Chương 2 GIA ĐÌNH JANSSEN-1.
“Hannah, hôm nay cháu học bài gì đấy?”
“Hôm nay sinh nhật ông nhà chú, sang chơi một bản nhé, Hannah!”
Luôn có nhiều giọng gọi với theo mỗi khi Hannah đi ngang qua.
Hannah chỉ là một đứa trẻ, vậy mà phong cách của em khiến người ta tưởng rằng em là một nghệ sĩ violin thực thụ, cứ có người đánh tiếng là em sẽ biểu diễn theo đúng những gì họ yêu cầu. Chẳng biết có phải những lần đi chơi nhạc theo yêu cầu đã trở thành vốn liếng kinh nghiệm của em không, nhưng số lượng bản nhạc em có thể chơi tăng lên rõ rệt, mọi người trong vùng đều hết lời ca ngợi tài năng của em.
Hannah có một người chị gái ốm yếu tên là Nina, chân phải của cô bé hơi có tật. Vậy nên Hannah rất yêu thương chị gái, luôn biết nghĩ cho chị và sẵn sàng đưa tay ra trợ giúp mọi lúc mọi nơi.
Về phần Nina, cô cũng là người chị dịu hiền hết mực thương yêu em gái mình. Mỗi khi trời trở lạnh, Nina thường tự tay đan găng và khăn quàng cổ cho em.
Đặc biệt hơn, Hannah có tiếng cười giòn tan vô tư, không khi nào dứt, nên rất được hàng xóm láng giềng yêu mến. Nina tuy nhút nhát nhưng luôn tự hào khi có cô em gái sôi nổi và giao thiệp tốt như Hannah.
Những tháng ngày êm đềm cứ thế trôi qua, mọi người đều tin rằng ngày mai mặt trời vẫn mọc từ hướng Đông, chẳng ai mảy may nghi ngờ điều đó.
Cho tới ngày hôm ấy, một ngày của năm 1933.
Một ngày kia, địa ngục đó bỗng nhiên mở cửa. Người Do Thái bị cấm ra ngoài vào buổi tối, thậm chí có cả một sắc lệnh không cho phép họ sở hữu đài radio, do vậy, bắt đầu từ đó, Gestapo (cơ quan cảnh sát mật của chính phủ Đức Quốc Xã) thường bất thình lình xuất hiện trong giờ cơm tối, đập vỡ đài radio hay điểm danh số người trong nhà.
Dù chỉ một người trong gia đình vắng mặt thì cảnh sát vẫn tự tiện lục soát mọi nơi, từ nhà tắm cho đến phòng vệ sinh, kể cả người ta có đang giải quyết nhu cầu cá nhân dở dang cũng sẽ bị lôi xềnh xệch ra ngoài và bắt đứng nghiêm bất động cho tới khi chúng đếm đủ số người.
Luật sư và bác sĩ người Do Thái đều bị tước bằng, không còn công việc, nhiều người đã phải nhanh chóng thoát li khỏi đất nước.
Khi đi ra ngoài vào ban ngày, để dễ bề phân biệt, người Do Thái buộc phải đeo hình ngôi sao trên ngực áo. Trong số dân thường người Đức cũng có nhiều kẻ chẳng còn nhân tính, chúng ném đá hoặc nhổ nước bọt vào những người Do Thái. Dần dần, người Do Thái không còn yên tâm mỗi khi ra khỏi nhà.
Dù luôn sống trong nơm nớp lo sợ nhưng gia đình Hannah vẫn trang trải được cuộc sống hằng ngày nhờ có cửa hàng.
Nhưng rồi biến cố ập đến khi Hannah lên mười một tuổi.
Ngay thời khắc quân Gestapo tiến vào cửa hàng nhà Hannah và nhà thờ gần đó, kính cửa sổ trưng bày của cửa hàng cùng những tấm kính màu của nhà thờ đã lập tức vỡ vụn thành từng mảnh. Cha Hannah kêu mẹ cô bé chạy trốn ngay nhưng cô con gái cả Nina lúc đó đang ở cùng với mẹ lại muốn cố mang theo chút hàng hoá của cửa hàng bất chấp cơ thể tàn tật. Khoảnh khắc Nina túm vào đống đồ đạc bằng cả hai tay, cô bị quân Gestapo bắt được.
Bọn Gestapo chẳng mảy may thương xót, chúng thản nhiên dí họng súng vào trán Nina.
Người mẹ hoảng hốt chạy tới bám vào cơ thể cô con gái rồi cầu xin lũ cảnh sát tha mạng cho con nhưng chính bà cũng bị chúng dùng bốt đạp thật lực vào người và ngã dúi dụi ra đằng sau. Phần gót những đôi ủng được dùng khi cưỡi ngựa tua tủa những đốt tròn trông như hàng loạt bánh ròng rọc tí hon, vì thế nên chẳng mấy chốc mà quần áo người mẹ rách toạc, thấm đầy máu.
Nina bị quân Gestapo xốc dậy và chúng lệnh cho cô phải bước ra khỏi cửa hàng. Nhưng trong trạng thái sợ hãi tột độ, cái chân bị tật của cô càng nặng nề tê liệt. Cô chỉ biết gắng gượng kéo lê chiếc chân phải ra phía bên ngoài cửa hàng. Quân Gestapo vừa nhìn cảnh tượng ấy vừa cười phá lên.
“Đúng là quân vô dụng.”
Một tên lính Gestapo nói vậy rồi cởi dây xích cho hai con chó lớn mà chúng dẫn theo.
Nina dĩ nhiên không có đường trốn. Chẳng bao lâu lũ chó đã cắn nát cái chân phải lê lết của Nina suốt từ bắp đùi trở xuống, tiếng thét thảm thương của cô bé vang vọng khắp khu phố.
