìn thấy những chuyện này hết. Anh bước lên những vết chân mình đã tạo ra, qua đám cỏ đổ rạp. Sẽ chẳng ai biết tí gì về nỗi thèm muốn bùng phát vào cái buổi tối hôm ấy, khi trời trở lạnh, đã vào thu.
Thế là Stan Parker đi bộ về nhà cùng với con vịt anh đã bắt lại được và cảm thấy cái lạnh bắt đầu luồn qua lần mồ hôi bên dưới quần áo cùng một cảm giác khó chịu ở một bên vai làm việc quá sức. Một chút thành quả này cũng chẳng bù lại được một lần sa ngã. Vì vậy anh buồn phiền. Anh thiết tha suy nghĩ về vợ mình, người mà anh yêu quý, về ổ bánh mì ỉu chị đã nướng khi hai người bắt đầu chung sống trong túp lều nhỏ bé ấy. Anh nghĩ đến Doll Quigley và sự trong sáng của nàng, điều anh thừa nhận song rõ ràng không thể chuyển thành thực trạng của riêng mình. Cứ thế anh đi qua những bụi chút chít, những đám cây cẩm quỳ. Mang đôi ủng vốn đã nặng, do bị ẩm và đất bám lại càng nặng thêm, anh nghĩ đến những cụm từ ngữ mình vẫn quen chồng chất lại thành dạng một lời cầu nguyện nào đó mà thông thường anh vẫn dựa vào để mong chí ít mọi sự sẽ được an toàn. Tuy nhiên, trong bóng tối nhập nhoạng của niềm say mê đã nguội lạnh, cơ hội đã giảm bớt.
Khi vào trong nhà, anh tới chỗ để hộp đồ khâu vá của vợ và lấy ra một cái kéo mà cắt mạnh vào lớp lông bóng láng nhưng thô ở một cánh con vịt.
- Thế là xong, - chị vừa nói vừa bình thản ngước nhìn qua cặp kính chị thích đeo khi làm những việc tỉ mỉ.
Anh chỉ lầm bầm và bước ra ngoài trời tối để ném con vịt vào bãi thả.
Amy Parker tiếp tục mạng chiếc bít tất bằng kỹ năng tinh xảo của mình. Đó là nhiệm vụ chị đã đặt cho mình tối hôm đó, khi thấy chồng đi về phía Glastonbury, để bắt con vịt, anh đã vừa nhìn vào mắt chị vừa thận trọng bảo thế. Nhớ lại lần bản thân mình có nhiệm vụ phải sang Glastonbury, vào buổi tối với những con vịt trước đó, chị băn khoăn không hiểu anh sẽ tìm được cái gì. Song Stan thì khác, anh không nhiễm tính do dự và khinh suất; anh căng rào, bào gỗ và ra lệnh cho mọi người làm việc. Vì thế Amy Parker mạng một miếng vuông vắn, gọn gàng trên cái bít tất dày của người đàn ông. Vì thế Stan Parker sẽ mau tìm thấy con vịt, ngay cả ở cái bụi cây thấp mà gần đây chị đã tận mắt nhìn cho thỏa trí tò mò về những điều người ta đã nói về ngôi nhà đổ nát kia. Vì thế chị cứ luôn tay kim tay kéo. Chị có cái khéo léo và chính xác riêng của mình, công việc tiến hành thuận lợi. Giờ đây chị thuộc loại phụ nữ dễ mến, chín chắn mà người ta muốn nhìn vào làn da tươi mát của chị và hỏi xem chị làm gì khi mứt không đông hoặc khi đàn gà bắt đầu ỉa cứt cò.
Rồi Stan Parker bước vào, chị đã tự nhủ là anh sẽ về sớm, và cắt lông cánh con vịt.
Chị bình phẩm, chẳng phải vì nó đóng góp được điều gì mà bởi họ là vợ chồng, và những lời nói không đáng chú ý ấy đan kết họ với nhau chặt chẽ mật thiết hơn, và những sợi tơ lời tương tự hàng ngày cũng đan kết, hòa hợp hai người. Hay phải chăng chúng đang chắp vá?
