Chương 16 .
Cuối cùng Stan Parker quyết định cho thằng con trai đến học việc tại nhà lão Jarman làm yên ngựa tại Bangalay, anh bảo để xem thế nào, tuy anh cũng không thật chắc có kết quả, biện pháp đó chẳng qua là để đối phó một cách không thỏa đáng với nỗi bối rối của bản thân. Mẹ của Stan có một người anh họ làm yên ngựa, một người tử tế. Thuộc da là nghề tử tế. Nên nghề làm đồ da cũng vậy.
- Chà, sao lại thế hả bố? - Thằng con trai phẫn nộ, cổ họng nó phản đối dữ dội. - Ai lại thích cái nghề làm yên ngựa cổ lỗ sĩ nào? Con chẳng thích.
- Con thích cái gì? - Người bố hỏi.
- Không phải cái nghề ấy, - thằng con trai nói, bởi nó không biết làm thế nào để trả lời cụ thể hơn.
Nó ngoảnh mặt đi chỗ khác, không thích trơ trọi một mình với bố nó. Giờ đây nó đã là một thanh niên cường tráng, đôi lúc cũng đẹp trai, nước da đỏ ửng khiến mặt nó hơi có vẻ thiếu thận trọng. Nhiều người vẫn thường tha thứ cho những hành động còn đáng ghét hơn của Ray Parker chỉ vì nước da sáng sủa đó. Cái mái tóc tuyệt vời của nó mà người mẹ những muốn vuốt ve thì màu nâu sẫm. Vẻ khỏe mạnh của thân thể không để lộ ra bất kỳ dấu hiệu tật bệnh nào. Chỉ những kẻ loạn thần kinh mới có thể có chút nghi ngại nào về khóe miệng nó hoặc thấy ánh lên từ đôi mắt khá bạo dạn của nó hình phản chiếu về những cảnh tối tăm khổ cực của chính mình.
- Dù sao con hãy cứ thử một thời gian, - người bố nói. - Ở bất kỳ thị trấn lớn bé nào cũng có chỗ cho đôi, ba người thợ làm yên ngựa đấy.
Thằng con trai lặng thinh.
Chẳng bao lâu nó đã có mặt ở nhà lão Jarman, vận chiếc tạp dề vải trúc bâu, quét những mảnh da vụn qua làn ánh nắng quá ư nặng nề lúc nào cũng trải ra trên mặt sàn cửa hiệu, cùng với một đàn mèo và một con chó sục già đã bị bỏ rơi. Ray còn đang học nghề. Vào những lúc hàng họ ế ẩm, ông Jarman bắt nó ngồi vào một chiếc ghế đẩu bên cạnh mình, cắt những mẫu hình đơn giản và học cách khâu bằng chỉ có vuốt sáp. Những buổi chiều ấy thật nặng nề trong cửa hiệu, đầy mùi sáp ong và da mới. Ray Parker không nghĩ rằng nó có thể chịu đựng hết thảy cái đơn điệu mà nó đã thấy trong đời, và nó thường hay vào phòng tắm để trốn khỏi cái cảnh đơn điệu lặng lẽ kia. Khi đó, đóng khung giữa những tấm ván sơn trắng và những lá dây leo, cái đơn điệu ấy nhất định tăng lên, song tới một mức độ trở thành riêng tư, và vì lý do ấy nó lại sinh sôi. Khi nghe tiếng thời gian trôi qua, thằng con trai vuốt cái bụng phẳng của nó và tự nhìn lại bản thân mình. Nó tin rằng nó sẽ có thể đạt được bất kỳ mục tiêu nào nếu như có cơ hội, nhưng liệu có hay không?
Đôi khi nó nghĩ đến bố mẹ và không tin rằng cơ hội ấy sẽ đến.
Người bố thường hay đến cửa hiệu. Chẳng ai bảo anh đến thăm con trai, mà đúng hơn là đến chuyện trò với những người thợ khác. Những người này hết thảy đều có hai bàn tay như đóng vảy. Dù sao thì những bàn tay ấy lúc này cũng chậm chạp, lũ ruồi bậu yên trên đó. Họ bắt đầu kể chuyện và bị mắc vào cái mớ bòng bong những chuyện kể của mình, rồi khi đã tạo ra những đầu mối rối rắm đến mức không thể tháo gỡ nổi thì họ thường quay lại điểm xuất phát, tràn trề hy vọng sẽ tìm ra điều họ nói lúc đầu. Song, nếu việc ấy không kết quả thì cũng chẳng ai bận tâm. Chẳng qua họ chỉ cùng nhau tán tụng ánh mặt trời và lịch sử địa phương mình.
Dường như ít ai trong số những người đang quan sát đôi tay người thợ làm yên nhận ra cậu học việc của lão Jarman là con trai của Parker, hoặc nếu nhận ra thì họ cũng không để lộ. Do hơi xấu hổ, người bố không đề cập đến con trai. Như vậy chẳng khác nào anh dám nghĩ cái mũi thẳng kia đã bị tách ra khỏi da thịt anh như thế nào. Một lần, anh quả có nói với thằng con trai trước mặt những người khác, nhưng anh vừa nói vừa nhìn về phía trước, trong lúc rời cửa hiệu.
Anh nói:
- Con Bella đẻ sinh đôi hai bê cái, Ray ạ.
Nói xong, anh đã ra khỏi cửa hiệu. Thằng con trai thẹn đỏ mặt, vẻ tức giận. Nó lấy làm mừng vì bố đã đi rồi.
Dạo này họa hoằn Ray mới về nhà, chỉ đôi khi vào ngày Chủ nhật. Nó cảm thấy ngôi nhà hơi xiêu vẹo, và mặc dù đã sống thời niên thiếu ở đó, nó vẫn thấy xa lạ. Nó ngó chỗ này chỗ nọ và cảm thấy không khí lành lạnh bên tai. Bầy gia cầm trong sân có vẻ như tránh đường cho nó vội vã hơn. Mẹ nó gọi nó đến để làm những việc lặt vặt mà chị bày ra, để nó có mặt ở đó, để sai bảo nó, để nhìn vào mắt nó, để xem xét những lỗ chân lông trên da mặt nó, để mở tung cái ký ức kín mít của nó bằng những động tác câm lặng mà con người vẫn làm. Thời gian này chị cư xử với con trai bằng một thái độ thân thiện sôi nổi, không chịu thừa nhận là nó đã lẩn tránh chị, song đồng thời thái độ đó cũng khá quyết liệt, cố thiết lập một mối quan hệ dứt khoát mà những người khác có thể tin cậy. Nó cảm thấy được nỗi thất vọng của chị khi nó ngồi trong bếp, chẳng giúp đỡ được chị việc gì vì nó cứ chằm chằm nhìn một vật nào đó, một bánh xà phòng vàng trên một cái đĩa tách hoặc một bó hoa nhỏ mới hái được cắm vội vã trong một cái bình.
Nó vốn rất ghét cái làng Bangalay, cảnh ngộ này còn tệ hại hơn, và chẳng bao lâu nữa nó sẽ bỏ trốn, vận quần dài cuốc bộ lên đường cái để đứng tại một góc đường với các thanh niên khác, hoặc tại chỗ biển chỉ đường chờ cho thời gian trôi đi hay một cái gì đến.
Người ta đã thuê cho nó một căn phòng ở Bangalay tại nhà một bà già tên là Northcott, chồng bà, hiện đã chết, trước kia là một viên chức đường sắt. Đó là một ngôi nhà nhỏ tươm tất, trát dày thứ sơn nâu. Bên cạnh nhà có một bụi cây cơm cháy và mùi nước bồn. Ở phía bên ấy, nhìn sang bức tường trống của ngôi nhà kế tiếp, có in vài vệt sáng do lá cây cơm cháy chuyển động, là căn phòng của Ray Parker. Căn phòng rất kín đáo, khá thích hợp với nó, bởi thời gian này nó nhút nhát, và nếu như có cửa sổ cũng chẳng chịu ló mặt ra. Thực tế, bức tường trống như một màn ảnh, trên đó cuộc sống ước mơ của nó được thể hiện, đồng thời cũng che giấu những hành động lộ liễu của nó. Đôi khi nó thường tựa mình vào cửa sổ, vừa hút một điếu thuốc lá long lỏng tự quấn lấy, vừa tự hỏi với bức tường tuy trống rỗng nhưng chừng mực nào đó lại đáp ứng nhiệt tình kia, xem liệu một cô gái nào đó, tốt nhất là thuộc một giai cấp cao hơn nó, lại có thể không có cái chất tươi mát, cái tính thẳng thắn và sự từng trải mà nó khát khao nhưng cũng e sợ hay không. Nó thường đứng đó, bị hút chặt vào bề mặt bức tường lỗ chỗ, mắt lim dim ngước nhìn làn khói thuốc bay lên, hít thở tham lam và xấu xí qua khóe môi, như nó đã thấy dân hút thuốc.