Sức lực của người cha chẳng thể bảo vệ nổi con gái, ông Janssen ngồi thụp dưới quầy, tay bịt chặt đôi tai và cầu nguyện thánh thần. Cho dù ông giận sự yếu đuối bất lực của bản thân, không biết làm gì ngoài cầu nguyện, nhưng giờ đây đó là việc duy nhất ông có thể làm.
Bà Janssen trước cảnh tượng quá đỗi tàn khốc đã ngất lịm đi, thậm chí còn chẳng cầu nguyện nổi.
Lúc này, Nina chỉ còn thở thoi thóp, nhưng cô bé vẫn sống.
“Ồ, thật đáng thương. Để tao giúp mày nốt nhé, rồi mày sẽ chẳng thấy đau đớn gì nữa đâu.”
Tên Gestapo thò tay vào túi áo măng tô đen, rút súng ra bắn thẳng vào ngực Nina. Âm thanh lạnh lùng tàn nhẫn vang vọng khắp vùng trong ánh chiều tà, tất cả mọi người đều không thốt nên lời.
Tiếng súng bắn vào người cô gái bé nhỏ chỉ trong chốc lát đã làm tê liệt trái tim của toàn thể người dân trong vùng.
Khi mọi người vẫn còn run rẩy trong sợ hãi, mặt đất đã nhuốm màu đỏ lòm bởi máu túa ra từ thân thể của Nina. Hoà trong sắc đỏ rực của vầng dương đang lặn, thị trấn xưa kia vốn bình yên thoáng chốc bị che phủ bởi thứ màu tang thương chết chóc.
Vậy là Nina trở thành nạn nhân đầu tiên của thị trấn nhỏ.
Sau khi quân Gestapo rời khỏi, cha mẹ Nina chạy tới ôm rịt lấy thân xác không còn sinh khí của con gái, cất lên những tiếng khóc đau đớn vật vã đến xé lòng, than trách bản thân bất lực không thể cứu đứa con bé bỏng. Nhưng tất cả đều đã muộn màng, cô bé Nina hiền lành chẳng bao giờ có thể mở mắt ra được nữa.
Sau đó, những hành vi bạo ngược của bọn Gestapo lặp đi lặp lại, gần như biến thành chuyện thường ngày, người ta có thể nhìn thấy xác người nằm rải rác ở bất kì nơi đâu trong thị trấn.
Thậm chí không thể đếm hết có bao nhiêu gia đình chỉ vì thiếu mất một thành viên mà cả nhà bị sát hại. Họ bị vứt bỏ bừa bãi bên vệ đường, thi thể lúc nhúc giòi bọ, thịt bị chuột gặm nhấm và toả ra thứ mùi khó chịu xộc thẳng vào mũi người đi đường.
Chỉ trong vòng một tuần đến mười ngày, thị trấn này chẳng còn là nơi người ta có thể sống như một con người được nữa.
Từ lúc đó, những người Do Thái và người Ba Lan chưa bị giết hại lần lượt bị dẫn đi. Họ bị đưa tới các Trại tập trung.
Vào một đêm nọ, mười ngày sau vụ việc của cô con gái lớn, gia đình Janssen quyết định âm thầm rời đi để di chuyển sang thị trấn kế bên.
Họ chỉ mang theo lượng hành lí có thể xách được bằng tay, cứ hai người một rời khỏi nhà để tránh bị chú ý. Đến cuối, khi ông Janssen chuẩn bị đẩy chiếc xe lăn có bà cụ ngồi bên trên ra khỏi nhà thì nghe vọng lại tiếng giày của Gestapo dồn dập vang lên giữa thị trấn đang im ắng.
Có kẻ nào đó đã bí mật báo lại cho cảnh sát chăng? Bà của Hannah biết rằng mình không thể trốn thoát.
“Mẹ sẽ chỉ làm vướng chân vướng tay mọi người, con là người bảo vệ cả gia đình mình, cả nhà không thể để mất con. Mẹ đã chuẩn bị sẵn tinh thần rồi. Con hãy mau ra phía cửa sau mà trốn đi.”
Đối với ông Janssen, người mà kí ức về cô con gái Nina bị sát hại vẫn còn đọng lại sắc nét, việc phải quyết định một lần nữa giương mắt chứng kiến mẹ bị giết đủ khiến ông cảm thấy muốn phát điên.
Nhưng để bảo vệ gia đình, ông không thể chần chừ. Ông Janssen hôn mẹ, như một lời giã biệt của kiếp này, rồi rút từ trong hành lí ra cuốn Kinh Cựu Ước, ấn chặt nó vào đôi bàn tay nhăn nheo của bà.
“Làm cái gì thế! Không phải lúc để khóc lóc uỷ mị đâu, đứa con bất hiếu này!”
Bà cụ quở trách con trai bằng giọng khản đặc, cố gắng không để bên ngoài nghe thấy.
Ông Janssen đương nhiên hiểu rõ mẹ nói lời khó nghe là để ông dễ dàng rời khỏi nơi này. Ông cũng biết rằng nếu mình bị Gestapo bắt được thì những người trong gia đình đã chạy trốn trước đều sẽ trở thành vật hi sinh.
Như thể gạt bỏ tất cả mọi thứ, ông Janssen lao ra khỏi đó.
Chỉ còn bà của Hannah ở lại, lặng lẽ nhắm nghiền đôi mắt, lẩm nhẩm cầu nguyện Chúa Trời. Đúng lúc đó, hai tên Gestapo phá sập cửa ra vào của cửa hàng và bắt đầu leo lên các bậc thang.
“Cả nhà đi đâu cả rồi!?”
Bà cụ vẫn nhắm nghiền mắt, không hề nhúc nhích. Cụ vẫn tiếp tục cầu nguyện đức Chúa Trời, bằng cách đó cụ giữ cho tâm mình thanh thản.
Một tên nói với đồng bọn.
“Hỏng cả mắt lẫn tai luôn à?”
