Chương 1 ASUKA-1.
Có khoảng năm phút nghỉ giữa giờ tính từ lúc kết thúc tiết sinh hoạt chung buổi sáng của giáo viên chủ nhiệm cho tới khi bắt đầu tiết một. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi lớp học trở nên xôn xao đó, Ayumi ngồi bàn trên quay hẳn người xuống rồi hỏi tôi.
“Asuka, cậu đã quyết định sau này sẽ học tiếp gì chưa?”
Ayumi là bạn đồng thời là hàng xóm của tôi từ thuở lọt lòng, và ngay cả bây giờ, khi chúng tôi đã lên lớp tám, cậu ấy vẫn là người bạn thân nhất trong lớp.
Chúng tôi khá bận bịu với mấy vụ như “tám” về những bộ truyện tranh cả hai cùng mê mẩn, cho nhau mượn các quyển tạp chí tuổi Teen. Gần đây, khi Ayumi thích một anh chàng, cả hai còn cùng nhau đi cổ vũ trận đấu bóng đá của cậu ta nữa.
Tay cầm bản điều tra nguyện vọng được phát trong giờ sinh hoạt chung sáng nay, Ayumi đầy bối rối nhìn sang tôi.
“Học tiếp à… Ờ…”
Tôi cũng đang bối rối lắm chứ.
Tôi cũng có mong muốn của mình, nhưng bản thân tôi hiểu rất rõ, chẳng có điều gì dễ dàng tới mức chỉ cần muốn là được. Hơn nữa, việc khó khăn nhất chính là thuyết phục được mẹ tôi. Thậm chí ngay lúc này tôi cũng chẳng biết rõ, liệu đây có phải điều tôi muốn làm tới mức cãi lời mẹ hay không.
“Giá như được tiếp tục chơi violin thì tốt quá…”
“Vậy cậu không theo nghiệp bố à?”
Bố tôi là bác sĩ. Từ khi còn nhỏ, cứ hễ nhắc tới việc bố tôi làm bác sĩ, mọi người xung quanh đều nhìn tôi với ánh mắt chắc mẩm rằng tôi sẽ nối nghiệp bố mình. Nhưng nghề bác sĩ đâu giống các bộ môn nghệ thuật truyền thống, đó chẳng phải nghề cha truyền con nối.
“Ừ, tớ không theo đâu. Tớ định kết hôn năm hai mươi tư tuổi mà. Sau đó tớ sẽ ở nhà làm nội trợ.”
“Khoan, chờ chút, cậu chỉ được chọn một thôi. Hoặc là nghệ sĩ violin, hoặc là bà nội trợ.”
“Không chọn có được không?”
Nghe tôi hỏi vậy, Ayumi tỏ ra ngỡ ngàng.
“Đời này làm gì có chuyện cậu có thể vừa làm nghệ sĩ violin vừa làm bà nội trợ chứ. Ngay như chị họ tớ đây này, chị ấy mới sinh con, vừa chăm em bé, vừa đi làm vất vả lắm đó.”
“Vậy à…”
Tôi vốn không nghĩ công việc của các bà nội trợ lại vất vả tới vậy và tôi cũng chưa hề xác định mình muốn có mối liên hệ đến mức nào với đàn violin trong tương lai.
Nói thật lòng, tôi chưa từng suy nghĩ kĩ càng về tương lai đến mức ấy.
“Nhưng chẳng phải mẹ cậu mong cậu sẽ trở thành bác sĩ hay sao, Asuka? Mẹ tớ từng nói như thế đấy. À, mà nhắc tới mẹ cậu…”
Nói đến đó, Ayumi phì cười.
“Hôm qua đúng là đại loạn nhỉ. Biết Asuka trốn tập một cái là bác ấy nổi giận đùng đùng.”
Chắc đang nhớ lại chuyện hôm qua, Ayumi vừa nói vừa cười sằng sặc.
Hôm qua, tan học một cái là tôi đến thẳng nhà Ayumi chơi, nên trì hoãn buổi tập violin hằng ngày. Ngay khi biết chuyện, mẹ tôi chẳng thèm làm những việc buồn tẻ kiểu như đến nhà Ayumi để đón tôi về, mà đứng nguyên trong nhà hướng mặt ra ngoài thét gọi tên tôi vang vọng cả khu phố.
Tiếng gọi giận dữ “ASUKA!” như cất lên từ địa ngục làm tôi sợ bủn rủn cả người, vội vội vàng vàng ba chân bốn cẳng chạy về nhà ngay lập tức.
“Mẹ muốn tớ thành bác sĩ nhưng cứ mỗi lần tớ trốn tập đàn là lại làm ầm ĩ cả lên… Người muốn thành nghệ sĩ violin là mẹ chứ có phải tớ đâu.”
“Mẹ cậu biết chơi đàn violin à?”
“Không biết, nhưng hồi mẹ tớ còn nhỏ, ở gần nhà có một chị chơi đàn violin rất giỏi và mẹ tớ cực kì ngưỡng mộ người đó. Hình như mẹ từng nói rằng muốn học đàn violin nhưng bị gia đình phản đối nên ước mơ không thành hiện thực.”
“Vậy à? Nghĩa là mẹ cậu vốn rất mê đàn violin nhỉ.”
“Ừ, vậy đấy. Nhưng mà, ờ thì… bây giờ tớ cũng muốn trở thành người làm việc gì đó liên quan đến đàn violin rồi. Tớ mà nói muốn trở thành giáo viên dạy đàn kiểu gì cũng bị phản đối ngay cho mà xem.”
Tôi học piano từ năm hai tuổi, năm ba tuổi bắt đầu học violin, đến giờ cũng được hơn mười năm. Hiện nay tôi đã có thể chơi được “Chaconne”* của Vitali* mà không cần nhìn bản nhạc, trình độ ở mức trên trung cấp. Trong số những đứa trẻ có định hướng chơi nhạc chuyên nghiệp, tiến bộ như tôi không phải nhanh chóng hay chậm chạp gì, chỉ ở mức trung bình thôi.
Chu thich: Tên đầy đủ là “Chaconne in G minor” hay “Bản Chaconne cung Sol thứ”, là tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Vitali dành cho đàn violin được sáng tác khoảng năm 1867.
Chu thich: Tên đầy đủ là Tomaso Antonio Vitali (1663-1745), là một nhạc sĩ kiêm nghệ sĩ violin của Ý vào thế kỉ 17-18.
Nếu thật sự đặt mục tiêu trở thành một nghệ sĩ chơi violin, tôi cần tập luyện nhiều hơn mới phải. Thực tế, trên cả nước Nhật, số lượng những cô cậu đồng trang lứa tập đàn với cường độ gấp mấy lần tôi nhiều không đếm xuể.
“Nhưng Asuka, cậu được gọi là thiên tài còn gì? Cái này cũng là tớ nghe mẹ tớ bảo vậy, có điều cậu từng được thầy giáo dạy violin giới thiệu đến học đàn ở Tokyo, đúng chứ?”
“Ừm… Tớ gọi là có năng khiếu so với những bạn không biết chơi đàn violin, nhưng có đầy người trình độ như tớ.”
Hồi tôi học lớp ba, thầy dạy đàn violin từng đề nghị “Khoảng một tháng một lần lên Tokyo tập đàn thì em thấy thế nào?”
Đối với đứa trẻ sống ở Tokushima vùng Shikoku như tôi, Tokyo như một thành phố trong mơ. Lúc đó tôi chỉ đơn thuần cảm thấy hạnh phúc vì được tới Tokyo. Tôi đến lớp mà thầy giới thiệu để học violin đúng một lần. Tôi vẫn còn nhớ mình đã trở về nhà với những giọt nước mắt vì bị áp đảo bởi những người bạn học cùng hôm đó có trình độ quá cao.
Tôi từng lấy làm tự tin vì được mọi người ở một thành phố bé nhỏ vùng Shikoku gọi là “thiên tài” nên khi đứng trước những thiên tài thật sự, tôi đã phải nhận một cú sốc nặng nề, cảm tưởng như đầu mình vừa bị đánh một đòn đau điếng. Đó là thời khắc tôi nhận ra mình chẳng phải thiên tài gì cho cam, mà chỉ khéo léo hơn bình thường một chút.