Cuộc sống tại nhà bà Northcott mang sắc nâu chủ đạo. Đặc trưng của các loại đồ gỗ, bức tường kia cùng gương mặt của má Northcott, từ trước đến giờ bà bao giờ cũng là một trong những phụ nữ có nước da bánh mật. Song thằng con trai quả có một lần bừng tỉnh khỏi một giấc mơ rất đẹp và êm đềm mà nó cố nhớ lại, nhưng thoạt đầu chỉ có thể cảm thấy. Ít nhất nó cũng tin rằng trước đó nó đang ngồi bên một cái bàn, một cái bàn bình dị bằng gỗ bạch đàn. Có những khuôn mặt hướng về nó, tuy nó không thể phân biệt nổi là mặt ai. Và có một cái mặt đồng hồ, nó đành chấp nhận thế, như tất cả các đồ vật khác. Tỉnh dậy, nó cứ nằm mà nhìn cái bồn rửa mặt rắn chắc cùng những món đồ sứ đồng bộ, băn khoăn không hiểu liệu có nên loại bỏ cái vẻ mộc mạc vừa đẹp vừa hiển nhiên của giấc mơ không.
Cuối cùng nó phát cáu, nhỏm dậy, vùng ra khỏi những tấm chăn cứ níu nó lại, xua đuổi cái cảnh mộng tốt đẹp mà nó vừa thưởng thức kia đi. Vừa mặc quần áo vào nó vừa lên án bố mẹ vì những phẩm cách của họ mà nó đã thoáng thấy. Cuối cùng nó phải đập lại bố mẹ nó, thế là nó điên tiết lên với họ khi nó vừa chải mớ tóc cứng quèo của mình vừa nhớ lại mẹ nó nhìn ra ngoài cửa sổ để tìm một giải pháp cho một vấn đề nào đó, còn bố nó thì vật lộn với đám từ ngữ, như thể họ vướng phải mớ bòng bong. Nó ném cái bàn chải xuống. Nó còn quá trẻ chưa thể hiểu nổi những thiếu sót của bố mẹ. Không một chuyện nào nó có thể tha thứ được.
Nó bước xuống một căn bếp màu nâu, tối tăm bên ngoài, hay phòng điểm tâm, tại đó má Northcott đã dọn bữa sáng cho nó, một lát sườn cừu nâu sẫm và một chút rau đã được hâm lại.
- Ồ, chào mẹ, - nó vừa nói vừa khẽ vung chân vung tay để khẳng định sự tự chủ, - Mẹ ngủ có ngon không?
- Không, con ạ, - bà nói, - mẹ lại bị chứng sỏi thận. Đau cả đêm, mẹ kém ngủ lắm. Mẹ trở dậy hơ nóng vài cái đĩa để chườm vào bên sườn.
- Cái mẹ cần là một bình nước nóng, - nó nói.
Song bà không trả lời câu đó, bà muốn suy nghĩ một lát về điều đó.
Má Northcott bị chứng sỏi thận. Bà rất hay thở dài. Bà là một phụ nữ khá cô độc, đã già và tiều tụy. Để dè xẻn những khoản tiền tiết kiệm của chồng, một viên chức giờ đây đã mất, bà nhận giặt thuê ít quần áo và còn cho thuê trọ nữa. Song hai bàn tay bị viêm khớp của bà chẳng để cho bà làm lụng nhiều.
Bà đã bắt đầu mến cậu con trai này, mà nó cũng để cho bà mến, bởi những sự gắn bó cảm tính dễ duy trì hơn những mối quan hệ đòi hỏi tình thương yêu. Mẹ đẻ của nó, nếu được phép, có thể đã nhai nó ngấu nghiến, còn cái bà già này hẳn bị cái chứng sỏi thận và cái bệnh nhức xương chi phối trong những năm tháng cuối đời.
- Mẹ cần giữ gìn sức khỏe, - nó nói, - không được làm việc quá nhiều và phải nằm nghỉ sau bữa tối.
Chẳng ai nghe nó khuyên, nhưng có nói cũng chẳng mất gì. Nó ngồi xỉa răng sau khi ăn thịt và bắt đầu tin rằng chính mình đã quan tâm đến sức khỏe của má Northcott. Tính nhẫn nại của nó hơi dịu đi. Nó cảm thấy nỗi luyến tiếc quá khứ râm ran trên mình vì những gì xưa kia nó đã định hủy hoại. Có những lúc, nó quả đã suýt khóc vì đã hủy hoại cha mẹ mình trong tâm trí. Nếu lúc này nó giàu có thì nó đã đi mua cho họ đồ dùng, quần áo. Bởi không giàu, nó vỗ lòng bàn tay vào lưng bà già và nở nụ cười trìu mến mới đang trong giai đoạn thể nghiệm.
Má Northcott thở dài và càu nhàu. Bà thích thú cái vỗ về của cậu thanh niên ấy, kẻ lẽ ra có thể là con trai bà mà lại không phải.
- Nằm nghỉ thoải mái thật đấy, - bà lầm bầm qua mái tóc rối bù trên cái khuôn mặt chẳng có gì đặc biệt, - nhưng lại có bụi, bụi lúc nào cũng cứ tích tụ lại, cả những ngùi bông nữa. Mẹ chẳng biết những ngùi bông ấy ở đâu ra trong nhà.
Nó chẳng quan tâm điều tra nguồn gốc của hiện tượng này. Thực ra, nó chẳng quan tâm lắm đến những vấn đề của người khác, và thật may là chưa có ai đẩy việc cho nó. Ấy thế mà sáng hôm đó nó lại tỏ ra hào phóng và băn khoăn không biết mình có thể làm được gì, rồi nó vớ lấy cái khăn mà bà già dùng để lau khô bát đĩa ném xuống nước.
Nó băn khoăn không hiểu có thể làm gì thêm để quảng cáo cái đức hào phóng mà đôi lúc nó từng có trên lý thuyết. Rồi nó sực nhớ tới tờ bạc nó đã thấy trong một tập sách dạy nấu ăn trong ngăn kéo của má Northcott, kẹp giữa những trang sách và hiển nhiên đã bị lãng quên. Lúc đó, khi bà già còn phải để giải quyết thêm cái chứng táo bón của mình ở nhà xí phía sau, Ray Parker lục và thấy tờ bạc vẫn còn đó. Tờ bạc khá lạnh lùng và không giống tiền, như tất cả những thứ tiền đã lâu bị tách khỏi liên hệ với cơ thể người. Thế là nó cầm lấy tờ bạc và bỏ vào túi, tại đó hơi ấm sẽ làm tờ giấy bạc hồi phục, và trở thành của Ray.
Tối hôm ấy Ray Parker mang về nhà một chiếc bình chườm nước nóng, bọc vải flanen hồng mà nó mua tặng má Northcott.
- Của mẹ đây, - nó nói. - Áp nó vào chỗ đau sỏi thận là dễ chịu lắm. Nhưng mẹ đổ nước vơi vơi thôi.
Má Northcortt, đang ngồi với bà Pendlebury, một người bạn mới sang chơi, cảm động đến nỗi cái mặt da bánh mật, nhăn nheo của má bắt đầu gật gù một cách ngớ ngẩn.
Cố nhiên bà Pendlebury bảo rằng đó là việc làm của một đứa con.
Sau đó, Ray Parker về phòng mình để vui hưởng một chút cái hành động giản đơn kia của mình, việc làm đó thực chẳng đáng quở trách mà đem lại niềm vui. Việc nó giữ lại số tiền và sau đó thắng bộ cánh bảnh nhất mà đi xem phim cũng chỉ khấu đi một chút vào cái đức hào phóng ban đầu của nó. Dù sao thì đức hạnh cũng giống như một núi băng trôi, những phần còn lại chìm dưới nước.