Tên kia liền hất hàm như thể muốn ra hiệu cho hắn “nhìn cái đó đi”.
Cuốn Thánh kinh bà nắm trong tay đang rung lên khe khẽ.
“Mụ già khốn kiếp! Mụ bị chúng bỏ lại phải không? A ha ha, thật đáng thương!”
Hắn vừa cười ha hả, vừa từ từ đẩy chiếc xe lăn từ đằng sau. Khi chiếc xe lăn dừng lại ở chiếu nghỉ cầu thang, hắn lấy cái chân đi bốt của mình đạp vào phần lưng ghế. Chiếc xe lăn cùng bà cụ ngồi trên đó nảy lên nảy xuống dữ dội rồi lăn một mạch xuống cầu thang.
Bà cụ không thốt lên dù chỉ một lời cho tới giây phút cuối cùng.
Cụ chết đi không một tiếng gào thét khóc than, như một con dân Do Thái ngoan đạo.
Có lẽ cụ đã quyết với lòng mình, nhất định không được kìm chân người con trai vừa chạy thoát. Đó là giây phút cuối cùng khi cụ già đáng kính đã hoàn thành nghĩa vụ của bản thân, nhưng nhìn thấy cụ bị chôn vùi bên dưới chiếc xe lăn nặng nề, hai tên Gestapo lại ôm bụng cười ngặt nghẽo.
2.Kể đến đây, ông Kalzas đưa ly cà phê đã nguội lên miệng rồi nhún vai.
Asuka từng nhiều lần xem người ta tái hiện lại tình cảnh những người Do Thái bị bức hại trên ti vi và qua phim ảnh, nhưng trong câu chuyện của một người đã thực sự sống qua thời kì đó vẫn có sức mạnh lớn lao vượt xa những cảnh quay.
“Chúng đùa giỡn với tính mạng con người chỉ như loài sâu bọ thôi sao?”
Chú Kiyohara kêu lên như nói thay cho cảm xúc của cả ba người.
“Còn tệ hơn cả loài sâu bọ.”
“Ông Kalzas, sao ở Đức lại có những người tàn bạo như vậy ạ?”
“Không phải cứ người Đức là xấu xa tồi tệ đâu, từng người từng người đều là một cá thể tuyệt vời. Cháu biết điều cốt yếu là gì không Asuka? Dẫu là người bình thường nhưng một khi bị kéo vào, trở thành một phần của tổ chức, họ có thể thản nhiên làm những điều tàn nhẫn. Con người như vậy đấy. Đó chính là lí do con người không phải là thánh thần. Nhưng các cháu khác. Ta cũng khác, chúng ta nhất định không trở nên như vậy.”
“Sao ông có thể nói chắc chắn điều đó ạ? Chúng ta không phải là thánh thần cơ mà.”
“Vì chúng ta có âm nhạc. Vì trong tim chúng ta luôn có Mozart và Schubert… Nào, hãy thử nhắm mắt lại mà xem. Cháu có nghe thấy ‘Lời từ biệt’* của Chopin* vang lên không? Đó…”
Chu thich: Tên gọi khác của “Điệu Valse La giáng trưởng Op.69, No. 1”, do Chopin sáng tác, ban đầu được viết với mục đích dùng làm giai điệu từ biệt Maria Wodziriska - người từng đính hôn với Chopin.
Chu thich: Tên đầy đủ là Frederic François Chopin (1810-1849), nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ba Lan vào thế kỉ 19, ông có cha là người Pháp và mẹ là người Ba Lan, ông nổi tiếng với các tác phẩm dành cho đàn piano.
Asuka cảm thấy dường như mình hiểu được những gì ông Kalzas muốn nói.
Dù không có âm thanh nào cất lên, nhưng trong thâm tâm, ta vẫn nghe thấy tiếng nhạc. Cảm giác như thể đang trôi bồng bềnh trong một thế giới siêu thực, lớn lao, ấm áp đủ đầy.
Đó cũng chính là cảm giác an tâm khi được vòng tay mẹ chở che, cả thân hình lọt thỏm trong lòng mẹ, điều mà trước đây ta đã được trải nghiệm rất nhiều lần.
Asuka nhắm mắt lắng nghe câu chuyện của ông Kalzas qua lời phiên dịch của chú Kiyohara.
“Vì vậy mà chúng ta luyện tập chơi nhạc. Nếu ta chỉ chơi nhạc để ra vẻ cho người khác thấy mà chán ghét trong lòng, âm nhạc sẽ chẳng thể vọng tới tâm hồn ta. Nếu kiên trì luyện tập hằng ngày, dẫu trong hoàn cảnh không may, ta vẫn cảm nhận được tình yêu của Chúa Trời. Vậy là, những kẻ yêu âm nhạc như chúng ta sẽ không bao giờ có thể phản bội lại tình yêu của Chúa. Chẳng phải vậy sao?”
Chú Kiyohara gật đầu đồng tình.
Asuka thực sự cảm thấy biết ơn khi được chỉ dạy đúng đắn về ý nghĩa của việc sống cùng âm nhạc. Không phải nghe từ ai khác chung chung, mà chính từ một nạn nhân đã sống sót của Trại tập trung Auschwitz. Điều đó giúp Asuka hiểu ý nghĩa của âm nhạc sâu sắc hơn bao giờ hết.
“Người Đức rất yêu âm nhạc. Họ yêu âm nhạc tới mức không có âm nhạc thì chẳng thèm động tới thứ gì. Vậy nên Hannah mới có thể sống sót rời khỏi Auschwitz.”
“Chẳng phải nếu yêu âm nhạc thì sẽ không trở thành kẻ ác hay sao ạ?”