Tôi bỗng thấy xấu hổ khi từ trước tới nay vẫn tự phụ vì được khen là thiên tài và nếm trải cảm giác mình thật đáng thương. Vả lại, điều khiến tôi sợ hãi hơn cả là mẹ tôi biết được tôi không phải là một thiên tài.
Tháng sau đó, mẹ vẫn định dẫn tôi đi Tokyo, nhưng tôi làm ầm ĩ lên, nói rằng dù có chuyện gì cũng nhất quyết không đi và ở lì trong phòng. Dù mẹ hỏi lí do, tôi vẫn cương quyết không chịu nói. Có lẽ mẹ cũng cảm nhận được điều gì đó qua cách hành xử của tôi, vì thế không bắt ép tôi nữa.
Mọi chuyện tiếp diễn như vậy được mấy tháng, mẹ cuối cùng cũng bỏ cuộc, và từ đó về sau chúng tôi không còn nhắc lại chuyện lên Tokyo học đàn.
Tôi không hề ghét bỏ đàn violin, tôi chỉ không muốn đặt mục tiêu trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp mà đơn thuần mong rằng mình có thể tự do chơi violin thật vui thêm một thời gian nữa.
Vậy nên khi được hỏi về nguyện vọng trong tương lai, tôi chỉ có thể trả lời rằng mình muốn làm công việc nào đó có thể chơi đàn violin, chứ không phải là một nhạc công. Cũng từng có lúc tôi nghĩ có lẽ mình nên trở thành bác sĩ giống như những gì mẹ nói, biết đâu như vậy mới tốt.
“Giờ mà tô viết vào ‘Phiếu điều tra nguyện vọng’ là muốn vào khoa Âm Nhạc chắc mẹ sẽ nổi giận đùng đùng mất…”
Trước đây, khi tôi còn được gọi là thiên tài, hình như mẹ cũng ấp ủ nguyện vọng con gái trở thành một nghệ sĩ chơi nhạc. Nhưng kể từ thời điểm tôi quyết định không theo học lớp đàn của thầy giáo danh tiếng tại Tokyo, đồng nghĩa với việc tôi đã từ bỏ ước mong trở thành nhạc công chuyên nghiệp.
Dù vậy, lí do mẹ vẫn cho phép tôi tiếp tục học đàn là bởi mẹ không muốn tôi trở thành một con người lệch lạc chỉ biết đến học hành.
Nói đến mẹ tôi lúc này, dù vẫn còn hơn một năm nữa mới đến lúc tôi dự thi trung học phổ thông, nhưng mẹ đã bắt đầu thu thập hết mọi thông tin tuyển sinh của các trường trung học danh tiếng và những trường dạy thêm chất lượng cao, mẹ còn đưa tôi đi tham gia các buổi tham quan trường. Mẹ dường như hoàn toàn tin tưởng tương lai tôi sẽ theo học ngành Y, không mảy may nghi ngờ gì cả.
Đâu phải tôi hoàn toàn không có ý muốn trở thành bác sĩ, nhưng giữa lúc bản thân tôi còn chưa xác định rõ những cảm xúc của mình, nếu mẹ cứ chạy trước đón đầu và dồn mọi quyết định cho tôi, tôi sẽ cực kì khổ sở để tiếp nhận chúng.
Tôi biết nói ra tất cả những điều này chắc chắn sẽ khiến mẹ nổi giận nên tôi chọn cách giữ im lặng. Dù vậy, tôi vẫn nhận thấy rõ khoảng cách giữa tôi và mẹ về việc tôi muốn làm hay người tôi muốn trở thành.
“Dù gì thì cũng đừng chạy sang nhà tớ trốn nếu hai mẹ con cậu cãi nhau nhé. Cậu mà làm thế e là mẹ Asuka sẽ giận lây tớ mất.”
Là người hiểu rõ tình hình hai mẹ con tôi ngày ngày lục đục quanh chuyện tập đàn violin, Ayumi nói với vẻ chọc ghẹo kèm theo một nụ cười toe toét.
2.Ngày hôm đó cửa hàng bán nhạc cụ quen thân liên lạc với tôi báo tin có một cây violin tốt ở cửa hàng.
Dù người ta vẫn nói rằng với đàn violin phải cần có duyên gặp gỡ, khi mua cây đàn hiện nay hồi năm cuối tiểu học, nói thật tôi không được vừa lòng cho lắm.
Những chiếc đàn do người ở cửa hàng giới thiệu đều phát ra âm sắc tốt, nhưng nếu để đi thi thì âm thanh ấy vẫn có gì đó chưa đủ. Tôi thực không sao thích nổi thứ âm thanh dày đục và vô vị nghe như những chiếc đàn violin đồ chơi đang dần phổ biến gần đây.
Ngược lại, người mẹ không hiểu rõ lắm về đàn violin của tôi thì có vẻ ái ngại bảng giá lên đến triệu yên của nó hơn là âm sắc. Trong đám trẻ đạt thứ hạng cao ở cuộc thi đàn, không ít đứa sở hữu những chiếc đàn trên mười triệu yên và hình như chúng một mực tin rằng phải dùng những chiếc đàn đắt tiền thì mới có thể biểu diễn tốt.
Tôi đã mua chiếc đàn hiện tại với điều kiện, sẽ đổi sang cái khác khi cửa hàng nhập về được chiếc đàn tốt hơn.
Đúng là âm thanh của một chiếc đàn đắt tiền rất hay, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng, việc âm thanh tương xứng với giá trị đó hay không lại phụ thuộc vào tài nghệ của người biểu diễn.
Không phải vì đàn violin tốt lên mà tôi có thể chơi hay vượt bậc. Vậy nên, chẳng thể có chuyện tôi vừa đổi đàn một cái là vào được nhóm dẫn đầu trong các cuộc thi giống như mẹ tôi mường tượng. Tôi phấn khởi vui mừng chỉ vì sắp được gặp một cây đàn violin mới.
Với đứa trẻ sống nơi làng quê nhàm chán như tôi, cuộc gặp gỡ với một cây đàn mới đã là một tin tuyệt vời.
“Cháu nghe nói cửa hàng có nhập đàn violin cổ về ạ.”
Tôi vừa bước vào cửa hàng nhạc cụ, một người đàn ông xưng tên Kiyohara liền đi ra.
Tên cửa hàng là “Tiệm nhạc khí Kiyohara” nên có lẽ người này là chủ tiệm.
Lần cuối tôi tới cửa hàng là ba năm về trước, nên tôi đã quên hẳn gương mặt người nhân viên tiếp đón lúc bấy giờ. Nhưng theo tôi cảm nhận thì người đàn ông khoảng bốn nhăm này có vẻ ngoài vẫn còn trẻ trung, trông như một người anh đáng tin cậy.
“Chúng tôi đang đợi quý khách. Hai vị đây là Murakami Asuka và mẹ cháu phải không ạ? Xin mời vào bên trong.”
Bên trong cửa hàng không chỉ có violin mà còn bày rất nhiều đàn viola, cello, contrabass. Đây hẳn là một cửa hàng có tiếng mà bất cứ người chơi đàn dây nào ở Tokushima đều từng phải ghé qua ít nhất một lần. Vào sâu trong cửa hàng, chúng tôi thấy trên bộ bàn ghế tiếp khách được sắp xếp như phòng họp đã bày sẵn bốn chiếc đàn violin.
Đàn violin cổ không chỉ mang ý nghĩa đơn giản là những chiếc đàn cũ. Vì đàn cổ là những chiếc đàn được làm ra cách đây hàng trăm năm, từng qua tay rất nhiều người chơi đàn, nên âm thanh phát ra rất tuyệt. Trải qua thời gian dài, gỗ của thân đàn khô đi, khiến cho âm thanh cũng đằm hơn. Và đương nhiên, so với những chiếc đàn mới, đàn cổ chỉ còn lại rất ít nên giá trị của chúng lại càng lớn.
“Ôi…”
Khi tôi định vươn tay về phía một cây violin xếp trước mặt, mẹ liền đe tôi bằng giọng nghiêm khắc.
“Này, đừng có đụng vào vội!”