Thế là, vẫn giữ vẻ cao đạo, nó ra khỏi nhà, trên đường phố đã lên đèn, ánh sáng rực rỡ để ngụy trang cho sự thiếu sức sống. Nó đứng quanh quẩn một lát, mồm ngậm kẹo, rồi nhập bọn với những người khác ở rạp phim. Bộ phim giải thoát cho họ. Vó ngựa khua trên bề mặt nỗi buồn tẻ, còn những đệm ghế da láng như những đôi môi hút tụt họ xuống. Ray Parker lựa nhiều tư thế ngồi thoải mái trong chiếc ghế có thể điều chỉnh của mình, thế mà khi ra khỏi rạp, nỗi cô đơn lại xuất hiện và cả niềm khao khát được biến nhân dạng mình thành một vật thể hữu hình nào đó.
Tối muộn hôm đó, dưới gốc mấy cây tiêu, đằng sau một chuồng ngựa cho thuê, nó sờ vào cái áo của một cô gái lần đầu tiên, cô đi guốc cao gót, xông lên mùi như gái điếm, mà quả là thế thật, cô ta thở hổn hển và run lẩy bẩy, nhưng lại sẵn lòng đến chỗ tối để thực hiện hầu hết mọi chuyện. Khi việc đó xong rồi, cô ta chạy vụt đi, vừa chạy vừa kêu la mất mát của mình. Đến nỗi nó cũng run sợ. Trong khoảnh khắc nó rúm người lại thành một đứa trẻ và bỏ đi, bước qua đám phân ngựa mềm.
Khi nó vào nhà, thay quần áo, nửa cao hứng nửa sợ hãi thì bà già đang ngủ chập chờn cất tiếng gọi:
- Ray đấy hả?
- Thưa mẹ, vâng ạ, - nó nói và hơi dương dương tự đắc về bản thân mình trong gian phòng lớn, trước cái giá tre để treo mũ, trên đó còn mắc một cái mũ của ông viên chức đã quá cố.
- Con phải ngoan, - bà nói, - bỏ cái nồi ra ngoài mà lấy sữa.
Giọng bà lắng dần vào nỗi khuây khỏa và giấc ngủ. Sự có mặt của Ray khiến bà càng tin vào hảo tâm của nó.
Nhưng sau đó, trong phòng mình, khi đã treo cái nồi vào một cái đinh và nghe nó yên vị, leng keng trong ánh sao, Ray cảm thấy không hài lòng với gương mặt trẻ trung của mình, gương mặt ấy hầu như không biểu lộ hành động vừa qua của nó thật rõ ràng mà lại trở nên mờ nhạt và yếu ớt.
Nó ngồi xuống mép giường và bắt đầu bực dọc dùng con dao băm băm vào chân chiếc bàn con bên giường, băn khoăn không hiểu liệu có bao giờ nó có thể rũ sạch được cái mảnh đời đã ăn sâu vào ký ức kia, với ánh nắng lọt qua kẽ liếp, với những cây mộc qua mục ruỗng trong đám cỏ mọc cao, vươn vai dậy trong thùng trấu, mắt nảy đom đóm vàng vì hai nắm tay dụi cho tỉnh ngủ. Vào những khoảnh khắc ấy hình như những điều tốt đẹp nhất đã xảy ra và nó không thể rúc trong váy mẹ. Nó đã sa vào tội lỗi chất chồng.
Để che giấu một phần những cái đó, nó xoay nhanh chiếc bàn nhỏ bên giường để cho cái chân bàn phía ngoài bị băm kia quay vào tường. Rồi nó lên giường. Thường thường nó ngủ ngay lập tức, cả ngôi nhà đều chấp thuận nó. Song đêm nay có cái mùi phân ngựa tươi cứ dai dẳng và lũ ngựa gõ móng hí vang, vươn những cái cổ dài bóng láng của chúng lên mà đình công.
Ngày Chủ nhật đó Ray Parker muốn về nhà để nhìn thấy những gương mặt trong gia đình. Vì vậy nó đi chuyến xe buýt sớm. Nó bước dọc con đường từ trạm bưu điện ở Durilgai, nơi toàn bộ cảnh vật trải dài xuống tận trang trại nhà Parker, trong tâm trạng hân hoan và đầy hy vọng, tới ngôi nhà khá bình dị nhưng chân thực kia.
Em gái nó đang chải tóc bên cửa sổ, nhìn lên và lộ rõ vẻ không tin vào sự tồn tại của Ray.
- Anh dành cho em một điều bất ngờ, - gã nói, để khỏi tỏ ra nản chí.
- Em mong đó là một điều thú vị, - cô em vừa nói vừa thả mái tóc vàng hoe từ cái lược xuống, mái tóc bồng bềnh và chẳng mấy chốc tan trong ánh mặt trời.
Thelma Parker giờ đây già dặn hơn, cô có thể cất giấu đời tư thầm kín của mình vào những nơi kín đáo được bảo vệ, vì lý do đó cuộc viếng thăm của thằng anh khiến cô bực mình hơn là bối rối. Dạo này cô đeo nhẫn, quá nhỏ để biết là hàng rẻ tiền, cô hay tắm rửa, thoa phấn lên da, là lượt những chiếc áo cánh đẹp nhất cho tới khi cái trang nhã và sạch sẽ ấy trở thành ngột ngạt, thậm chí xấc xược. Song mắt cô cứ nhìn xuống, vì vậy không thấy được chút tác động của cô lên người khác, mà cô cũng đâu có cần biết. Cô quá lạnh lùng, ngoại trừ đối với những chuyện thầm kín của chính mình, khi ấy cô mới sôi nổi. Bố mẹ Thelma đã quyết định đầu học kỳ tới, cô sẽ phải học tại một trường nữ Cao đẳng Thương mại trong thành phố. Họ bị ấn tượng bởi cô, hơn là quý mến. Tình cờ đang làm việc gì, họ cứ tiếp tục công việc, nhưng vẫn để mắt đến Thelma, cái tính lãnh đạm và sự trong trắng của cô khiến họ khiếp đảm.
- Anh Ray về đấy ạ, - Thelma nói, khi cầm cái khăn len đi qua gian nhà bếp.
Cô không dùng đến hơn một cánh hoa để biểu lộ sự kinh tởm của mình. Vẻ thanh nhã như đóa hoa trà của cô không thuộc loại nở rộ tươi thắm mà nhỏ, gọn, trắng xanh và không phải để cho người ta hái.
Cả gia đình hơi kinh hoàng chỉ lo có chuyện gì không thể lường trước xảy ra ngày hôm ấy. Bà mẹ đã bỏ công việc buổi sáng Chủ nhật và đang lê đôi dép nỉ đi tha thẩn. Ông bố đang đọc tờ báo ngày thứ Bảy nhưng chẳng mấy chốc ông sẽ đi hàn cái can mà ông đã dành để làm vào Chủ nhật, ông thích nhìn chất kim loại lấp lánh chảy phía dưới que hàn.
Rồi họ nói:
- Chà, thằng Ray đã về.
Cố nhiên họ yêu quý thằng con trai, chỉ có điều là họ bị bất ngờ. Bà mẹ thậm chí thấy cổ họng tắc nghẹn vì tình yêu thương đối với con, sức mạnh của cơn bột phát tình cảm khiến bà bị ngợp. Bà quyết định lần này bà sẽ thể hiện tình cảm với nó.
Ông bố hắng giọng và giở tờ báo loạt xoạt, cố nhìn hết cột này sang cột khác, hy vọng trong khoảnh khắc tìm được vài lời về bí quyết cuộc đời mà ông đã để quá lâu không nói với con mình.
Song lúc này gã thanh niên đang ghếch chân qua ngưỡng cửa sổ mà nhảy vào, qua đám cành chi chít của một cây hồng bạch mà bố mẹ đã trồng trước kia và thực tế cái cây đã chiếm hữu ngôi nhà. Nó đang cố gỡ mình ra làm những cánh hoa mỏng như giấy rụng rào rào. Một cái tổ chim cũ nát rơi xuống. Rồi Ray xuất hiện, mặt đỏ bừng nhưng có vẻ bình tĩnh.
- Đấy không phải cách vào phòng đâu Ray ạ, - ông bố nói.
- Nhưng như thế lại nhanh nhất, - thằng con trai phân trần.
Nếu cần thiết, do cứng đầu cứng cổ, nó có thể tự biện hộ bằng toán học.
- Nếu cả nhà mình vào kiểu ấy thì hay ho gớm, - cô em gái trẻ trung, trong trắng của Ray nói, trước đó cô đã hối hả chạy vào buồng tắm và đang mài những chiếc móng tay sạch sẽ của mình.
Còn bà mẹ vừa nhặt cái tổ chim từ sàn nhà lên, thôi không cau mày nữa và nói:
- Dù sao thì con cũng đã về.