“Asuka, yêu âm nhạc và có âm nhạc trong tim là hai việc khác nhau. Có hàng vạn người yêu âm nhạc. Những người ấy chi phối âm nhạc. Còn chúng ta, chúng ta biết rằng trong từng thanh âm có sự sống. Người chơi đàn nôn nóng thì nhạc cụ ngân lên thanh âm giận dữ. Nếu ta chơi nhạc với trái tim nhân hậu thì âm sắc sẽ dịu dàng đến vô biên. Người ta nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, nhưng âm thanh cũng là cửa sổ tâm hôn đấy. Trái tim ngạo mạn, trái tim tham lam, hay trái tim đố kị, tất cả đều có thể bộc lộ qua các thanh âm. Chúng ta thường xuyên nhìn nhận lại trái tim mình bằng âm sắc. Đó là sự khác biệt to lớn giữa người chơi nhạc với những người chỉ nghe nhạc đơn thuần.”
Ông Kalzas nhìn về phía Asuka như thể muốn nói “Cháu hiểu chứ?”
Vì chính Asuka cũng đồng cảm với những lời ông cụ nói, nên cô bé khẽ mỉm cười thay cho câu trả lời. Nhận được phản ứng đó của cô, khoé miệng ông Kalzas cũng giãn ra thành một nụ cười.
“… Phải rồi. Khi đã lớn tuổi, ta mới quay lại Ba Lan. Trước đó thì ta sang Mỹ. Hồi đó, trong số năm gương mặt người nổi tiếng được đăng ảnh lớn trên tờ New York Times có một nhà giáo âm nhạc người Nhật khiến ta không khỏi tò mò. Sau đó ta đã tới xem buổi hoà nhạc của những đứa trẻ được ông ấy dạy dỗ tại Carnegie Hall*. Có đứa khoảng năm tuổi, cũng có những đứa đã tầm tuổi Asuka.”
Chu thich: Hội trường hòa nhạc ở New York.
Ông Kalzas kể tiếp.
Trong ấn tượng của ông, người Nhật rất dễ thương nên có lẽ thường trông trẻ hơn so với tuổi, nhưng tất cả những đứa bé chơi nhạc hôm đó đều rất lễ phép. Vốn băn khoăn không biết lũ trẻ còn nhỏ xíu thì sẽ chơi gì cho buổi hoà nhạc, ông đã rất bất ngờ khi thấy chúng có thể chơi ngon lành những bản concerto* hay sonata* mà các nghệ sĩ chuyên nghiệp là người lớn vẫn thường biểu diễn.
Chu thich: Tác phẩm âm nhạc được soạn với hình thức chia làm ba phần: khoan thai, chậm, nhanh, thông thường có một nhạc cụ solo (piano, violin, cello hoặc sáo) được đệm bởi dàn nhạc.
Chu thich: Một thể loại tác phẩm âm nhạc cổ điển viết cho một hay nhiều nhạc cụ. Từ giữa thế kỉ 18, thuật ngữ thường được sử dụng cho các tác phẩm có khuôn màu ba hoặc bốn chương, viết cho một hay hai nhạc cụ.
Những thanh âm tuyệt vời ấy làm rung động trái tim ông Kalzas, khiến ông không thể kìm được nước mắt. Ông có cảm giác như mình đã nhìn thấy Chúa Trời thông qua lũ trẻ.
“Qua kĩ thuật điêu luyện của những đứa trẻ ấy, ta biết rằng chúng hẳn được nuôi dưỡng trong những gia đình ấm no, ngập tràn hạnh phúc. Ta nghĩ nếu không có âm nhạc, những đứa trẻ đó sẽ lớn lên đầy kiêu ngạo, nhưng nhờ chơi nhạc mà chúng dường như trở thành những người có tâm hồn phong phú, giàu tình thương tựa như thiên sứ. Người thầy dẫn dắt những đứa trẻ ấy có vẻ đã nhiều tuổi, nhưng vẫn là một quý ông khoẻ mạnh với những bước chân vững chãi. Và ngạc nhiên thay, vợ ông ấy là một người Đức… Chuyện này đã tác động rất mạnh đến ta, nên đến giờ ta vẫn nhớ rõ, như thể mới xảy ra hôm qua.”
Câu chuyện xảy ra mười năm sau khi ông Kalzas thoát khỏi Trại tập trung.
Để quên đi tất cả những gì đã xảy ra, ông Kalzas tới Mỹ, trong khoảng thời gian ấy, cuộc sống của ông cuối cùng cũng ổn định trở lại, ông đã có được trong tay sự tự do. Địa ngục vẫn còn đeo bám ông ở nơi sâu thẳm tâm hồn, nhưng nhờ có buổi hoà nhạc ấy, ông cảm thấy mình như được tái sinh.
“Ta đã nghĩ phải chăng Nhật Bản là đất nước được Chúa Trời lựa chọn để phát đi thông điệp hoà bình. Vậy nên lần này khi biết sẽ được gặp người Nhật, ta chẳng thể ngồi yên. Với ta, nước Mỹ giống như người cha giành chiến thắng bằng niềm tin vào hoà bình và tự do, còn nước Nhật như người mẹ dịu dàng ôm lấy ta và chữa lành mọi thương tổn.”
“Ông Kalzas, cháu đã đứng trên sân khấu đó!”
Nghe chú Kiyohara nói vậy, ông Kalzas đứng dậy khỏi ghế và kêu ồ lên đầy cảm kích.
Sau đó, vẫn đứng nguyên tại chỗ, ông lại chùng vai xuống, rồi ông vừa chầm chậm bước đi giữa căn phòng, vừa bắt đầu kể tiếp câu chuyện.
3.“Cả gia đình Hannah đã sống khoảng một năm dưới tầng hầm của một gia đình người Đức mà họ quen biết ở thị trấn bên cạnh.”
Căn nhà sơn màu trắng bên ngoài, xây hai tầng trên mặt đất và một tầng hầm.
Đi từ ngoài vào hành lang tầng một sẽ thấy một cầu thang bên tay phải, có thể dùng nó để lên tầng hai và xuống tầng hầm. Tuy nhiên, lối xuống hầm được che lại bằng một tấm ván và phủ thảm dày lên trên.