“Không được chạm vào ạ?”
Tôi biết chắc mẹ sẽ cấm đoán bèn quay đầu lại hỏi chú Kiyohara.
“Được chứ. Asuka, cháu cứ chơi thử chiếc nào cháu thích đi.”
“Tuyệt quá. Chơi gì bây giờ. ‘Twinkle Twinkle Little Star’* được không nhỉ.”
Chu thich: Một bài hát ru tiếng Anh nổi tiếng vào đầu thế kỉ 19.
Tôi nhấc chiếc violin gần mình nhất lên, kiểm tra xem dây đàn đã được chỉnh chưa.
‘“Twinkle Twinkle Little Star’ nghe trẻ con quá, sao con không chơi bản dạo này con đang luyện ấy?”
“Vậy con chơi ‘Chaconne’ nhé.”
Sau khi kéo đàn một hồi, tôi lại tiếp tục chơi bản nhạc đó với cây đàn tiếp theo.
Tôi cứ chơi liên tục hết ba cây đàn, trước khi cầm đến chiếc đàn cuối cùng thì chú Kiyohara lên tiếng hỏi.
“Cháu thấy thế nào?”
“Ừm… Chiếc đầu tiên âm thanh tròn trịa, cháu rất thích. Nhưng dây Rê hơi cứng và khó phát ra âm. Chiếc thứ hai không có âm nào khó chơi nhưng âm thanh không thanh thoát nên cháu không thích. Chiếc thứ ba thì hoàn toàn không được. Âm thanh đanh quá, lại khó kéo.”
“Thế á? Mẹ lại nghĩ chiếc thứ ba được đấy. Phần nối kim loại vàng trông đẹp đấy chứ.”
Có vẻ mẹ ưng nhất cây đàn violin thứ ba, cái mà tôi vừa mới nói dứt lời là không ổn. Tôi thấy hơi bực với ý kiến của người thích chạy theo mốt như mẹ.
“Mẹ, giá trị của đàn violin không nằm ở bề ngoài. Phần nối kim loại vàng nếu thích có thể thay được, còn âm thanh cây đàn phát ra thì không thay đổi được đâu.”
Có lẽ vì hiếm có cơ hội chơi thử và so sánh nhiều đàn cổ như vậy, tôi bỗng cảm thấy mình đang mang một sứ mệnh lớn lao là phải truyền đạt cặn kẽ tất cả vốn kinh nghiệm và trải nghiệm của bản thân.
“Quả nhiên là Asuka đã chơi violin mười năm liền nên có đôi tai nghe rất chuẩn. Nếu đã vậy, cháu thử chơi nốt chiếc đàn cuối cùng này xem.”
“Ôi, trông nó cũ quá.”
Khác với ba cây đàn kia, cây đàn cuối cùng có những vệt màu đậm nhạt khác nhau khắp thân đàn, ở đầu chốt chỉnh âm còn có những vết xước nhỏ.
À không, tuy tưởng là vết xước, nhưng khi nhìn kĩ hơn, tôi phát hiện ra đó là ba chữ cái “D. B. L.” được chạm khắc.
Tôi lật mặt sau đàn, màu sắc từ chỗ thân đàn phình to ở chính giữa đến miếng tựa vai đã chuyển hẳn sang màu vàng.
Nếu nhìn kĩ, những vết hình sọc ấy sẽ tạo cảm giác từng có một thứ giống như nước chảy mòn qua vị trí đó. Nó khiến người ta tưởng tượng ra cảnh người chủ trước đây vừa kéo đàn vừa rơi nước mắt.
“Đúng vậy, trông nó cũ kĩ quá.”
“Người ta cố tình tạo ra nó trông cũ kĩ như vậy đấy, chính vì vậy bề ngoài nó trông như đồ vật từ thế kỉ mười bảy. Chiếc đàn violin này là của Đức, thật ra nó ra đời từ những năm đầu thế kỉ hai mươi nên không cổ lắm đâu. Những vệt xước lốm đốm này và màu sắc không đồng đều được tạo ra có chủ đích, làm cho cây đàn nhìn cũ hơn thực tế. Giá trị của chiếc đàn nằm ở chỗ nó được tạo tác khéo léo đến mức nào mà.”
“Ôi, đến vậy cơ ạ?”
Mẹ tôi thốt lên và cũng chăm chú ngắm nghía chiếc đàn.
Cảm giác như đang cầm trên tay một thứ không rõ nguồn gốc khiến tôi thấy lo lo. Tôi bèn rụt rè kéo cùng lúc dây Mi và dây La.
“Ơ…”
Trong một thoáng tôi tưởng tai mình có vấn đề.
Một âm thanh lờ mờ, dịu dàng vang lên, gần như âm sắc của cây đàn quyện lặp lấy nhau. Âm thanh trong trẻo, nhưng sự hoà trộn hai bậc âm khiến tiếng đàn nhuốm màu buồn thương.
Thông thường, hiện tượng cộng hưởng nhiều bậc âm phần lớn xảy ra ở những cây đàn có trụ đàn không tốt hoặc lớp véc-ni bên ngoài đánh không đều, hay mặt đàn có vết nứt. Nhưng nghe âm thanh của chiếc đàn, tôi không thể cho rằng đây là một sản phẩm bị lỗi được.
“Sao thế?”
Mẹ ngạc nhiên hỏi khi thấy tôi đang nhòm lom lom vào khe chữ S trên thân đàn.
“Hình như có cái gì đó lạ lắm ạ…”
“Vậy sao? Mẹ lại thấy âm thanh hay đấy chứ. Asuka, con kéo thêm nữa xem nào.”
Bị mẹ giục, tôi lại bắt đầu chơi bản “Chaconne” giống như với ba cây đàn trước. Chỉ mới chơi một đoạn nhưng tôi ngay lập tức nhận ra thứ này khác biệt hoàn toàn so với bất cứ cây đàn violin nào tôi từng chơi từ trước tới nay.
“Cây đàn này tuyệt quá! Tuyệt vời! Âm thanh quá tuyệt vời.”
“Đúng là vậy. Dù thân đàn chưa đủ độ khô để có thể gọi là dễ chơi, nhưng nếu so với những chiếc đàn có tuổi thọ trăm năm ở Nhật thì cây đàn này đã được bảo quản ở vùng khí hậu khô nên có thể phát ra âm thanh rất dễ dàng.”
“À, vâng, cũng có thể là như vậy, nhưng cháu thấy còn có gì đó hơn thế…”
“Các âm thường cộng hưởng với nhau khiến cho âm thanh phát ra dễ hơn?”
“Chính xác ạ!”
Khi được chơi cây đàn đặc biệt này dù chỉ một lần thì trong mắt tôi, những chiếc đàn khác đều bị lu mờ. Tôi giờ đây hiểu hơn bao giờ hết câu nói “gặp gỡ đàn violin là do duyên số”.
“Mẹ ơi, con muốn cây đàn này.”
“Con nói muốn thì dễ lắm, nhưng cây đàn tốt thế này, chắc hẳn đắt lắm đây.”
“À vâng thật ra, tôi không có ý định bán chiếc đàn…”
Chú Kiyohara suy nghĩ một lúc rồi mới nói tiếp.
“Nếu cháu thật sự muốn chơi cây đàn, cửa hàng sẽ cho mượn. Mong chị với cháu hiểu cho, chúng tôi không muốn định giá cho cây đàn này.”
“Ôi, một vật quý giá đến vậy thì chúng tôi sao dám cầm chứ.”
Dù mẹ đã vội vàng từ chối, nhưng lòng tôi vẫn vương vấn cây đàn lạ kì này.
“Đã chơi chiếc đàn này rồi thì con không thể chơi cây đàn nào khác nữa.”
“Đừng đòi hỏi như thế. Con xem, chiếc đàn này tuyệt vời như đàn của nghệ sĩ chuyên nghiệp, cho một đứa lười tập như con mượn thì thật có lỗi với cây đàn.”
“Nhưng thưa chị… Tôi không dám đảm bảo sau này ta còn cơ hội gặp được chiếc đàn violin nào tuyệt vời hơn nữa đâu. Gặp được nhạc cụ của mình là nhờ vào duyên số, nên kể cả khi cháu phải tìm một chiếc đàn để tham gia các cuộc thi thì cũng chưa chắc sẽ gặp được đúng cây mà mình mong muốn.”