Bà muốn tỏ rõ rằng bà là mẹ nó, biểu lộ tình yêu bằng sự khoan dung. Bà chỉ cốt nó đáp lại tình yêu thương đó và đối xử tử tế với mình.
Thế mà nó lại băn khoăn không hiểu liệu bà sẽ thuyết phục gì mình.
Suốt ngày hôm đó nó giữ thế thủ, tuy rằng vào buổi sáng, khi nó đi dọc đường cái theo chiều gió, mọi việc đã sáng tỏ; cái ánh ban mai kia khiến người ta dễ lầm lẫn. Khi ấy cảnh vật đã bắt đầu đổi thay. Lòng dạ nó không đổi thay đến thế. Nó thực sự đã muốn về thăm gia đình và muốn cảm thấy bản thân mình là một phần trong đó. Song ánh chiều ảm đạm hơn đã bao trùm, cây cối tối sầm dần và màu úa tàn của đồng cỏ. Về chiều trời nổi gió, những cơn gió mạnh cuốn vu vơ dăm dúm cỏ khô làm thành một xoáy lốc giữa những bầy gà mái táo tác trong cái sân sau ẩm ướt.
Nó lang thang một lát ngoài đồng. Những cây kế đã mọc lên kể từ khi nó có mặt ở đó lần cuối, có những chỗ nó phải bước cẩn thận. Song dù vậy nó thấy bàn tay mình vẫn va phải một cây kế, một điều không thể tránh khỏi trong lúc nó đang để ý xem liệu chuyện gì sẽ xảy ra trong khoảnh khắc tiếp theo. Nó chấp nhận cái đau dữ dội và đáng buồn ấy như một điều mà cuối cùng da thịt mình phải chịu đựng.
Về đến nhà, nó thấy rằng cô em gái mới sớm hôm nào đứng bên cửa sổ vừa chải đầu vừa mơ màng, vẻ xinh xắn và làn tóc vàng tưởng như chẳng bao giờ phôi pha, giờ đây đã trở nên gầy guộc và xấu xí. Cô vẫn ngồi bên khung cửa sổ ấy, đang xếp sắp mấy món của riêng, toàn đồ con gái, và ghim giấy vòng quanh tay áo của mình như cô thấy bà trưởng phòng bưu điện làm. Cái này không phải dành cho mình, gã con trai cảm thấy thế. Riêng những cánh tay áo bằng giấy ấy đã nói cho nó biết. Thế là Ray tiếp tục bước lóng ngóng quanh nhà, còn Thelma thì cau mày và không nhìn nó.
- Này, Ray, - người mẹ nói, vì bất chợt bắt gặp nó nên bà sững sờ, bởi bà chưa hoàn toàn sẵn sàng, - hôm nọ mẹ tìm thấy quyển sổ nhỏ này. Vợ một cha xứ đã cho mẹ cách đây mấy năm, có lẽ thế. Mẹ chẳng viết vào đó vì mẹ viết không thạo. Con có bao giờ viết nhật ký không? Một số người viết đấy. Mẹ nghĩ có thể con cũng muốn thử. Rồi đến cuối năm con có thể gửi cho mẹ và mẹ sẽ đọc được những điều con đã làm.
Thật là một ý nghĩ ngớ ngẩn và không thật hợp lý. Trong giây phút cao hứng bà đã nghĩ ra điều đó để bắt đầu câu chuyện. Giờ đây, khi hai mẹ con đứng đó, bên mấy nhành kim ngân bất động, bà thấy hối hận. Thằng con trai nom như thể sắp phát ốm.
- Xì, - gã nói. - Con không muốn viết nhật ký, con sẽ viết cái gì nào? Viết về bữa sáng nhé!
Nó tiếp tục đi men quanh nhà còn bà thì nhẫn nại theo sau.
- Mẹ mới chỉ nghĩ thế thôi, - bà nói.
Càng cư xử ngớ ngẩn bà càng tuyệt vọng không gỡ mình được khỏi tình thế ấy. Và bà thấy rằng hầu như mình chỉ có thể đối xử ngớ ngẩn với con cái. Bà nhớ hồi còn trẻ, bà đã làm thế nào để thấu hiểu tâm tư và nhận ra những khát vọng của chúng hoặc chúng giãi bày với bà chẳng che đậy.
- Con có hạnh phúc không Ray? - Bà hỏi khi hai mẹ con đã vào bếp, bởi có vẻ như họ chẳng có nơi nào khác mà đi, và thực không có cách nào thoát khỏi nhau được, trừ vào lúc cuối cùng khi gã con trai thật sự lỉnh đi, điều mà bà e rằng là bản tính của nó.
- Con có hạnh phúc không? - Bà hỏi.
Nó còn quá trẻ người non dạ nên không nhận ra rằng đó là cách bà nói cho gã biết là bà không hạnh phúc.
- Mẹ định nói gì vậy, hạnh phúc à? - Nó lờ phờ hỏi.
Nó không thích cái kiểu giáo lý vấn đáp ấy. Nó gần như là vô nghĩa. Nó giống như mở cửa ra và thấy sàn nhà không còn nữa.
- Mẹ những muốn nghĩ rằng, - bà nói, - con đang sống rất tốt. Như vậy là tất nhiên thôi, vì con là con trai mẹ. Mẹ đã rất hạnh phúc.
Bà quả đã bộc bạch tâm sự đầy thuyết phục.
- Con chỉ muốn được bỏ mặc một mình, - nó nói.
Những thân cây đen sẫm luôn thay đổi và được gió chải thành những lọn tóc dài. Có lẽ chẳng mấy chốc trời sẽ mưa.
- Nhưng Ray này, - bà nói, vừa tựa mình vào cái bàn.
Thelma bước vào, tiện tay khép lại cánh cửa sau lưng. Cô có thể đủ sức làm như thế. Trước đó cô đã đọc những điều tức cười mình viết trong một cuốn sổ khi còn nhỏ tuổi. Giờ đây cô thấy kích động bởi cái ưu việt hiện tại của mình so với tất cả những gì là trẻ con và nực cười kia.
- Mẹ và anh không định uống chút trà à? - Cô hỏi to.
Cô nhìn gương xem mình nói và hài lòng với hình ảnh đã thấy, dù sao thì cũng trong khoảnh khắc ấy.
- Có chứ, - bà mẹ nói, như thể bà đang băn khoăn vì sao lại không nghĩ đến giải pháp này. - Mẹ con mình sẽ làm vài cái bánh nướng nhé?
- Mẹ con mình? - Thelma hỏi, nó nhăn trán lại, trông vừa xinh vừa tức cười. - Bánh nướng của con bao giờ cũng cứng như đất ấy.
Trong lúc bà mẹ nhào bột thì cô làm những thứ dễ chấp nhận hơn, đặc biệt là cái bánh được cô đích thân phủ một lớp đường màu hồng và trang trí một bông hoa trắng cầu kỳ, dễ chảy.
- Anh có nghe về trường Cao đẳng không hả anh Ray? - Cô vừa hỏi vừa bắt đầu bày biện những bát đĩa sành trang trọng hơn mà gia đình thường dùng vào những ngày Chủ nhật.
- Không, - Ray mệt nhọc trả lời. - Ồ, tao đã nghe được điều gì đó.
Nó bèn đổi từ chủ đề này sang chủ đề khác, nhà má Northcott, sớm muộn gì nó cũng phải chuyển đi. Ban đêm các đường phố vang lên bao tiếng bước chân tuyệt vọng ra đi.
- Học kỳ tới, - cô em nói, - em sẽ trọ ở thị trấn Randwick, tại nhà ông bà Bourke. Bà Bourke là họ hàng của bố. Hai người từng cãi cọ nhau chuyện gì đó, nhưng đã dàn xếp rồi.
- Không phải cãi cọ đâu, - bà mẹ nói. - Người ta cứ hay lập lờ, mặc ta phỏng đoán nguyên nhân, mà chuyện ấy bao giờ chẳng lắm.
- Dù sao thì, - Thelma nói, - em cũng sẽ ra thành phố. Em hơi sợ, Ray ạ. Em sẽ kiếm một cái vé tháng và hàng ngày đi tàu điện từ thị trấn Randwick. Bà Gage cũng quen biết nhiều người, họ sẽ mời em đến chơi. Họ buôn bán tạp phẩm. Họ giàu lắm. Bà Gage đang giúp làm một bộ váy. Nó màu be, chiết to, chân váy thì xếp ly. Có những chiếc khuy nhỏ màu đỏ, mỗi cánh tay áo ba chiếc và một hàng dài ở sau lưng.