Amy Parker cắt đoạn chỉ cuối cùng chị sẽ dùng buổi tối hôm ấy. Chị không định làm việc nhiều vào dịp đó hoặc đi sâu vào bất cứ chuyện gì. Song nếu có thể đặt chiếc bít tất xuống, cầm cây đèn bão bước ra ngoài sân tối đen soi sát mặt chồng để mà nhìn thì chị đã làm rồi. Chị chỉ muốn thật vững dạ.
Bây giờ sẽ khác, họ bảo thế, khi Stan trở về vào thời bình, sẽ khác, họ bảo thế, nghĩa là mọi việc vẫn như trước. Chỉ có điều là không có chuyện gì cứ như cũ mãi. Chị không thể cứ nhìn vào mặt anh liên tục để tự hỏi có chuyện gì. Chị thường tạ sự để quan sát anh, chẳng hạn bảo anh thay một cái vòng đệm hay nhấc giúp một vật nặng, thậm chí chị còn tìm cớ để sờ vào chỗ da sần nào đó của anh hoặc chỗ có một gợn bẩn trên người anh. Khi ấy chị thường cười lên một tý để xin lỗi, còn anh đôi khi cau mày. Song việc ấy chẳng lần ra đầu mối dòng suy nghĩ của anh, chẳng biết anh có đang suy nghĩ vì chị không, hay chị đã rớt lại phía sau, trong cái mạng lưới những hồi kịch họ cần thiết cùng nhau biểu diễn và lời lẽ tuôn ra.
Vì vậy người đàn bà bắt đầu băn khoăn liệu cuộc sống chung của hai người có dễ chịu quá không, hay liệu anh đã thuộc lòng tất cả những ý nghĩ và quan điểm chị quen thể hiện chưa, cố nhiên có những thứ chị giữ kín, điều đó cũng rất tự nhiên thôi. Và vài thứ mà chị cảm thấy như một nỗi day dứt hoặc thậm chí hãi hùng.
- Anh Stan, - một lần chị nói, - hôm nào chúng mình phải cho các con đi picnic hoặc đi chơi gì đó.
- Được thôi, - anh nói, nếu em muốn.
Bởi vì anh là một người chồng thuần tính.
- Em đã nghĩ thế, - chị nói. - Nó sẽ tạo ra một sự thay đổi trong cuộc sống nhà mình. Mà điều đó quan trọng, phải không anh? Em muốn lại được nhìn thấy biển.
- Được thôi, - anh nói. - Bất kỳ khi nào em thích thì đi.
Sự đồng ý hoàn toàn của anh gần như khiến chị thất vọng. Chị thường nghĩ về chuyện đó, và giờ đây lại nói, như thể ý kiến kia là của anh, và vì làm như vậy, khát vọng được thấy biển cả của chị vẫn chỉ có tính chất lý thuyết. Đứng giữa những cây thông, chị thấy sợ hãi và hầu như bị những đợt sóng cuồn cuộn như thủy tinh cuốn xuống. Sẽ thật là vui, chị nói như thể tất cả những luồng nước kia là thắng cảnh trong lớp kính lục.
Cứ thế ngày nọ nối tiếp ngày kia qua đi, còn ý nghĩ về cuộc picnic của chị thì trở thành một điều hão huyền ngớ ngẩn, rồi đến nguyên nhân của một sự bực bội, do chị không đủ ý chí để đạt được điều đó hoặc để đạt được bất kỳ cái gì đáng kể. Sự bực bội nảy sinh.
Sau khi chiến tranh kết thúc không lâu Stan Parker mua một chiếc xe hơi, và họ cảm thấy mình đã ăn nên làm ra lắm. Stan tập lái chiếc xe của mình, nếu không được thoải mái thì cũng rất hãnh diện, anh cứ ngồi đó ngay đuồn đuỗn, cổ và hai cánh tay cứng đờ, như thể bị bắt vít thật chặt ở những mối khớp trọng yếu. Đó là một chiếc xe Ford, khá ọp ẹp nhưng vẫn còn dùng được; loại xe Ford có thể chạy đủ loại việc vặt, điều đó chẳng đáng ngạc nhiên. Khi vợ chồng Parker rong xe ra ngoài, Amy Parker đội mũ trang trọng hơn thường lệ, thoa ít phấn lên mặt và xách cái sắc đựng đồ trang sức cùng các thứ lặt vặt. Vài người hàng xóm đứng ở hiên nhà, nhìn và mỉm cười, những người khác giận dữ quay mặt đi làm như không nhìn thấy. Song vợ chồng Parker vẫn rong xe đi, như chỉ có con đường quyến rũ họ.