Những lời chú Kiyohara nói khiến tôi lại càng muốn có cây đàn hơn. Có thể chú ấy chỉ nói vậy để thuyết phục mẹ tôi vì chú đứng ở góc nhìn của một người buôn bán nhạc cụ. Nhưng tôi mới là người bị ảnh hưởng khi nghe thấy câu “gặp được nhạc cụ của mình là nhờ vào duyên số”.
“Dù vậy chúng tôi cũng không thể cứ lợi dụng lòng tốt và sự nhiệt tình của anh. Ý tôi muốn nói một thứ đồ có giá trị cao đến thế là không cần thiết đối với một đứa trẻ lười biếng luyện tập.”
“Con sẽ tập đàn luôn từ hôm nay mà. Con năn nỉ đấy…”
“Con có nói thế thì…”
Mẹ đang bối rối, còn chú Kiyohara lại mủi lòng chấp nhận lời năn nỉ của tôi thay cho mẹ.
“Có điều, chị và cháu mua bảo hiểm cho việc sử dụng cây đàn này được không ạ? Nếu chị Murakami thanh toán phí bảo hiểm hàng tháng cho cây đàn thì cửa hàng chúng tôi cũng vô cùng cảm kích… Sau này, khi Asuka trưởng thành rồi cháu hãy tự mua lại cây đàn nhé.”
“Vâng, nhất định là thế ạ.”
Mẹ tôi hình như vẫn còn lo ngại, nhưng chú Kiyohara lại thay đổi thái độ hoàn toàn và mỉm cười tươi rói rồi.
“Nói thật lòng, tôi nghĩ ngoài Asuka vẫn còn người khác xứng đáng với cây đàn này. Nhưng con bé đã thích cây đàn đến vậy thì hẳn cũng là duyên số. Asuka này, đây là cây violin tuyệt vời nên cháu hãy cố gắng chơi chăm chỉ nhé. Chỉ như vậy, cây đàn mới phát ra những âm thanh hay hơn, cháu phải trân trọng nó.”
Chẳng biết có phải do áy náy khi mượn được cây đàn violin chẳng thể định nổi giá hay không mà tôi luyện tập nhiệt tình hơn hẳn. Trong lòng tôi, mong ước được tự do chơi đàn vẫn mạnh mẽ hơn hết thảy.
3.“Asuka, con muốn lên Tokyo một chuyến không?”
Mẹ đem chuyện đó ra hỏi tôi nửa năm sau khi tôi gặp chiếc đàn violin mới, vừa đúng lúc tháng Mười Hai bắt đầu.
Tôi vừa nhấp miệng vào cốc cà phê sữa cho bữa sáng vừa nhìn thăm dò mẹ. Những chuyện mẹ đem ra nói trước giờ đi học thường không mấy vui vẻ.
“Tokyo ạ?”
Đương nhiên mẹ tôi không nói tới chuyện lên Tokyo để tham quan du lịch. Tôi hiểu rõ điều đó.
“Asuka, con cũng biết mà, ở Tokyo có nhiều trường đại học tốt. Nếu thi vào ngành Y, mẹ nghĩ là tới tham quan trước các trường đại học ở đó từ bây giờ cũng chẳng có gì xấu cả.”
“Mẹ, con chưa bao giờ nói sẽ trở thành bác sĩ.”
Đang dùng bữa sáng mà lại bị ép phải nói những chuyện đau đầu, tôi chẳng còn lòng dạ nào ăn uống nữa.
Tôi đặt miếng bánh mì đang ăn dở vào đĩa rồi buông một tiếng thở dài.
“Con vẫn còn nghĩ đến chuyện kiếm sống bằng cây đàn violin sao? Nghe này, ở Nhật rất hiếm người thực sự trở thành nhạc công chuyên nghiệp. Thậm chí có người chỉ được mỗi cái danh mà không kiếm nổi thu nhập. Trong thế giới khắc nghiệt như vậy, một đứa tầm tầm, vẩn vơ với ý nghĩ ‘Hi vọng có thể làm điều gì với cây violin yêu thích!’ như con làm sao có thể tồn tại được?”
“Con biết chứ!”
Tôi có nhiều điều muốn nói, nhưng không thể chuyển chúng thành lời, nên chỉ biết thốt ra một câu đầy vẻ chống đối.
Từ khi đổi sang cây đàn violin mới, cường độ luyện tập của tôi tăng lên đáng kể. Càng tập, càng đối diện với chiếc đàn, tôi càng thấy nhiều thử thách phải vượt qua và tôi cũng biết không phải lúc nào cũng khéo léo xoay xở được.
Càng mong muốn trở thành nhạc công chuyên nghiệp, tôi lại càng thấy mình sắp bị đè bẹp bởi cảm giác đầy bất an. Tôi tự hỏi một đứa với chút ít kĩ thuật như tôi làm sao có thể trở thành một nhạc công chuyên nghiệp. Vậy nên tôi đặt ra một mục tiêu hết sức mơ hồ. Việc tôi chỉ muốn làm công việc liên quan tới đàn violin thực ra là cái cớ để chạy trốn khỏi nỗi sợ của bản thân.
Chính tôi hiểu rõ hơn ai hết con đường trở thành một nghệ sĩ độc tấu violin không hề nhẹ nhàng, đúng như những gì mẹ nói.
“Ai mà biết được con có thể làm bác sĩ hay không cơ chứ?”
Thốt ra câu đó xong, tôi đứng lên, rời khỏi ghế.
“Asuka, vẫn chưa xong bữa mà.”
“Con không ăn nữa. Cảm ơn mẹ đã làm đồ ăn sáng!”
Tôi trở lại phòng mình, túm lấy cặp sách và bước ra chiếu nghỉ. Tôi nghe thấy tiếng mẹ với theo sau lưng nhưng làm ngơ và cứ thế đến trường.
Mấy ngày gần đây, tôi cứ nghĩ mãi việc lẽ nào mình chẳng có năng khiếu chơi violin? Đúng là từ khi đổi cây đàn mới nửa năm trước, việc luyện tập của tôi có tiến triển thuận lợi hơn, nhân cơ hội đó tôi đã thêm vào danh sách luyện tập các bản nhạc mới.
Lần này tôi thêm hai bản nhạc vào chương trình luyện tập. Đầu tiên là “Khúc biến tấu theo chủ đề của Corelli”* được Tartini* sáng tác và Kreisler* biên soạn, bản thứ hai là bản “Ave Maria”* của Schubert*. Ban đầu tôi nghĩ mình có thể chơi được ngay vì cả hai vốn trông có vẻ dễ và là hai bản nhạc tôi hay nghe, nhưng ngay từ “Khúc biến tấu theo chủ đề của Corelli”, tôi đã phải loay hoay mãi.
Chu thich: Tên gốc là “Variations on a Theme by Corelli.”
Chu thich: Tên đầy đủ là Giuseppe Tartini (1692-1770), là một nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ violin của Ý. Ông chủ yếu viết các bản Sonata dành cho đàn violin. Trong số các tác phẩm của ông, nổi tiếng nhất có lẽ là tác phẩm “Sonata giọng Sol thứ cho đàn violin” hay còn gọi là bản “Sonata Âm láy Ma quỷ”.
Chu thich: Tên đầy đủ là Friedrich “Fritz” Kreisler (1875-1962) là một nhà soạn nhạc người Áo, đồng thời cũng được cho là một trong những nghệ sĩ violin vĩ đại nhất mọi thời đại.
Chu thich: Tên gọi phổ thông của một bài hát có tựa đề “Ellens dritter Gesang”, là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà soạn nhạc người Áo, Franz Schubert, được viết vào năm 1825.
Chu thich: Tên đầy đủ là Franz Peter Schubert (1797-1828), là một nhà soạn nhạc người Áo nổi tiếng với những giai điệu du dương nhẹ nhàng.