Khi củi được đưa vào lò, Thelma rực rỡ hẳn lên. Xét cho cùng, Thelma xinh đẹp hoặc sôi nổi khi vươn cao cái cổ, dĩ nhiên là cái cổ ấy rất thon mảnh, vào lúc cô ngồi nhặt gọn những mẩu bánh vụn bằng mấy ngón tay đoan chính.
Bà mẹ vừa lắng nghe tất cả những điều xa xôi ấy vừa thoải mái ăn chiếc bánh nướng của mình và những muốn cảm thấy yên tâm. Có lẽ bọn trẻ khôn lớn rồi chăng?
Ray nhìn ra ngoài cửa sổ. Nó đang vật lộn với một ý thức về sự bất công và cái bánh tắc trong cổ họng. Trận mưa hiểm ác bắt đầu quất những roi dài vào bụi lý gai, loài cây chẳng bao giờ tươi tốt ở miền này, mặc dù người ta cứ thử mãi.
- Thế mày sẽ làm gì, - Ray hỏi, vẫn chưa quyết định dùng hình thức sỉ vả hay tự vệ nào - khi mặc cái váy màu be của mày?
- Ồ, - cô em nói, mặt đỏ bừng. - Em sẽ qua được những kỳ thi cần thiết, về đánh máy, tốc ký, và kiếm một việc làm với một người môi giới chứng khoán hoặc một viên cố vấn tư pháp, đại loại như vậy. Làm việc để tự nuôi mình mà. - Cô nhanh nhẹn vừa nói vừa rút ra chiếc khăn mùi soa, từ trước vẫn chưa dùng mà vẫn gập thật vuông vức cái nơi thắt lưng.
- Và lấy một thằng cha cục mịch, - Ray nói.
- Em không nghĩ đến mấy chuyện như vậy.
- Và dạo đàn dương cầm, - nó cười cợt, - khi hắn đem xiền về.
Tiếng cười trầm giọng kim mà tình cờ nó phát hiện được cách tạo ra khiến nó rung cả người và nó thích cái cảm giác ấy. Nó có cái cổ họng khỏe và đôi mí mắt hum húp. Gã ngồi nhìn ra cửa sổ, ngắm mớ bòng bong mưa xam xám đang cuốn đi qua những cánh đồng và những cây cối màu đen từ trước đến giờ nhờ có rễ mà đứng vững.
- Nó làm gì mà con rỉa rói thế? - Bà mẹ hỏi.
- Không có chuyện gì ạ, - nó nói, dịu giọng. - Chỉ có điều người ta đang chán ngán.
- Vì anh đang chán ngán, em phải chịu hậu quả, - cô gái trả lời.
Vì tủi thân, Thelma đã phải nói chẻ hoe bằng một vẻ nhã nhặn mới mẻ, đó có lẽ do bản năng, hoặc giả cô đã nghe và học được của một người xa lạ. Nước da cô trân trân vẻ ngay thẳng.
- Có lẽ tao nên viết nhật ký, phải không hả Thel? Và ghi trọn tất cả. Mày có muốn biết chuyện gì đã xảy ra với thằng Hy Lạp ấy không?
- Ồ, anh chàng Hy Lạp à? - Người mẹ hỏi, sực nhớ ra điều gì đó mà bà đã lãng quên.
- Con nhớ tới hắn, - gã con trai nói. - Là dân vùng Nam Âu, hắn không phải tay tồi.
Lúc này mưa bao phủ cây cối và ngôi nhà bằng những dải xám gấp nếp rủ xuống. Nếu ta không nghe thấy tiếng mưa rơi thì trận mưa có vẻ rất nặng hạt. Song âm thanh của mưa, gió và bếp lửa phùn phụt xua tan ảo ảnh của trận mưa nặng hạt, thậm chí của tất cả những thứ vững chãi.
Bà mẹ nhớ tới cái thời gian xảy ra những trận lụt, khi mà đồ đạc không thể bám trụ lại. Bà quên mất niềm vui của mình lúc đứng trên bờ sông, nước đục ngầu cuồn cuộn chảy dưới chân, và ông chồng chắc nịch trên chiếc thuyền con; có vẻ như bà quên vì chỉ nhớ láng máng hầu hết mọi sự việc và cuộc đời mình khi gã thanh niên Hy Lạp lực lưỡng bước vào thửa ruộng mà biến đám thân ngô héo thành khói.
- Đó là một thanh niên tốt, - bà vừa nói vừa nhìn vào đôi bàn tay to, vẫn còn nhạy cảm của mình, trên đó có chiếc nhẫn cưới màu vàng. - Một anh chàng tốt, - bà nói, như thể bằng cách nhắc lại như vậy không ai có thể buộc tội bà giấu giếm.
Chẳng ai làm thế, bởi bản thân mỗi người là một địa cầu hoặc một thế giới suy tư riêng.
Gã con trai bắt đầu thấy sợ tình trạng biệt lập ấy, rồi rốt cuộc sẽ nguội dần. Nó nóng lòng được vận động cho khỏi sợ, vì vậy nó đứng dậy và từ nhà bếp đi ra, chạy xuyên làn mưa, ngang qua cái lán, nơi vật nhau với anh chàng Hy Lạp, tới tận phòng thức ăn gia súc, tại đấy bố nó vẫn thường nhấc nó lên từ những thùng đựng rượu khi nó còn đương ngủ, lay cho nó tỉnh, như thể giấc ngủ là rơm là rạ, và bố nó là ánh ngày, thường đứng đó. Khi ấy hai bố con thường nói chuyện với nhau về những sở thích.
Giờ đây bố nó đang ở đấy, nó nhìn thấy thì đã quá muộn. Bố nó đang cúi xuống một cái xô, nguấy nguấy một món cám trộn gì đó. Trên tường là những chai, lọ đựng thuốc bóp, thuốc mỡ mà lũ chuột đôi khi làm đổ. Ông bố ngước nhìn lên. Ông cũng thấy ngay là nó bị mưa ướt.
Nó khoác trên vai một cái bao tải cũ vẫn mặc để đi mưa, hầu như chẳng che chở được mấy ngoại trừ một ý nghĩa tinh thần.
Lúc này ông ngẩng lên và vẩy chất cám trộn ướt dính tay vào cái xô.
- Mưa thế này là thuận đấy, - ông bố nói để thăm dò xem nó quan tâm đến chuyện gì nhất, do đó sẽ an toàn hơn. - Nếu không có mưa ba ngày thì chúng ta sẽ phải bỏ công ba tuần. Cái đập thì thấp. Mưa sẽ làm cho lúa miến trổ.
Đối với gã con trai, thời tiết giống như hoa quả, rau dưa chẳng quan trọng gì, thậm chí còn đáng ghét, song gã cũng miễn cưỡng cho rằng việc ông bố chọn chủ đề đó mà nói lúc này thật đáng mừng. Cả hai bố con đều lo rằng có thể cần phải giải thích về việc thằng con trai bỗng nhiên có mặt trong chuồng gia súc.
Gió tiếp tục thổi vào trận mưa xối xả trên mảnh ruộng xám. Trong gió mưa gào thét, một cái cây màu đen đổ xuống ở đằng xa, mà không nghe động.
Bởi chưng vạn vật đã bắt đầu chịu đựng sự tồn tại của chúng, dường như càng cần thiết đưa ra những lời giải thích hơn bao giờ hết. Các tâm hồn đoàn kết lại khi đương đầu với bạo lực, dù chỉ là trên cơ sở chung của tính bạc nhược.
Gã con trai ép mặt vào một ô kính cửa sổ đầy mạng nhện để ánh sáng long lanh như ngọc trai chầm chậm lọt vào bên trong cái chuồng tăm tối.
- Có lẽ có những trận lụt gia đình ta đã trải qua, những trận lụt mà bố mẹ vẫn nói đến. Con thích được nhìn thấy chúng, - nó nói, giọng trở nên ồm ồm trên mặt kính, - và những đồ vật trôi lềnh bềnh, những ngôi nhà bị cuốn trôi. Con muốn nhìn thấy một cái cây bị bật tung rễ. Hoặc bị sét đánh. Người ta bảo là có thể ngửi thấy mùi một cái cây bị sét đánh, nó như mùi thuốc súng ý.
Ông bố ngừng tay, lòng đau nhói, bởi bình thường ra ông đã có thể lẩn tránh vào công việc riêng của mình, trong chất cám nóng và ẩm.
- Thấy thì con được lợi gì? - Ông hỏi.
- Có thể một điều gì đó sẽ xảy ra. - gã con trai nói.