Căn phòng nằm sâu bên trái là phòng ăn, từ đó có thể đi thẳng ra mặt chính diện của hành lang. Phía trước phòng ăn có một bãi cỏ rộng, trong góc trồng cây việt quất.
Tầng hầm ở ngay phía dưới phòng ăn, kèm theo một cầu thang hẹp giúp người trong nhà ra vào tầng hầm từ bên dưới bàn ăn để lấy rượu vang và thực phẩm cất trong kho.
Có điều, căn hầm cùng lắm chỉ rộng khoảng mười tám mét vuông, đương nhiên không có cửa sổ để lưu thông không khí, lại còn thoang thoảng mùi ẩm mốc, nhưng nhờ có chiếc bàn ăn và tấm thảm dày che đi nên đây cũng là nơi trú thân an toàn nhất.
Năm người gồm cha mẹ Hannah, Hannah, em trai Hannah tên là Andrew và ông cô bé đã sống dưới đó. Andrew khi ấy chỉ mới ba tuổi đầu.
Ông Janssen không được ở bên mẹ tới giây phút cuối và sau đó cũng chẳng thể quay lại tìm bà. Tuy vậy, để làm yên lòng mọi người trong gia đình, ông nói vì chạy trốn hai người sẽ không thoát được nên đành gửi bà cụ lại nhà một người dân tốt bụng gần đó.
Ông Janssen là người duy nhất biết số phận của mẹ mình. Ông căm giận bản thân bất hiếu, trách cứ mình không thể bảo vệ con, ông ngày càng đắm chìm vào rượu như để chối bỏ những cảnh tượng dù muốn quên cũng chẳng thể nào quên được.
Cư dân thị trấn này đa phần là người Đức, vì vậy quản thúc ở vùng này không đến nỗi quá khắt khe. Tuy nhiên, khoảng hai lần một tháng, cảnh sát vẫn ghé qua kiểm tra xem người dân có che giấu người Do Thái trong nhà không.
Ngay sau mỗi lần kiểm tra, Gestapo sẽ không ghé qua nhà trong một thời gian. Hiểu được chuyện đó, nên hai đứa trẻ nhà Janssen thường tranh thủ lúc ấy để lên tầng một, nơi có trổ những ô cửa sổ. Tuy nhiên, khi có bất cứ ai tới thăm, chúng lại phải lập tức xuống hầm.
Ban ngày, chủ nhà thường kéo rèm che đi ô cửa sổ hướng ra phía ngoài đường nên trong nhà khá tối. Nhưng nếu lúc nào cũng kéo rèm sẽ dễ làm nảy sinh các mối nghi ngờ, vì vậy mỗi khi nghe tiếng ủng gõ lộp cộp của quân Gestapo, gia đình lại cố tình mở cửa sổ ra và hát mấy bài đồng dao Đức.
Tiếng mở cửa sổ và dậm chân hai nhịp là lời báo hiệu “Trốn ngay, tạm thời đừng lên tiếng!” cho những người ở dưới hầm.
Hannah lúc đó khá thích thú với trò chơi trốn tìm này.
Cậu em trai Andrew có lẽ vẫn còn cảm thấy trên mặt đất rất đáng sợ nên chẳng dám rời mẹ, cậu bé hầu như chỉ loanh quanh chơi ở dưới hầm, kể cả những lúc Hannah lên tầng một.
Người mẹ vẫn lấn cấn lo lắng Andrew có thể bị bệnh còi xương. Nhưng hơn tất cả, bà sợ rằng nếu lỡ bị phát hiện thì bà sẽ đánh mất thiên sứ bé bỏng của mình, vậy nên bà không thể cho con lên trên mặt đất.
Ở dưới hầm, không được có một chút lửa nào để tránh bị ngạt khí CO*, cho nên bữa tối của nhà Janssen đều do gia đình người Đức đang cho họ trú nhờ nấu giúp.
Chu thich: Carbon monoxit.
Bởi vậy, vào những ngày có khách khứa tới chơi buổi sáng, họ đương nhiên sẽ không có bữa ăn. Thỉnh thoảng khi chuyện đó xảy ra, lũ trẻ cứ lèo nhèo ăn vạ nên người mẹ thường chỉ ăn một phần ba chỗ bánh mì của mình, còn lại bà để làm đồ ăn dự phòng lúc căn. Bà cũng mở sẵn một chai rượu vang, chờ cho cồn bay hết, sau đó sẽ rót vào chỗ bánh mì đã khô cứng rồi đưa bọn trẻ ăn.
Người Đức đã cưu mang gia đình Janssen là bà vợ nhà Klaus, cũng là giáo viên dạy đàn violin của Hannah.
Do nhà của vợ chồng Klaus chỉ cách thị trấn Hannah ở hai ki-lô-mét nên thời bình Hannah vẫn thường đi bộ từ nhà tới chỗ bà Klaus để tập đàn. Với đôi chân của một đứa trẻ, đi một quãng đường như vậy cũng khá là mất thời gian, nhưng trong những lúc đi đi về về, Hannah thường tranh thủ kéo những bản nhạc đã học và nhảy chân sáo về nhà.
Nhờ đó, Hannah chơi rất tiến bộ, em thuộc làu hết bản nhạc này tới giai điệu khác.
Ông Klaus là chỉ huy một dàn nhạc nào đó ở Berlin, nghe đâu tại Đức, ông cũng khá nổi tiếng.
Bà Klaus là người hiền lành, tươi vui. Về sau, Hannah nghe bà Klaus kể lại rằng, bà đã gặp gỡ chồng mình khi còn đang chơi violin trong dàn nhạc ấy, thế rồi, sau khi kết hôn, bà rời khỏi dàn nhạc, về nhận học sinh tại nhà.