Tuy vậy, đôi khi Stan thường lấy xe phóng nhanh ra ngoài trước khi vợ anh kịp hỏi anh đi đâu. Anh có thể cảm thấy chị chạy ra ngoài ngôi nhà, vận cái tạp dề sạch sẽ mà đứng nhìn cái xe cho đến khi nó khuất dạng. Song anh không ngoái cổ lại vẫy tay hoặc nói to để giải thích, bởi anh cũng chưa biết mình đi đâu. Anh lái xe dọc những con đường nhánh đầy cát, trên đó thân xe hầu như muốn xé tan thành từng mảnh, dọc con đường, ngoài cái thực tế là nó có tồn tại, dường như chẳng còn lý do gì khiến con người phải đi. Mé rừng ấy quá ẩm ướt hoặc quá thuần khiết, chẳng gợi lên được những triển vọng phát đạt hoặc khả năng bị tàn phá. Những que củi màu đen chĩa lên từ mặt cát, trên đó những cây bụi cứng quèo có lá hình kim sẫm màu vật lộn với những cây to hơn bị tróc vỏ như những tờ giấy trắng. Cũng có những tổ kiến nữa, những vòm tròn đỏ ủ rũ của chúng thật là trầm mặc.
Stan Parker thường đỗ lại ở những vùng đó. Anh thường quấn một điếu thuốc. Anh thích ở nơi ấy. Anh thường ngồi, hai tay đặt trên bánh lái nằm yên, cho tới khi da tay khô cứng tan rã trong ánh sáng của cát và lá úa, để cơ thể anh không còn ngạc nhiên trước cái cô tịch bí ẩn mà chính anh là một phần bên trong. Nếu vợ anh vẫn còn đứng, anh hình dung, bên ngôi nhà trong chiếc tạp dề sạch sẽ, với vẻ mặt thất vọng, lo âu, thì lúc này cũng chẳng giúp ích gì cho chị vì anh đã không thể làm được gì nhiều để đáp lại nỗi thương cảm của chị bằng sự đảm bảo lý trí hoặc thậm chí bằng những động tác dối trá của cơ thể.
Vì vậy lúc này anh tạm quên chị đi, bởi biết rằng anh sẽ trở về với chị, để chia sẻ cuộc sống quen thuộc của họ. Chẳng có khả năng nào nào khác cả, cho dù tâm hồn anh có mạo hiểm vượt ra ngoài những giới hạn an toàn trong những cuộc hành trình khám phá liều lĩnh, mù quáng, ra ngoài phạm vi ngờ vực và tôn thờ.
Cuối cùng, anh duỗi mình trên cái ghế cọt kẹt của chiếc xe cà tàng, cho tới khi xương khớp kêu răng rắc, mong mỏi được bộc lộ bản thân bằng một động tác nghiêm chỉnh nào đó, định hình cho sự nhận biết của mình hoặc diễn đạt những điều hết sức mộc mạc bằng lời lẽ dung dị, rõ ràng để người ta hiểu. Song cố nhiên anh không thể.
Có những người bảo rằng Stan Parker đã trở nên hơi kỳ cục vì cuộc chiến tranh, nhưng anh đã trải qua rồi, và anh lại là một người chồng, người cha. Giờ đây những người này bắt đầu lảng tránh anh. Từ trước đến giờ anh chưa bao giờ hay nói, trừ về những vấn đề thực tiễn, minh bạch. Lời chỉ bảo của anh thật tuyệt. Song họ muốn thà mất công khó nhọc ở nơi khác còn hơn để đôi mắt anh phát hiện bất kỳ