Trước khi xây ngôi nhà của mình, Stan Parker cũng đã khoái những cảnh hãi hùng. Sau đó những cảnh ấy đã khiến ông bối rối, khiến ông cảm thấy mình bị mắc lừa. Rồi khi đã thừa nhận sự bối rối của mình và đã sống thêm nhiều, sau đó lâu lắm, có lẽ chưa đến tận bây giờ, trong cái chuồng này cùng với thằng bé ngượng ngập và bất trị là con trai ông, thì những cảnh hãi hùng kia quả đã bắt đầu làm sáng tỏ phần đối lập với cái thiện và sự thanh bình trong nhiều mặt của Thượng đế.
Nếu có thể đến gần được con trai hơn và bảo cho nó điều đó thì lúc này có lẽ ông đã làm như vậy, song ông chậm chạp, vụng về hai tay dính cám.
Gã con trai nhìn quanh, ngờ rằng bố đang ở quá gần mình. Nó không muốn bị đụng chạm. Những hình thù tầm thường và quen thuộc của cái chuồng đang hiện ra lù lù xung quanh. Lẽ ra nó đã có thể đá ụp những bức tường xuống, cùng với bộ mặt của người đàn ông tầm thường là bố nó kia, người lẽ ra nó đã yêu quý, nếu như nỗi kinh tởm cho phép.
- Bố mẹ sẽ phải đưa con ra khỏi cái hố Bangalay kia, - người bố tìm cách nói, - có lẽ bố đã sai lầm khi đưa con đến đó.
- Con không cần, - gã con trai khàn khàn nói. - Con có thể thích nghi ở đó cũng như ở bất kỳ nơi nào.
Câu nói ấy thực hư ra sao còn phải xác minh.
Khi mưa đã ngớt, hoặc giả gió thổi nhiều hơn mưa rơi, và trước hết là tiếng mưa đã bớt phần đáng ngại, Ray Parker trốn khỏi cái nơi đã từng là nhà mình. Nó đi ngược con đường cái, đầu cúi xuống, hai tay thọc túi quần. Những xúc động suốt buổi chiều hôm đó còn mạnh mẽ cuồn cuộn trong lòng nó giờ đây đã lắng xuống, chí ít cũng là tạm thời, trở thành một cuộn dây thụ động.
Bố mẹ nó đinh ninh rằng một chuyện đại loại như thế tất nhiên sẽ xảy ra và lấy làm mừng vì chuyện ấy không khiến họ hoang mang hơn. Mãi họ mới hỏi thăm tin tức, trước hết là từ bà Northcott, rồi đến ông Jarman, thợ làm yên ngựa, về chỗ ở và ý định của con trai họ.
Rõ ràng Ray đã bỏ đi rồi.
Chẳng bao lâu nó viết thư về, một bức thư từ Brisbane, trong đó viết:
“Mẹ quý mến,
Con đã lên đây do tình thế thúc đẩy và nghĩ rằng con quyết như vậy là phải, dù việc chuyển đi ấy có tốt hay không, song con phải làm, như bố đã nói, chỉ có điều chính con là người phải tiến hành việc đó.
Con đang làm việc tại một tàu thủy trên bờ biển này. Con làm trong nhà bếp. Bác bếp là người Tàu nhưng sạch sẽ. Bác ấy cho con một mảnh vỏ trai, mặt có chạm trổ đôi chút, con sẽ giữ cho mẹ, đó là thứ mẹ sẽ thích.
Ồ, hãy vui lên, mẹ ạ. Chẳng có gì là mãi mãi cả, dù cuộc sống của con cũng tạm đầy đủ nơi bờ biển này. Về ban đêm, con tỉnh giấc thì thấy những cần cẩu bốc hàng hoặc những con ngựa người ta cưỡi đến dự cuộc đua. Nếu thích, con có thể tới vùng đất liền với một tôn ông đã ướm con làm một chân lao công tại một nhà ga, song con không nghĩ mình sẽ đi. Con sẽ cân nhắc xem thế nào. Con có thể đến bất kỳ nơi nào. Đêm qua con mơ thấy mình đang bơi ra những hòn đảo, biển nhờn như dầu và đầy lân tinh, mà con thì cứ bơi, bơi mãi không nghỉ, nước biển đầy ánh sáng, nhưng cho đến khi tỉnh dậy con vẫn chưa tới đảo…”
Khi được trao bức thư để đọc, ông bố nói:
- Cũng tự nhiên thôi, Amy ạ.
Ông đưa trả bức thư cho bà vợ giữ, vì họ không quen nhận thư từ, trừ những hóa đơn và những tờ quảng cáo hàng. Ông nhớ lại thời thanh xuân của chính mình, những quần áo xuềnh xoàng vận trên người đã khiến ông quên đi tình trạng trần như nhộng của mình. Bất kỳ bước đường nào ông đã đi hầu như không do ông quyết định. Nhưng câu trả lời đó đâu phải vợ ông lúc ấy muốn nghe.
Bà thấy ông thật đáng thất vọng, vẫn luôn như thế vào những giờ phút gay go.
Bà nói:
- Ông nói hay thật. Ông có bao giờ mang nặng đẻ đau đâu. - Giọng bà xúc động vì tính bất công của nó và bởi bà bị bất ngờ.
Bởi Ray đã ra đi, tuột khỏi tay bà dễ dàng và tự nhiên như cái hạt tách khỏi vỏ, để mà mất hút trong cỏ rậm. Nếu như vào giây phút nhận ra điều đó lòng bà quặn đau và suốt nhiều ngày sau đó những cơn đau nhẹ hơn thường tái diễn thì có lẽ phần nhiều do tính hợm mình của bà, dù bà quả có nhớ cái thằng bé đầu tóc bờm xờm, mặc quần soóc, cái đứa trẻ sơ sinh bình thản bú chùn chụt bầu vú của mình. Vì vậy đôi lúc bà khóc, chủ yếu vào lúc hoàng hôn, khi đứng bên cửa sổ, khi vạn vật đã trở nên mong manh và bản thân bà đang tan ra, bị hút về phía trước, năm tháng cứ tuôn chảy về phía sau bà như những tà áo, hoặc mái tóc trong gió. Lúc đó thật hãi hùng. Khuôn mặt bà đã mất đi lớp bột phủ đau buồn riêng tư như lớp bột phủ và trở thành một cái xương sọ ủ ê, hoặc một bộ mặt trơ xương.
Mình đã quan tâm quá nhiều đến thằng Ray mà chưa quan tâm đầy đủ đến con Thelma. - Bà Amy Parker nói bừng tỉnh. - Suy cho cùng con gái đáng tin cậy hơn con trai, con gái cần phải như vậy.
Khi Thelma rời nhà đi Sydney, đến trường nữ Cao đẳng Thương mại, bà mẹ đã sắp xếp va li cho nó. Bà đặt vào đó một cái túi thơm mà bà đã làm dành cho dịp này và vài gói chocolate phòng khi con gái cảm thấy đói bụng vào ban đêm; con bé sẽ ăn với lòng biết ơn, vừa ăn vừa giở sột soạt tờ giấy bạc và nghĩ đến mẹ.
Đêm cuối cùng Amy Parker vào phòng con gái, hôn lên mái tóc dài, sáng màu, ôm lấy con và nói:
- Ai có thể nghĩ, Thel ơi, con lại đơn độc một mình ở thành phố, nhưng con đừng lo.
- Con sẽ ổn thôi, mẹ ạ. - Cô gái điềm tĩnh nói, nó bị bất ngờ và nóng lòng muốn gỡ mình ra. - Vả lại còn có bà Bourke. Bố bảo bà ấy là người tốt, dù rằng hồi đó có sự hiểu lầm về vài chuyện gì đó.
- Ờ nhỉ, còn có bà Bourke, - Amy Parker nói. - Song cũng sẽ không như ở nhà đâu.
Qua lần áo ngủ bà cảm nhận thân hình mảnh mai được giấu kín của con gái và tự hỏi đã bao giờ cô thuộc về bà chưa. Nỗi băn khoăn truyền sang cơ thể cô con gái, cô ho rũ rượi suốt đêm và phải đốt một ít thuốc bột mà cô vẫn giữ để phòng những lúc trở bệnh. Khi trời rạng sáng cô trở dậy, dò dẫm qua làn khói cay xè của thuốc bột. Ban mai như con dao thép cắt sâu vào cô gái hâm hấp sốt. Lúc chuẩn bị tắm rửa, cởi hết quần áo ra để được mổ xẻ, cô run rẩy và rúm người lại. Nhưng cô vui sướng. Toàn bộ nỗi đau đớn khó chịu ấy là cần thiết để cuối cùng cô có được hình dáng đẹp, hoàn hảo.