Ông Klaus hay phải ra nước ngoài công diễn nên thường xuyên vắng nhà, có lẽ vì thế mà hai vợ chồng vẫn chưa có một đứa con.
Hannah thường xuyên tới luyện tập nên em là một trong những học sinh được bà Klaus hết mực yêu thương.
Gia đình Hannah đến nương tựa nhà vợ chồng Klaus là do bà Klaus kiên quyết mời cả nhà tới, cũng bởi bà nghe trên phố người ta đồn thổi về cô chị gái đáng thương của Hannah sau ngày vụ việc ấy xảy ra.
Ông Janssen vì không muốn kéo gia đình Klaus vào rắc rối nên đã một lần từ chối. Nhưng ông cũng cảm nhận được giới hạn khi phải nuôi dạy con trong thị trấn đầy xác chết cùng nỗi sợ hãi, và tới lần thứ ba nhận được lời mời, ông quyết định đưa gia đình đến nhà Klaus trú thân.
Khi sắc lệnh cấm người Do Thái ra ngoài được ban bố, kể cả ban ngày, Gestapo cũng lượn lờ khắp nơi để kiểm soát gắt gao người Do Thái. Thậm chí lúc đó có cả những người dân cổ xuý cho hành động giết người của chúng. Để tránh gặp những người như vậy, ngoại trừ lúc đi mua nhu yếu phẩm ở mức tối thiểu, gia đình Hannah từ bỏ việc ra khỏi nhà.
Đương nhiên khi đó, Hannah không thể đi tập đàn suốt mấy tháng trời, nhưng lúc ở nhà, em vẫn thường kéo đàn violin hoà với tiếng piano của mẹ, nên em nắm rất vững những gì đã học qua.
Bà Klaus thỉnh thoảng vẫn nghe ngóng tình hình luyện tập của Hannah qua mẹ em. Bà còn chỉ cho bà Janssen chương trình học của Hannah nữa.
Hannah luyện đi luyện lại kĩ thuật láy âm, rung âm, hợp âm* và cả những giai điệu em đã được học tính đến thời điểm ấy, nhờ vậy, em có thể kéo đàn và nhấn nhá những nốt mạnh yếu trầm bổng sao cho giàu chất nhạc hơn. Không cần phải vội vàng ngó thử xem những bản nhạc tiếp theo là gì, bởi em nghĩ sẽ sớm tới ngày em được học đàn trở lại.
Chu thich: Trong tiếng Anh là: trill, vibrato, chords.
Trong khoảng thời gian này, ôn tập bài cũ quá nhiều khiến Hannah thấy chán, nhưng đây lại là yếu tố cơ bản mài giũa khả năng chơi đàn của Hannah. Thậm chí có thể nói, chính giai đoạn ấy đã thúc đẩy tài năng thiên phú của Hannah nở rộ.
Kể từ khi chuyển tới nhà Klaus, mỗi khi Gestapo đi khuất, Hannah lại dồn hết tâm sức vào việc tập đàn.
Thật may mắn bởi hằng ngày em luôn có bà Klaus làm giáo viên hướng dẫn tại nhà.
Bà Klaus luôn khen ngợi Hannah. Dù Hannah có lúc chơi lẫn lộn các quãng âm làm phát ra những âm thanh kì cục thì bà cũng tuyệt đối không bao giờ mắng mỏ. Tuy nhiên, những khi em cố tình giả vờ không nhận ra những nốt sai mà chơi tiếp qua đoạn khác, bà sẽ dùng bút chì gõ vào ngón tay trái của Hannah. Sau đó, bà nhất định sẽ quở mắng một câu duy nhất.
“Làm người, không được lừa dối chính mình. Tiếng của trái tim lương thiện là tiếng nói của Đức Chúa.”
Qua mấy lần bị nhắc nhở, Hannah đã ghi lòng tạc dạ câu nói này, nhưng em không biết đó là câu nói của Lev Tolstoy”*.
Chu thich: Tên đầy đủ là Lev Nikolayevich Tolstoy (1828-1910), tiểu thuyết gia người Nga, người theo chủ nghĩa hoà bình, nổi tiếng với những tác phẩm: “Chiến tranh và hoà bình”, “Anna Karenina” v..v…
Bà Klaus cho Hannah luyện tập những bản nhạc ca tụng nước Đức có vẻ hợp sở thích của lính Đức, ví như “Tannhäuser”* của Wagner*. Hơn nữa, các buổi luyện thường diễn ra trong sự chỉ dạy nghiêm khắc, buộc Hannah phải học thuộc lòng và chơi được bất cứ chỗ nào trong bản nhạc. Đến một hôm, ông Janssen không thể kìm lòng đành phải hỏi thẳng bà Klaus.
Chu thich: Tên một vở opera có ba chương được Richard Wagner soạn năm 1845 với tên chính thức là “Tannhäuser und der Sängerkrieg auf Wartburg”, tạm dịch nghĩa là “Tannhäuser và cuộc thi hát ở Wartburg”.
Chu thich: Tên đầy đủ là Wilhem Richard Wagner (1813-1883), nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, đạo diễn kịch, nhà lí luận âm nhạc của Đức, nổi tiếng với các tác phẩm opera.
“Sao cháu nó lại phải chơi những bản nhạc ca ngợi nước Đức thế ạ?”
“Nghe này, anh Janssen, chỉ cần còn chơi được những bản nhạc này là chúng ta sẽ không bị nghi ngờ gì cả. Về cơ bản, kể cả lính Đức có loanh quanh ngoài kia cũng không sao. Hơn nữa, bản nhạc này sẽ thành bùa hộ mệnh cho Hannah. Dù có bất cứ chuyện bất hạnh nào xảy đến, Hannah nhất định vẫn sẽ tự bảo vệ được bản thân. Anh không nghĩ vậy sao, anh Janssen?”
Biết được tấm thịnh tình sâu sắc của bà Klaus, ông Janssen cảm thấy hổ thẹn.