Những đoạn hợp âm ba liên tiếp buộc phải kéo đồng thời ba nốt một lúc, nhạc phổ đầy ắp những đoạn tiết tấu nhanh phải chơi ở tốc độ cao, rồi những dấu láy rải rác khắp nơi trên nhạc phổ, dù tôi hăng say luyện tập đến mấy cũng không chơi được cho ra hồn. Chính vì lẽ đó tôi không động gì tới bản “Ave Maria” đáng lẽ phải tập song song, cũng có nghĩa là gần đây tôi chẳng thể tiến thêm một bước nào cả. Đến giữa bản “Ave Maria” bắt đầu có những hợp âm quãng tám nhưng những ngón tay trái không tài nào chuyển động đúng như ý muốn của tôi.
Dù tôi vừa chơi chậm rãi vừa kiểm tra từng quãng âm nhưng tất cả những âm thanh phát ra chỉ tựa như ống sáo Nhật hoặc tiếng kèn túi của người Anh, điều đó nhanh chóng làm tôi chán nản tập luyện.
Vậy là tôi tự cho rằng mình không thể chơi được bản “Ave Maria” và lần nào cũng tới lớp học của thầy trong tình trạng thiếu luyện tập trầm trọng.
Tôi tập mãi mà không có chút tiến bộ nào nên đến cả thầy giáo vốn rất kiên nhẫn cũng phải bịt tai vào và bảo “Dừng lại đi.”
Vai buông thõng, thầy nói với vẻ như đã đầu hàng.
“Thế là đủ rồi, Asuka. Em chỉ cần chơi hợp âm quãng tám một lần đầu thôi, còn sau đó cứ nhặt các nốt cao hơn mà kéo. Em làm được như vậy chứ?”
“Vâng, em sẽ chơi như vậy.”
Thế nhưng thậm chí cả những đơn âm đó tôi cũng không chơi hay được và càng ngày tôi càng đánh mất hứng thú với việc tập luyện.
Tôi hiểu rất rõ không thể cứ kéo dài mãi tình trạng này.
Tôi cũng từng nghĩ tới chuyện sau khi chơi được nhuần nhuyễn “Khúc biến tấu theo chủ đề của Corelli”, tôi sẽ có thể tập trung vào luyện tập “Ave Maria” nhưng tôi có dự cảm rằng, kể cả tôi tập xong Corelli thì tôi vẫn sẽ đặt dấu chấm hết mà không buồn tiếp tục.
Nếu đây là một bản nhạc trong sách giáo trình thì tôi đã bắt buộc mình phải chơi cho bằng được mới thôi, nhưng “Ave Maria” không phải bài học trong sách. Tuy tôi không ghét nó với tư cách một bản nhạc, nhưng đâu đó trong tôi đã gán cho nó cái mác phiền phức và khó nắm bắt.
Chính vì tinh thần tập luyện lên quá cao nên đến khi hiểu ra mình không đủ khả năng, tôi cảm thấy hoang mang, sợ hãi.
Có lẽ mẹ vẫn nghĩ đơn giản rằng chỉ cần tăng thời gian luyện tập thì tôi có thể trở thành chuyên nghiệp, nhưng không phải cứ tập đàn nhiều là đủ khiến người ta hiểu sâu sắc hơn về bản nhạc họ chơi, và cũng chẳng thể mặc định là tất cả mọi người đều sẽ tiến bộ.
Nếu mẹ biết được đứa con một thời được coi là thiên tài như tôi thực ra chỉ là một người thường, không biết mẹ sẽ thất vọng đến nhường nào. Tôi sợ mình sẽ phản bội lại những hi vọng lớn lao mẹ dành cho tôi.
“Asuka, đợi đã!”
Tôi nghe thấy tiếng gọi thân quen phía sau lưng và dừng chân lại.
Tôi ngoảnh lại đúng lúc Ayumi đang chạy vội về phía tôi, cậu ấy vẫn mặc chiếc váy đồng phục cắt ngắn, dù trời đã chuyển hẳn sang tiết đông.
“Chào buổi sáng, Asuka. Lạ thật nhỉ, hôm nay cậu đi sớm thế.”
Tôi chờ Ayumi chạy đến bên cạnh rồi mới bắt đầu cất bước.
“Ừm, sáng nay mẹ nói nhiều quá nên tớ ra khỏi nhà sớm hơn.”
“Sao, lại cãi nhau à?”
Ayumi nói với vẻ ngỡ ngàng.
“Tại mẹ cứ lải nhải suốt, chẳng cần biết người khác cảm thấy thế nào.”
Tôi kể lại những gì diễn ra trong bữa sáng, trong lúc tôi nói, Ayumi đi bên cạnh và gật gù thông cảm.
Nhờ cậu ấy không bình luận gì thừa thãi, chỉ im lặng lắng nghe mà tâm trạng bực bội trong tôi dần lắng xuống.
“Nhắc mới nhớ, gần đây Asuka không hay trốn sang nhà tớ nhỉ.”
“Ừ, tớ không có thời gian sang ấy chứ. Vì tớ phải luyện tập mà.”
“Trời đất, chính miệng cậu thốt ra hai chữ ‘luyện tập’ kìa!”
Ayumi vẻ như muốn chọc ghẹo tôi, nhưng trong lời nói có chút ngạc nhiên thật sự.
“Giờ tớ phải luyện đàng hoàng, bù cho cả những lúc trốn tập nữa. Thế mà khối lượng luyện tập vẫn hoàn toàn chưa đủ.”
“Nghĩa là, cậu thực sự nghiêm túc? Vậy còn con đường trở thành bác sĩ giống bố thì sao?”
“Tớ thấy làm bác sĩ cũng hay hay khi nghe những từ rất ngầu trong chuyện của bố, như adrenalin này, dopamine này. Tớ từng mong hiểu được những từ đó và cùng bố trò chuyện về chúng. Nhưng nghĩ kĩ thì tớ cũng chẳng thích học, tớ thà tập đàn mười tiếng còn hơn ngồi học mười tiếng…”
“Vậy nghĩa là cậu sẽ trở thành nghệ sĩ chơi violin độc tấu hả?”
“Chơi độc tấu thì khó đấy…”
Đối với một thứ không thể đạt được chỉ vì thích, cũng không thể đạt được sau khi đã cố gắng nhiều, thì tôi phải làm gì đây?
Tôi vẫn có những suy nghĩ riêng của bản thân, nhưng việc đó quả thật quá khó nhằn với một đứa trẻ mười bốn tuổi.
4.Tôi trở về nhà sau buổi học thì thấy chú Kiyohara đang ở đấy.
Hằng năm, tôi nhờ người ở cửa hàng tới hai lần vào mùa mưa và tháng Mười Hai để sửa sang bảo dưỡng lại cây đàn, có lẽ vì lí do đó mà hôm nay chú ghé nhà tôi.
Bình thường cửa hàng vẫn cử nhân viên sửa chữa khác, nhưng chú Kiyohara nói muốn tự mình làm vì rất quan tâm tới cây đàn tôi đã mượn.
“Hình như việc luyện tập của cháu không suôn sẻ lắm nhỉ.”
Chú Kiyohara quan sát ngắm nghía mọi góc cạnh của cây đàn.
“Úi? Sao chú biết tài thế?”
“Xem này, bột nhựa thông vẫn còn dính nhiều lên tận phím đàn nên chắc lúc kéo hợp âm ba cháu để vĩ lướt trên các dây phải không?”
“Trời đất, chú nói y như thầy cháu vậy. Lúc chơi đoạn hợp âm ba liên tiếp ở bài Corelli cháu thường cho vĩ trôi đi nên thầy toàn nhắc cháu phải kéo ngắn và nảy hơn, gần đây cháu chơi cũng tàm tạm rồi, nhưng…”
Nghe tôi kể chuyện, chú Kiyohara ậm ừ gật gù.
“Chú Kiyohara ơi, cháu nghe thầy dạy đàn nói, hồi bằng tuổi cháu, chú từng được gọi là thiên tài đúng không ạ? Sao chú không trở thành nhạc công chuyên nghiệp ạ?”
“Vì sao à? Lí do thì không chỉ có một. Nhưng lí do lớn nhất có lẽ là vấn đề kinh tế. Asuka đến tầm tuổi này có lẽ cũng hiểu được, để lên chuyên nghiệp cần một khoản kinh phí tương xứng. Với gia đình buôn bán nhạc cụ ở một vùng quê nhỏ như nhà chú, cha mẹ chú đã không thể vượt qua được gánh nặng tiền bạc.”