Thelma đáp tàu ở Bangalay, mình vận bộ đồ màu xám và đầu đội mũ trang nhã. Cô không bao giờ tỏ ra bối rối ở chỗ đông người. Bố mẹ đã đưa cô ra thị trấn bằng chiếc xe Ford, lúc này đang đứng bên cửa sổ toa tàu, băn khoăn về mọi chuyện. Người bố không day dứt vì tình hình đang vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông. Tuy nhiên, suốt một thời gian dài, người mẹ vẫn tỏ vẻ đầy uy quyền và khuyên bảo, cho tới khi bà cúi đầu dưới cái vành mũ rộng, sẫm màu của mình. Thế ra bọn trẻ quả đã lớn khôn, bà buộc phải thừa nhận. Bà lấy làm biết ơn, thậm chí tủi nhục khi nhận cái hôn cuối cùng trên môi và băn khoăn không hiểu cái hôn đó có biểu thị tình thương hay không, bà những muốn tin là như thế.
Cô con gái ngắm nhìn chiếc khăn tay vẫy lần cuối cùng mà cảm thấy xót xa cho tuổi niên thiếu đang rời xa của mình, cảm giác ấy càng thấm thía hơn bởi những miền đất tẻ nhạt đang vùn vụt chạy qua. Cuối cùng cô an ổn lại, mong thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên khuôn mặt những người khác. Việc cố tìm ra điều bí ẩn trong những bóng gương như vậy thật là một cảm giác mới mẻ và khoan khoái.
Thế là Thelma Parker đến thành phố, vào học trường nữ Cao đẳng Thương mại và trở nên có năng lực. Cô lãnh đạm như cái chuông trên máy chữ kêu leng keng khi đánh hết dòng. Cô thường vừa đẩy hất trục máy trở lại, không chút tức giận, nhưng khinh khỉnh, vừa nhìn vào những vật thể lờ mờ ở phía cuối căn phòng. Bản đánh máy của cô bao giờ cũng sạch không một hạt bụi. Quả thật, cô rất sạch sẽ. Những chiếc móng tay dài, hơi hình trái xoan của cô hồng hồng, còn người cô ngát mùi nước hoa oải hương mà cô đã cất trong một ngăn bàn và vẫn kín đáo rảy lên hai bàn tay sạch sẽ của mình. Trên cổ tay trắng mảnh mai của cô đeo một chiếc đồng hồ vàng nhỏ, rẻ tiền nhưng thanh nhã. Da Thelma rất trắng, gần như ốm yếu, và luôn sẵn sàng phản ứng lại những gì trần tục ở người khác, đến nỗi khi con bạn Genevieve Johnstone của cô nói đùa một câu gì đó, mặt cô đã ửng hồng, khó mà biết được do khoái trá hay xấu hổ.
Genevieve Johnstone, con bé mà Thelma Parker gặp lần đầu tiên ở chính cái trường Thương mại này, sống ở Bondi, trong khi đó Thelma lại sống với gia đình nhà Bourke tại Randwick. Đôi khi hai cô cùng đi chơi với nhau bằng tàu điện vì phương tiện ấy rẻ tiền mà lại giết thì giờ. Đối với Thelma những cuộc rong chơi ấy rất quan trọng vì chúng làm nổi bật quyền tự do của cô. Con tàu lắc lư leng ca leng keng. Những đêm ấy người ta cười ầm ĩ. Hai cô nữ sinh cùng ngồi với nhau, bạn bè đấy, nhưng không mến nhau lắm, hai đứa cảm thấy mái tóc mình nhớp nháp trong không khí mằn mặn. Hai đứa đu đưa và phá lên cười vì sự chuyển động của bản thân mình, vì những cái đầu gối xương xẩu của đám đàn ông ngồi đối diện hoặc đang đi ngang qua ép vào đầu gối chúng. Genevieve Johnstone thích nhìn bọn đàn ông. Nó là một cô gái đen đúa, nhem nhuốc, ngực nở. Nó khát khao được dâng hiến cho một người đàn ông nào đó, trong khi đó Thelma ngoảnh nhìn chỗ khác, hai bàn tay ôm cái xắc bỗng nóng ran lên. Chẳng rõ Thelma có khát khao không hay là cô đánh giá mình quá cao hoặc sợ sệt.
Về sau, chính những khác biệt về tính khí này đã khiến tình bạn giữa Thelma và Genevieve phai nhạt, Thelma đâm sợ phải cùng đi với con bạn đen đúa, nhem nhuốc, ngực to và hay cười cợt kia, cái con bé mà bọn đàn ông cứ liếc hoài mái tóc ướt mằn mặn và hai cái vú lắc lư trên tàu điện của nó. Đêm tối quá quyền lực khi cô đi cùng bạn. Thế là Thelma đoạn tuyệt với bạn vì những lý do không thật xác đáng. Cô vẫn tiếp tục rong chơi một mình trên tàu điện, để có không khí, nhưng không nhìn mọi người mà nhìn vào trời đêm rực sáng. Như thế cô vẫn có thể hưởng cái tự do của mình. Cô yêu thành phố, cô bảo thế, và biến vẻ rực rỡ của thành phố thành một chất thơ riêng của mình. Chất nhựa đường và chất thép của thành phố chẳng phải là mốc đánh dấu sự tiến bộ của bản thân cô đó sao? Vì vậy cô cứ rong chơi bằng tàu điện vào ban đêm, từ trên toa của mình nhìn xuyên vào những ô cửa sổ của dân chúng, để ý thấy họ đang ngồi ăn, đang cãi cọ, đang nới quần áo cho dễ chịu, đang xỉa răng, cho dù chưa vạch những kế hoạch rõ ràng cho chính cuộc đời mình thì cô vẫn khá vững tin là sẽ thành công trong bất kỳ việc gì mình lựa chọn, mà không gặp phải điều gì bất ngờ khiến phải lúng túng.
Niềm tin ấy thỉnh thoảng bị lung lay nếu khi đóng cửa cô nghe thấy tiếng cười. Đặc biệt là tiếng cười của bọn đàn ông. Vì lý do đó cô ghét bọn coi chuồng ngựa ở gia đình Bourke.
Horrie Bourke, chủ trọ của Thelma, đã lấy một người bà con của Stan Parker, là một người huấn luyện ngựa đua. Ông là một người chân thật và vì vậy đã không thành công như lẽ ra phải thế. Tuy vậy ông cũng thắng được vài trận kha khá và đã mua cho vợ những hạt kim cương và một tấm lông cáo có cái đầu đã bị cánh cửa xe tắc xi nghiến nát trong lễ Phục sinh, cách đó vài năm. Bản thân Horrie Bourke chẳng bao giờ ăn diện tuy ông lại tán thành chuyện đó đối với vợ mình, đối với những người giàu có, những khách quen của ông. Ông ưa đi dép lê. Ông vẫn thường mang cổ cồn nhưng không thắt ca-vát. Chỉ có mỗi một chiếc khuy đồng ghim trên cái cổ áo hơi vàng được hồ cứng của ông. Cứ như vậy ông đi khắp cái sân chuồng, chỉ dẫn mấy cậu thanh niên và một hoặc hai người đàn ông lớn tuổi hơn, sành sỏi và tự đắc về ngựa nghẽo, mặc dù vậy vẫn phục tùng Horrie, một con người tử tế.
Thelma Parker đã thấy cảnh này, khi nhìn từ cửa sổ phòng mình tại ngôi nhà gạch của gia đình nhà Bourke, vì phòng của cô khốn khổ lại ở phía có dãy chuồng ngựa. Nào mấy gã vận áo lót đang đu đưa những xô nước lóng lánh, nào mấy người đàn ông lớn tuổi khác có đôi chân vòng kiềng, nào những con ngựa vạm vỡ, óng mượt đang run rẩy.
Horrie Bourke bảo Thelma cứ tự nhiên như ở nhà. Hôm sau ông cho cô một hộp chocolate có cái nơ to bằng xa tanh hồng và bảo thỉnh thoảng cô có thể lấy cho ông một cái thật mềm. Ông thuộc loại người thích tỏ ra nhã nhặn với các cô gái như thể một lễ nghi trau chuốt. Ông thích nhìn những cô gái tóc cài nơ, cổ tay đeo vòng và thích pha những loại trò khiến các cô cười khúc khích, ăn chocolate lúc chiều chiều. Ông thuộc cái trường phái hầu như cho rằng phụ nữ là một giống loại khác, ý niệm đó quả hợp với một vài phụ nữ.