“Xin anh đừng lo lắng gì. Đứng trước âm nhạc, người Đức cũng chỉ là những chú mèo nhỏ mà thôi. Nhất định cách này sẽ có tác dụng. Cả Andrew nữa, đợi chút nữa là thằng bé có thể học chơi một cây violin nho nhỏ, nhưng thằng bé nhỏ con quá… Tôi mong thằng bé chóng lớn, rồi tôi sẽ dạy cho cu cậu chơi được ít nhất là một bản nhạc phòng thân.”
“Thưa cô giáo, nhà chúng tôi cũng chẳng còn bao nhiêu tiền để trả tiền học hằng tháng, chẳng những cô miễn học phí cho Hannah mà còn lo cho chúng tôi đến cả chuyện ăn uống, quả thật tôi không dám làm phiền hơn nữa…”
“Anh Janssen, đừng có ngại mấy chuyện vặt vãnh ấy. Chồng tôi là một chỉ huy có tiếng, anh ấy kiếm được lắm. Chúng tôi chẳng lo nghĩ chuyện tiền bạc đâu. Tôi nhận tiền học hằng tháng của các học trò khác là vì nếu không làm thế, lũ nhỏ sẽ chểnh mảng tập tành. À mà anh Janssen này, cuối tháng này chồng tôi sẽ về. Đợi đến tối hôm đó chúng ta làm một buổi biểu diễn nho nhỏ ở nhà cho Hannah được không? Tôi muốn mọi người nghe thử xem con bé đã giỏi đến thế nào. Thật lòng nhé, con bé là thiên tài đấy. Nếu không phải sống trong thời đại này, có khi con bé có thể ra mắt với tư cách nghệ sĩ biểu diễn. Chồng tôi chắc chắn sẽ ngạc nhiên lắm. Tôi có thể nhờ chị nhà chuẩn bị một vài món đồ ăn nhẹ và đệm đàn piano cho cháu được không?”
Ông Janssen chẳng biết nói gì, trong lòng tràn ngập lòng biết ơn, ông nắm chặt tay bà Klaus.
4.Buổi biểu diễn tại nhà của Hannah diễn ra sau khi Gestapo ghé qua kiểm tra ba ngày. Đó là một ngày bình yên êm ả từ sáng.
Rất nhiều tin đồn về thị trấn nơi Hannah từng sống đến tai bà Klaus, nhưng bà không nói một lời nào với gia đình Janssen cả. Ông Janssen có lẽ cũng đã ngầm hiểu mọi chuyện nên chẳng bao giờ ông có ý định dò hỏi tin tức.
“Tôi cảm thấy hạnh phúc nhất là vào những lúc nấu nướng. Cảm ơn bà đã luôn cho phép tôi được phụ giúp.”
Bà Janssen vừa thái táo thành từng lát mỏng rồi rải lên đế bánh táo, vừa nói với bà Klaus.
“Tuyệt vời nhất là tinh thần chúng tôi được thoải mái. Bà còn để ông cụ nhà tôi được nhổ cỏ trong vườn, để chồng tôi phụ giúp dọn dẹp nhà cửa, điều đó giúp chúng tôi thoát khỏi nỗi buồn chán. Tôi không biết phải nói cảm ơn bà thế nào cho đủ.”
“Không đâu, tôi lúc nào cũng chỉ có một mình nên luôn cảm thấy cô đơn. Vì vậy, thật lòng tôi cũng vui lắm. Xin chị đừng bận tâm.”
Khi hai người phụ nữ đang tâm tình với nhau thì ông Klaus trở về.
“Chà, nhà mình có mùi gì mà thơm vậy nhỉ. Anh về rồi đây!”
Vừa nhìn thấy ông Klaus, bà Janssen đứng ngẩn ra một lúc.
Theo lời kể của bà vợ, bà Janssen cũng đã mường tượng ra hình ảnh của ông Klaus ở một mức độ nhất định, nhưng theo mắt nhìn của phụ nữ thì ở ngoài trông ông còn tuyệt vời hơn những gì bà từng nghĩ.
Ông Klaus có đôi mắt xanh sâu thẳm, với mái tóc màu hạt dẻ nuôi hơi dài. Ông để râu từ mang tai nối xuống đến cằm, gương mặt lại có những đường nét ngọt ngào hao hao nhà soạn nhạc Schumann* nữa chứ. Khoé miệng ông đang nở một nụ cười tươi tắn. Dáng vẻ ấy gây thiện cảm cho người khác và dễ được chấp nhận, ngay cả trong xã hội đề cao đàn ông của Hitler và quân đội Đức.
Chu thich: Robert Schumann (1810-1856) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức theo trường phái lãng mạn, ông được ví là người kế thừa tính lãng mạn trong âm nhạc của Beethoven và Schubert.
“A, mình về rồi đấy à? Sao trông mình giống con gấu trước ngủ đông với cái bụng trống rỗng thế kia.”
Nhìn ông Klaus khụt khịt mũi ngửi mùi trong bếp, bà vợ đứng cười khúc khích.
Klaus nhìn vợ, định tặng bà một nụ hôn thay lời chào nhưng nhận ra tay vợ mình đang dính đầy bơ, ông chỉ lại gần và khẽ thơm lên má.
“Rất vui được gặp ông, ông Klaus. Như ông thấy đấy, nhờ ơn của ông bà mà gia đình chúng tôi được sống vui vẻ, tôi quả thật không biết phải cảm ơn ông bà thế nào cho phải.”
“Rất vui được gặp chị. Tôi mới phải cảm ơn anh chị đã tới bầu bạn với vợ tôi. Tay chị cũng đang dính đồ ăn rồi.”
Nói rồi Klaus cũng đặt một nụ hôn phớt lên má bà Janssen.
“Ôi, làm thế nào bây giờ nhỉ, được nhận một nụ hôn từ quý ông tuyệt vời khiến tôi thấy chồng mình bị lu mờ quá.”