“Cha mẹ…”
“Về mặt này thì điều kiện kinh tế của gia đình cháu đủ dư dả, mẹ cháu cũng rất tâm huyết, nên chú cho rằng nếu Asuka mong muốn trở thành nhạc công chuyên nghiệp thì cháu đang có một môi trường rất thuận lợi đấy.”
Tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc có môi trường thuận lợi hay không. Mẹ tôi lúc nào cũng thúc tôi luyện tập và luyện tập, nhưng tất cả những bài tập đó đều không hề miễn phí.
Lần đầu tiên tôi nhận ra rằng có cả những đứa trẻ dù muốn chơi violin đến mấy cũng không thể chơi được.
“Nhưng mà chú Kiyohara ơi, dù cho môi trường có đầy đủ điều kiện đi chăng nữa, nếu bản thân người đó không có tài năng thì cũng không thể lên chuyên nghiệp đúng không ạ? Bây giờ cháu đang luyện hai bản nhạc, nhưng vì cháu cứ loay hoay mãi với bản Corelli nên không có chút tiến triển nào với bản còn lại là ‘Ave Maria’ cả…”
“Sao? Cháu đang tập ‘Ave Maria’ à?”
“Vâng, nhưng sao thế ạ, chú Kiyohara?”
Trông chú Kiyohara quá bất ngờ nên tôi ngừng kể lể chuyện của mình và nhìn chú.
“Vậy à, cháu chơi ‘Ave Maria’ à…”
Những lời lẩm bẩm đó như thể không hướng về tôi mà dành cho chính bản thân chú ấy.
“Người chủ nhân trước đây của cây đàn này là một cô bé bằng tuổi cháu, có tên Hannah Janssen. Cô bé ấy đã chăm chỉ chơi bản ‘Ave Maria’ của Schubert suốt cuộc đời mình nên người ta còn gọi cây đàn này với tên thân mật là ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ đấy.”
“Cùng tuổi với cháu ạ?”
“Chú vẫn chưa biết rõ cụ thể, nhưng nghe nói cô ấy là người sống sót từ Trại tập trung Auschwitz* còn cây đàn này hình như đã được đặt ở đồng hoa anh túc trước Trại tập trung.”
Chu thich: Một mạng lưới các Trại tập trung và Trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính trong Chiến tranh thế giới thứ Hai. Trại bao gồm Auschwitz I, Auschwitz II-Birkenau (tổ hợp trại tập trung và trại hủy diệt), Auschwitz III-Monowitz. Trại hoạt động trong khoảng thời gian từ tháng Năm năm 1940 đến tháng Một năm 1945.
“Chú Kiyohara, Auschwitz là gì vậy ạ?”
“Ồ Asuka, cháu không biết về Auschwitz à? Cháu chưa đọc ‘Nhật kí của Anne’* lần nào sao?”
Chu thich: Được xuất bản tại Việt Nam với tên “Nhật kí Anne Frank; là cuốn hồi kí của Anne Marie Frank, một cô gái Đức gốc Do Thái, viết về cuộc sống của mình trong thời gian chạy trốn sự truy lùng của Đức Quốc Xã trong những năm 1941-1942.
“À, ‘Nhật kí của Anne’ ạ…”
Hồi học tiểu học, tôi từng đọc bản đã được biên soạn lại cho dễ hiểu với lứa tuổi nhi đồng. Từ đó tới nay tôi chỉ nhận thức được cuốn sách là câu chuyện về những người sống trong phòng bí mật vì sợ hãi quân Phát xít.
Kết cục, Anne bị quân Phát xít tìm ra và gửi tới Trại tập trung. Cô bị bắt bởi lí do gia đình cô là người Do Thái, nhưng đến tận bây giờ tôi mới để ý và thắc mắc không rõ vì sao người Do Thái lại bị truy bắt rồi ngược đãi đến vậy.
Dù đó là sự việc xảy ra ở đất nước khác nhưng tôi vẫn thấy xấu hổ vì vốn kiến thức lịch sử nghèo nàn của mình.
“Có phải là cây đàn bị vứt đi không ạ? Vì sao Hannah lại từ bỏ cây đàn này?”
“Asuka, cháu có hứng thú à?”
“Vâng, có chứ ạ. Bởi vì đó là chuyện về người chủ trước đây của cây vĩ cầm này mà. Cháu đương nhiên rất muốn biết về cô gái yêu thích ‘Ave Maria’, lại bằng tuổi cháu.”
“Vậy à…”
Chỉ cần nghe nói người chủ nhân trước đây của cây đàn bằng tuổi tôi, là tôi đã cảm thấy cuộc gặp gỡ với cây đàn có điều gì đó tựa như số phận.
“Thật ra, khi nhập cây đàn về, chú nghe người ta nói nó từng được trưng bày tại một bảo tàng tư nhân ở gần Auschwitz với tên gọi là ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’. Ngay cả giám đốc bảo tàng hiện nay cũng không biết điều gì đã đưa cây đàn đến với bảo tàng này, vì người tiền nhiệm đã qua đời trước khi ông kịp hỏi rõ ngọn ngành về nó.”
“Thế thì chịu thua không còn cách nào để biết nữa chú nhỉ?”
“Chuyện là vậy, nhưng chú cũng khá quan tâm tới nguồn gốc cây violin này nên đang tìm hiểu thêm và có khả năng tới đây chú sẽ được gặp một nghệ sĩ cello từng chơi đàn cùng với Hannah.”
“Thật ạ!?”
Chú Kiyohara rất quan tâm tới “Cây vĩ cầm Ave Maria” nên đã tìm hiểu trên trang web của Cục Quản lí du lịch Đức, gọi điện tới Đài phát thanh Ba Lan và xin phép được lên sóng qua điện thoại trong một chương trình của nhà đài, khi đó chú tranh thủ kể về cây đàn violin ở cánh đồng trước cửa Trại tập trung Auschwitz và nhắc tới cái tên Hannah Janssen. Sau đó, một người đàn ông tên Kalzas sống ở làng Crossways tại Ba Lan đã liên lạc với chú.
“Thực ra người đó sắp tới Nhật để chỉ huy dàn nhạc ‘Daiku’ nên ông ấy nói sẽ dành thời gian để tiếp chuyện chú.”
“Ôi, tuyệt quá! Tốt quá rồi ạ!”
“Nếu mẹ Asuka đồng ý, chú sẽ đưa cả cháu đi cùng. Như vậy có lẽ ông Kalzas cũng sẽ vui hơn.”
“Tuyệt quá!”
Tôi hạnh phúc vô cùng, chạy ngay ra khỏi phòng, đi tới nơi mẹ đang chuẩn bị bữa cơm tối rồi kể tuốt tuồn tuột mọi chuyện vừa mới nghe.
Mẹ không giấu nổi vẻ ngạc nhiên, nhưng có lẽ, do cảm nhận được những gì tôi sẽ thu được qua việc lắng nghe chuyện cuộc đời của một người đã thoát khỏi vận mệnh đau thương và sống sót từ Trại tập trung Auschwitz còn quan trọng hơn gấp trăm lần học bài, nên mẹ dễ dàng đồng ý cho tôi đi cùng chú Kiyohara. Hoặc có thể chính mẹ tôi cũng rất tò mò về cô gái tên Hannah, chủ nhân trước đây của cây đàn violin này.
Vào thời điểm ấy, chính bản thân tôi cũng chẳng thể ngờ rằng, sự hứng thú tò mò đơn thuần với chủ nhân cũ của cây đàn lại trở thành nhân tố thay đổi to lớn cho cuộc đời của tôi.
5.Một tuần sau, vào một ngày tuyết rơi, chúng tôi tới gặp ông Kalzas.
Cứ đến tháng Mười Hai hằng năm, từ những dàn nhạc nổi tiếng tới những dàn nhạc nhỏ ở địa phương đều biểu diễn “Bản giao hưởng số chín”* của Beethoven*. Bản giao hưởng này quen thuộc với cả người Nhật, được họ yêu mến và gọi tắt là Daiku*. Ông Kalzas tới Nhật để chỉ huy dàn nhạc chơi bản Daiku, và chúng tôi đã sắp xếp tới Osaka sao cho khớp với lịch trình của ông.