Thelma Parker chẳng bao lâu hiểu ra rằng Horrie Bourke đáng mến nhưng không đáng để tâm lắm. Cô dần dà chấp nhận cái nghi lễ nhã nhặn của ông và cười vang khi nghe những câu pha trò của ông mà không biểu hiện một sự giả trá nào.
- Bố thật tội nghiệp, - bà Bourke nói, bố quá tốt bụng.
Cứ như thể ông đang bị bệnh.
Bà Bourke trước đây mang họ Bott. Tên bà là Lily, một trong ba cô gái mà Stan Parker đã không cầu hôn, và vì lý do ấy bà đâm có thói quen nheo mắt nhìn Thelma, như để nhìn cho kỹ hơn một chút, với một vẻ rất đỗi khoan dung đầy giễu cợt. Song không thể bảo Lily Bourke không phải loại người tốt. Bà có phấn son đôi chút nhưng cũng chẳng đáng kể gì. Bà thích có vài ba người bạn đến chơi vào buổi tối và uống một ly gì đó, tốt nhất bia đen, khi bà sắp sửa hát những bài ca xưa cũ bên cây dương cầm thẳng đứng, sau khi đã tháo những chiếc nhẫn.
“Con có thích bà Bourke không? Con không nói điều đó,” mẹ Thelma viết trong thư.
“Bà Bourke cũng được, bà ấy rất tử tế,” Thelma viết cho mẹ như vậy.
Bà Bourke lấy phấn của mình thoa lên mặt Thelma và bảo cô phải gọi bà là dì Lily. Song Thelma quyết không mắc bẫy mà gọi bà bằng cái tên thánh. Cô nghĩ là mình sẽ không cần đến một sự ấm cúng lâu bền của gia đình Bourke, và đã cảm thấy một chút bất an trong lòng.
Vì vậy cô không hứa hẹn gì mà trở về buồng đánh móng tay.
Khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Thương mại Thelma Parker nhanh chóng kiếm được một chân đánh máy bậc thấp tại một công ty tàu biển. Đó không phải là công việc cô muốn nhưng vào thời điểm này thì cũng được. Chẳng bao lâu mọi người đều thấy hiển nhiên rằng cô có năng lực xuất sắc. Nhiều phần việc đặc biệt được giao cho cô, kết quả là cô bị những người không muốn làm việc đó căm ghét. Nhưng cô không nản lòng. Khoảng thời gian này Thelma cắt tóc ngắn, cái gáy cô chẳng ai có thể tóm được khi cô đi ngang qua các phòng làm việc giữa những dãy bàn giấy, tay mang một thếp giấy mới hoặc xà phòng, khăn mặt từ phòng tắm trở về.
Đôi khi cô quả cũng nghĩ đến gia đình, chẳng hạn lúc đang ăn cái bánh sandwich kẹp cá trích trong khoảng nửa giờ nghỉ ăn trưa. Nỗi khắc khoải nhớ quê ấy khiến cô buồn phiền nhưng không thể nào tránh được. Hình ảnh mẹ cô luôn hiện ra, bà thực sự xứng đáng với mọi tình cảm yêu kính, dù rằng ăn mặc xấu xí và làm hầu hết mọi việc đều vụng về, luôn đánh đổ xô, vại hoặc bị đứt tay khi thái bắp cải, mặt nghệt ra khi quên khuấy những ý định mà bà sợ rằng mình không nhớ ra nổi, mà mọi thứ lại đều phụ thuộc vào nó. Thelma Parker thường thấy nóng ran người vì niềm thương yêu đáng xấu hổ và đáng bực đối với mẹ. Bố là đàn ông, vì vậy không đáng kể bằng, trừ về mặt kinh tế. Bố hay lơ đãng, nét mặt ông biểu hiện điều ấy, lại bị thua trong cuộc đấu tranh tư tưởng kia, vì lý do đó, có thể bị xem thường. Hơn nữa, cô không hiểu bố có những nhu cầu gì. Cô coi khinh và e ngại những điều mình không hiểu. Rồi cô nhớ ra là cổ bố đầy những vết nhăn. Thế là Thelma bị kéo lại. Những vết nứt nẻ trên đôi bàn tay ông đang níu lấy áo cô. Thế là cô không thể trốn thoát, khỏi việc bị bố mẹ làm cho bẽ mặt cũng như khỏi sự thấp kém của họ, và cuối cùng, có lẽ, để đỡ tỏ ra quá nhẫn tâm.
Cô thường vun thành đống những mảnh vụn từ chiếc bánh sandwich vô vị của mình, thứ vẫn đáp ứng đủ nhu cầu của cô. Thelma thường làm một cái bồ đài nhỏ bằng giấy đựng những miếng vỏ bánh sandwich khốn khổ, vì cô không thích vỏ bánh.
Thelma chẳng nghĩ gì đến anh mình. Cô dẹp anh trai sang một bên, và tự thuyết phục mình rằng Ray đã không chọn được lúc xuất hiện.
Nhiều người tốt bụng thấy Thelma Parker cũng tử tế. Đó là vợ chồng nhà Gough, bạn bè, hoặc đúng hơn, người quen của bà trưởng trạm bưu điện ở Durilgai, những người này tuy buôn bán tạp phẩm nhưng khấm khá hơn, họ không còn mặc tạp dề ngồi sau quầy hàng, hoàn toàn không phải loại người như vậy. Vợ chồng nhà Gough sống tại một vùng ngoại ô khá hơn, tuy không phải là nơi tốt nhất, có vô khối đồ đạc bóng loáng, có cả một tủ phục vụ hút thuốc - uống rượu hỗn hợp mà ta có thể lục các ngăn moi ra một chai cocktail chuối. Sau khi rửa tay, Thelma sờ xem những chiếc khăn tắm của họ, chúng được thêu chữ Khách theo hình một vòng hoa păng xê, rất nghệ thuật. Vợ chồng nhà Gough mở những bữa tiệc tối, chẳng có gì trang trọng ngoài bánh mì mềm và những bộ y phục nửa dạ hội. Chẳng bao lâu Thelma biết mình phải làm gì. Cô được cái tài quan sát mọi phía, tài biểu lộ những cử chỉ đúng điệu, cứ như thể chân tay cô đến lúc ấy là bằng sáp, tài chơi đùa với con chữ như thể những lời lẽ ấy từ chính cổ họng cô bật ra chứ chẳng phải của một người nào khác. Cô làm tất cả những điều đó, phấn chấn vì biết bao khám phá khả năng và bất ngờ.
Vào một ngày Chủ nhật, tại trang trại nhà Bourke, có một người nuôi trâu bò để bán, đã đứng tuổi nhưng có thế lực, sau khi sờ thử chùm lông ở khuỷu trên móng con ngựa của mình và thảo luận về triển vọng sau này với người huấn luyện ngựa, đã ngợi khen vẻ ngoài của Thelma Parker, cố nhiên điều đó thật ngớ ngẩn. Song cô nhớ đôi ủng của ông ta bóng láng biết bao và bộ quần áo của ông, dù ăn vận cẩu thả đến đâu, vẫn thuộc loại hàng xa xỉ. Thelma nhớ tên ông ta là Letourneur, tuy cô không gặp lại nữa.
Trong lúc đánh móng tay bên cửa sổ nhà Bourke, Thelma phải nghĩ đến và quan sát bao nhiêu là chuyện, vì người ta cứ dắt ngựa qua lại hoặc những con ngựa cứ khua vó vào cánh cửa chỗ chúng vào buổi tối, thở phì phì đầy bụi. Vài cậu nhóc lượn lờ xung quanh lúc tối để nghịch ngợm hoặc chơi bài hoặc chơi xu sấp ngửa. Những thằng bé trong sân đứa nọ kẹp đầu đứa kia vào nách thực hành các hình thức tra tấn. Chúng cười bằng cái giọng đang vỡ và hút thuốc, chúng pha trò và phác những cử chỉ tục tĩu, hoặc thây kệ cô gái đứng bên cửa sổ, dù sao cô cũng đã bị lãng quên. Chẳng ai nói chuyện với cô, loại bà con kênh kiệu của Horrie Bourke, trừ khi cần thiết, và gọi là Quý cô. Chẳng bao giờ họ có thái độ sỗ sàng. Trừ cái việc nhún vai tặc lưỡi ở đằng xa, mà việc đó, dĩ nhiên, có thể là một biểu lộ của joie de vivre[2].
Tuy vậy vẫn có anh c