Chu thich: Tên đầy đủ là “Bản giao hưởng số chín cung Rê thứ, Opus125” là tác phẩm giao hưởng hoàn chỉnh cuối cùng của nhà soạn nhạc người Đức Ludwig van Beethoven, được hoàn thành vào năm 1824.
Chu thich: Tên đầy đủ là Ludwig van Beethoven (1770-1827), là nhà soạn nhạc nổi tiếng của Đức vào thế kỉ 18-19. Ông được rất nhiều người công nhận là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất và vĩ đại nhất không chỉ vì âm nhạc của mình mà còn bởi tầm ảnh hưởng của các tác phẩm của ông đối với nền âm nhạc cổ điển thế giới.
Chu thich: Có nghĩa là “Thứ Chín”, phiên âm tên gọi mà người dân Nhật đặt cho “Bản giao hưởng số chín” của Beethoven.
Giữa màn tuyết rơi dày, chú Kiyohara, mẹ và tôi tới thăm Hội trường Osaka, nơi đang diễn ra buổi diễn tập tổng duyệt.
Trong hội trường, mọi người đi lại khẩn trương, sẵn sàng cho buổi diễn chính thức vào ngày mai. Tất thảy bọn họ đều nhanh chân hối hả ngang qua, nhưng vẫn không quên liếc về phía chúng tôi một cái. Chẳng rõ có phải ba người chúng tôi nhìn quá kì lạ đối với một gia đình không mà lại thu hút ánh mắt xung quanh đến mức đó.
Trong số những người ở đó chỉ có một người đàn ông vừa nhìn thấy chúng tôi là đã vội chạy tới.
Người này đi đến chỗ chú Kiyohara, trao đổi điều gì đó rồi dẫn chúng tôi vào phòng chuẩn bị cho nhân viên ở ngay bên phải.
“Xin mời vào.”
Anh ta chỉ cho chúng tôi một căn phòng rộng tới mười chiếu*.
Chu thich: Đơn vị đo diện tích sàn phòng của Nhật. Thông thường 1 chiếu xấp xỉ 1,82 mét vuông (có thể khác nhau tuỳ địa phương).
Khi chúng tôi im lặng bước vào phòng trong tâm trạng hồi hộp căng thẳng thì từ sâu bên trong, một ông lão tóc bạc phơ quay đầu về phía chúng tôi.
Ông ấy chắc hẳn là ông Kalzas.
Ông mặc một chiếc áo vét màu be sang trọng, trên cổ quàng chiếc khăn màu rượu vang thay cho một chiếc ca-ra-vát. Tôi nghe nói ông đã gần chín mươi, nhưng ông lão trước mặt chúng tôi trông vẫn giống một quý ông mạnh khoẻ.
Như thể muốn giúp chúng tôi thấy thoải mái hơn, ông đứng dậy, bước đến gần, lần lượt nhẹ nhàng ôm chú Kiyohara, mẹ tôi rồi đến tôi. Tiếp đó, ông cầm tay tôi bằng đôi bàn tay hơi run rẩy. Đôi bàn tay ấy thô cứng và gân guốc đến mức tưởng như không phải là tay của một người chơi nhạc, điều này khiến tôi hơi sợ hãi.
Trong khi tôi giấu cảm nhận vào lòng, ông bắt chuyện với tôi, không phải bằng tiếng Đức hay tiếng Ba Lan, mà bằng tiếng Anh.
“I am Paul Kalzas.”
Sau đó ông nói thêm vài câu nữa, có vẻ là để chào đón chúng tôi.
Chú Kiyohara nói được cả tiếng Đức lẫn tiếng Anh, tôi biết lúc đó chú đã dùng tiếng Anh giới thiệu bản thân và giúp chúng tôi chào hỏi ông Kalzas.
“Chúng cháu rất vui được gặp ông.”
Tôi nói vậy bằng tiếng Nhật, dường như ông ấy hiểu điều tôi muốn nói nên đã mỉm cười.
“Ông Kalzas, chúng cháu mang ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ đến đây ạ.”
Tôi hạ chiếc đàn đang đeo trên lưng xuống rồi mở nắp hộp đàn màu đỏ rượu vang mới tinh.
“Đúng là chiếc này chứ ạ?”
Chú Kiyohara từ tốn hỏi và trao chiếc đàn cho ông Kalzas.
Ông Kalzas đón lấy chiếc đàn, ngắm nghía cả hai mặt. Đôi lông mày trắng dài của ông nhíu lại, trong đôi mắt lấp loáng nước của ông ánh lên vẻ hoài niệm sâu xa.
“Hannah, cuối cùng ta cũng được gặp lại nhau…”
Ông Kalzas nói chuyện với cây đàn violin, giọng nói ồm ồm đặc trưng của người già run lên từng chặp.
“Ta đã băn khoăn không biết có chuyện gì khi chẳng còn thấy em ở bảo tàng nữa. Em hạnh phúc chứ? Một cô bé đáng yêu hệt như em đang giữ chiếc đàn này.”
Tôi tưởng như nhìn thấy trong ánh mắt của ông Kalzas hình ảnh một thiếu nữ bằng tuổi mình. Ông Kalzas không nói chuyện với cây đàn. Ông đang thông qua cây đàn để nói chuyện với Hannah.
“Đây quả đúng là ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ mà Hannah từng giữ. Sau khi Hannah mất, với mong muốn mọi người không quên đi lịch sử, tôi đã mang cây đàn này tới Bảo tàng Auschwitz. Vậy mà chẳng hiểu từ bao giờ người ta đồn nhau rằng cây đàn đã bị bỏ mặc ở cánh đồng Auschwitz. Tại sao cây vĩ cầm này lại bị đối xử như vậy?”
“Nó đã được đưa ra đấu giá ở Anh thưa ông.”
Chú Kiyohara vừa giải thích ngắn gọn một câu như vậy, ông Kalzas liền gật đầu thật mạnh, vẻ như ông đã hiểu hết tất cả.
“Có lẽ có lí do nào đó khiến nó bị đem đi đấu giá, nhưng âu đây cũng là số phận của ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’. Thật may mắn hơn khi cây đàn lại tới chỗ một cô bé Nhật Bản. Bởi vì người Nhật vốn rất biết trân trọng đồ vật mà. Asuka, cháu bao nhiêu tuổi rồi?”
Tôi biết ông đang hỏi tuổi tôi bằng tiếng Anh bèn trả lời lại ngay.
“Fourteen.”
Nghe vậy, ông Kalzas bật lên một tiếng “Ồ” đầy vẻ ngạc nhiên thích thú.
“Thật thần kì. Vậy là cháu cùng tuổi với Hannah. Hannah cũng hay đeo cây đàn trên vai như cháu đang làm vậy. Giống như cháu. Phải, giống hệt. Chúa Trời đã khéo léo đưa ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ này đến chỗ cháu. Thật tuyệt vời làm sao… Asuka, cháu có thể chơi một bản nhạc cho ta nghe chứ?”
“Vâng, vậy cháu sẽ chơi một đoạn ‘Ave Maria’ của Schubert…”
Khả năng kéo violin của tôi cũng không tăng lên đột ngột chỉ vì tôi ở trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt này. Tôi đoán rằng có lẽ người ta sẽ muốn mình chơi duy nhất bản “Ave Maria” thôi nên đã luyện tập trước, thế nhưng sản phẩm âm nhạc của tôi vẫn chẳng có gì thay đổi, tôi càng thêm ngậm ngùi vì sự kém cỏi của bản thân. Tôi không muốn chơi một bản nhạc tệ đến mức khiến ông Kalzas thất vọng và bịt tai lại, vậy nên tôi quyết định chuyển tất cả những chỗ buộc phải chơi hợp âm thành đơn âm cho dễ kéo.
“Đúng là âm thanh này…”
Trong lúc tôi biểu diễn, ông Kalzas nhắm nghiền đôi mắt và chăm chú lắng nghe, đến khi bản nhạc kết thúc, ông chậm rãi mở mi mắt ra như để thưởng thức hết những âm sắc của giai điệu còn đọng lại. Tôi ngước nhìn ông Kalzas và nhận ra mắt ông đã đỏ hoe.
“Asuka, cháu chơi hay lắm. Cháu chơi hay như Hannah vậy. Asuka, cháu quả thật giống như là kiếp sau của Hannah.”
Tôi đương nhiên hiểu rằng ông Kalzas đang ca ngợi quá lời. Tuy vậy, chỉ riêng việc bản “Ave Maria” dở tệ của tôi được ông khen đã đủ làm tôi cảm thấy vô cùng ái ngại và có lỗi.
Người ta có câu “Sự đã rồi, hối hận cũng đã muộn”, ấy vậy mà trong lòng tôi vẫn thầm nghĩ, giá như ngày thường tôi luyện tập chăm chỉ hơn. Nếu biết màn biểu diễn vụng về của tôi có thể khiến ông vui đến vậy, ước gì tôi có thể chơi hay hơn nữa.
6.Khi tôi đàn xong, một người nhân viên hậu trường mang đồ uống vào phòng, cà phê cho người lớn và ca cao cho tôi.
Ông Kalzas sửa lại tư thế ngồi, lún sâu mình trong lòng ghế, rồi chầm chậm nhấm nháp một ngụm cà phê.
“Chà… Ta nên bắt đầu kể từ đâu đây…”
Máy sưởi trong phòng vẫn bật công suất lớn, nhưng chẳng ai cảm nhận nổi hơi ấm giữa bầu không khí căng thẳng đang chiếm hữu căn phòng. Chú Kiyohara, mẹ tôi và tôi, cả ba người đều nín thở, chờ đợi từng lời của ông lão. Trong căn phòng yên lặng, chỉ còn nghe vọng lại tiếng từng mảng tuyết rơi lộp bộp trên nền đất, chẳng hiểu sao lòng tôi lại thấy bất an.
Nhấp một ngụm cà phê từ cái ly còn đang bốc lên làn hơi ấm, ông Kalzas bắt đầu câu chuyện với giọng điệu khe khẽ nhẹ nhàng.
“Thật khó mà tin nổi, chẳng ai còn thấy lạ khi ta có thể uống một ly cà phê nóng trong những ngày rét mướt như hôm nay… Cậu có bao giờ nghĩ rằng cuộc sống như vậy là một điều đặc biệt không, cậu Kiyohara?”
Người chú Kiyohara cứng đờ ra, thậm chí chẳng thể gật đầu.
“Asuka, chuyện ta sắp kể đây có lẽ sẽ vô cùng ám ảnh, thậm chí nó có thể vượt ngoài sức tưởng tượng của cháu.”
Ông Kalzas hướng về phía tôi với cái nhìn đầy nghiêm khắc, khác hẳn với ánh mắt hết mực trìu mến ban nãy.
“Chắc hẳn từ khi sinh ra tới giờ, cháu luôn được sống cuộc đời tự do nên chẳng thể nhận ra bản thân mình lúc này hạnh phúc tới nhường nào. Sau khi trực tiếp nghe câu chuyện hôm nay từ ta, nhất định nhiều niềm hạnh phúc hơn sẽ tới với cuộc đời của cháu. Bởi vì ta tin rằng dù ít ỏi thì cháu vẫn sẽ phần nào hiểu được thế nào là hạnh phúc thật sự… Ở trường, cháu có học lịch sử chứ?”
Ông Kalzas lựa chọn từ ngữ thận trọng nên tôi có thể hiểu được hầu hết những điều ông nói. Chỉ có điều, tôi vẫn còn lúng túng không biết phải trả lời bằng tiếng Anh ra sao nên chỉ nói được mỗi một câu “Yes” cụt ngủn.
“Vậy à…”
Ông lão lặng ngắm tuyết rơi bên ngoài cửa sổ.
“Trẻ mà không học lịch sử là không được. Chỉ biết thôi cũng không ổn chút nào. Dù cho cháu có nhớ được hết niên biểu của các sự kiện, nhớ năm nào xảy ra cái gì, điều đó cũng không thể coi là cháu đã hiểu biết về lịch sử. Học nghĩa là cháu phải dựa vào những sự thật lịch sử và tự bản thân suy nghĩ, cảm nhận thật nhiều điều. Cháu hãy tự hỏi mình, rằng với tư cách là một con người, từ nay về sau phải sống thế nào cho xứng đáng, hạnh phúc là điều gì trên đời, cháu hãy nhìn vào thế giới này và tìm ra chính kiến của bản thân. Đó mới là ý nghĩa của việc học lịch sử.”
Ông Kalzas đặt ly cà phê xuống bàn rồi quay ra nhìn tôi.
“… Đúng rồi… trước đây Hannah cũng luôn đeo ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ này trên lưng, giống như cháu.”
Ông nheo mắt lại như để nhìn tôi cho rõ, từ đầu tới chân. Rồi ông buông một tiếng thở dài, dường như rất nhiều nỗi suy tư chất chứa bên trong.
“Cháu có mái tóc đen đẹp tuyệt, còn Hannah có mái tóc vàng giống như búp bê phương Tây. Cô ấy có đôi mắt trong veo với màu xanh sâu thẳm, chính màu mắt đó cùng ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ đã cứu cô ấy khỏi địa ngục. Cả chị gái, em trai, cha mẹ, ông bà của cô bé ấy đều bị sát hại. Có lẽ các cháu vẫn luôn nghĩ rằng việc nhìn thấy địa ngục hay chết chóc chẳng hề liên quan tới mình. Thật khó cho ta… Ta không biết nên mô tả như thế nào về thời kì đó cho các cháu nữa…”
Ông Kalzas cất tiếng thở dài, rồi ông nhún vai và lắc đầu như thể đầu hàng.
“Asuka, ông cháu bao nhiêu tuổi rồi?”
“Bảy mươi… ạ.”
Tôi không thể an tâm với phát âm tiếng Anh của mình nên giơ bảy ngón tay lên ra hiệu, thấy vậy ông Kalzas liền gật đầu một cái.
“Vậy là câu chuyện này diễn ra khi ông cháu vừa mới chào đời đấy. Chuyện từ năm 1933. Cháu thử tưởng tượng lúc ông mình vừa mới chào đời xem nào. Hãy tưởng tượng ra cái thời ông cháu mới là một đứa bé sơ sinh, vẫn còn đang phải bú sữa mẹ.”
“Cháu không thích tưởng tượng cảnh đó đâu.”
Tôi bất giác bật cười khiến cả mẹ tôi và chú Kiyohara đang phiên dịch cũng cười theo.
“Ha ha. Đúng thế đấy. Nói thế này hơi tội ông cháu, nhưng việc đắm mình thử tưởng tượng thực sự rất quan trọng. Có thể cách này sẽ mất nhiều thời gian hơn học thuộc bảng niên biểu, nhưng nó sẽ giúp ích cho bản thân cháu, khiến cháu không bao giờ quên. Tất cả sẽ kiến tạo nên con người cháu.”
“Kiến tạo ạ? Vì sao lại phải kiến tạo bản thân mình ạ?”
Khi các từ tiếng Anh trở nên khó hơn, chú Kiyohara phiên dịch thay tôi để câu chuyện được diễn ra trôi chảy.
“Câu hỏi quan trọng đây. Ta chắc cháu đang có một cuộc sống hạnh phúc. Con người có quyền được sống hạnh phúc mà. Cả Asuka lẫn mẹ cháu, chú Kiyohara và đương nhiên là cả ta nữa. Tuy vậy, bất chấp việc ai cũng có quyền được sống hạnh phúc, thì trong thực tế, bên cạnh những người hạnh phúc vẫn luôn tồn tại những kẻ bất hạnh. Có người cảm thấy biết ơn khi thưởng thức một tách cà phê và hạnh phúc vì điều đó thì cũng có người khác cho rằng được uống cà phê là chuyện quá đỗi đương nhiên. Nếu ta hỏi cháu, giữa hai người đó ai mới hạnh phúc, cháu sẽ trả lời thế nào, Asuka?”
“Người thấy cảm kích trước một tác