“Mình đã được người ta khen đến vậy, thì phải làm sao với cái bụng khó coi đang bắt đầu xồ ra kia đi thôi.”
Nghe vậy, ông Klaus hít một hơi thật mạnh, cố làm bụng xẹp lại như muốn ngầm bảo vợ “thế này đã được chưa?”, rồi cả ba người trong bếp cùng cất tiếng cười giòn giã.
Bữa tối bắt đầu từ lúc năm giờ.
Chỉ riêng ngày hôm đó, vợ chồng Klaus cùng được ngồi quây quần với gia đình Janssen quanh bàn ăn.
Bữa tối hôm đó có cháo yến mạch, phô-mai, bia, xúc xích, sa-lát, bánh mì, khoai tây chiên kiểu Đức, chỉ một vài món giản dị như vậy thôi nhưng đối với gia đình Janssen, một bữa cơm ấm cúng và có thể xin thêm khi ăn hết đã là một niềm hạnh phúc quá đỗi lớn lao rồi.
Klaus đã biết việc của gia đình Janssen qua thư của vợ nên ông mua sẵn sô-cô-la về làm quà cho Hannah và Andrew. Andrew tưởng rằng sẽ có một ông bác đáng sợ trên tầng một, nhưng khi nhận được sô-cô-la từ tay Klaus, nỗi sợ hãi trong lòng cậu bé bay biến hết.
Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, công việc của Klaus bận rộn hơn.
Không còn các buổi biểu diễn cho các nước đối địch như Mỹ nữa, thay vào đó số lần đi công tác gần - đến những doanh trại lính Đức - tăng lên, cũng nhờ vậy mà trong quân đội Đức, Klaus được biết tới rộng rãi và thậm chí còn được đánh giá rất cao.
“Có một chuyện đã diễn ra trong buổi biểu diễn ở trụ sở Đảng Quốc Xã, một ngày sau khi Quốc trưởng Hitler thống nhất Áo. Ngồi chếch hướng về bên trái ngay hàng đầu tiên sát ghế khán giả là một nghệ sĩ biểu diễn violin được gọi là Bậc thầy biểu diễn. Nhưng hôm đó, ngay khi chơi đoạn đầu tiên của “Bản giao hưởng Định mệnh”* của Beethoven thì dây đàn của ông bị đứt. Ngay lập tức, một chiếc đàn khác được đưa từ hàng ghế sau lên để thay thế, nhưng một lần nữa dây đàn của Bậc thầy biểu diễn lại bị đứt tại đoạn dạo “Ta Ta Ta Tằng…” thứ tư. Lần này lại thêm một chiếc violin thay thế từ hàng violin thứ hai phía sau được chuyển lên. Hitler chứng kiến đủ, ông ấy tiến tới chỗ Bậc thầy biểu diễn, ghé vào tai ông ta nói gì đó. Kể từ đó, dây đàn của ông này không bị đứt nữa… Nói thế chẳng sai, nhưng cũng có thể nói một cách khác rằng không cần phải lo dây đàn của ông ta đứt nữa. Cháu có hiểu vì sao không?”
Chu thich: “The Destiny Symphony” hay còn gọi là “Bản giao hưởng số năm” được Beethoven sáng tác trong giai đoạn 1804-1808, đây là một trong những bản giao hưởng nổi tiếng nhất và phổ biết nhất, thường được trình diễn tại các buổi hoà nhạc.
“Vì cây đàn violin sợ Hitler ạ?”
Andrew đan hai bàn tay bé nhỏ vào nhau thành hình chữ thập và run rẩy.
Nhìn thấy Andrew có vẻ hoảng sợ, Klaus quệt mứt việt quất lên miếng bánh quy rồi đưa tới gần khuôn miệng nhỏ xinh của Andrew.
“Đúng rồi, đúng như Andrew nói. Sau đó, khi ta hỏi người nhạc công về những lời Hitler đã nói, ông ta thuật lại như sau: ‘Lần này còn đứt dây đàn nữa, ta sẽ chuyển ngươi tới Trại tập trung.’ Vậy nên ông ta cố hết sức kéo đàn sao cho tuyệt đối không làm dây bị đứt. Ngày hôm đó trải qua hai lần sự cố như vậy nên cả dàn nhạc ai cũng chơi âm rung hay hơn hẳn. Ha ha ha.”
Phải đến hai năm rồi, cả gia đình Janssen mới được ngồi quanh bàn ăn ấm cúng mà không có chút muộn phiền nào. Người nhà Janssen sẽ lại phải xuống hầm, sống những ngày không tiếng cười, vậy nên lúc này tất cả mọi người đều cười cho thật thoả thích.
Andrew từ khi nhận thức được mọi thứ xung quanh đã được dạy dỗ phải luôn khẽ khàng lời ăn tiếng nói. Đây là lần đầu cậu bé thấy cả gia đình ngồi ăn mà cười rộn vang như vậy.
Ban đầu Andrew vẫn còn ngỡ ngàng, chỉ biết tròn mắt nhìn quanh, nhưng rồi em cũng ôm bụng cười ngặt nghẽo. Nhìn bộ dạng của cậu nhóc, hai vợ chồng Klaus cũng cất tiếng cười vang. Dẫu rằng cậu bé vẫn chưa hiểu chuyện gì, nhưng hình ảnh Andrew cố gắng cười khanh khách theo cả nhà thật đáng yêu, ngộ nghĩnh.
Đến khoảng tám giờ, bà Janssen cùng bà Klaus bày bánh táo, hồng trà cùng đĩa hoa quả ra bàn. Lâu lắm mới được ăn một bữa tráng miệng như vậy nên Andrew vui mừng trèo lên ghế sô-pha nhảy tưng tưng, thế là cậu bé liền bị bố mắng.
“Nào, Hannah, giờ cháu hãy cho ta và gia đình được thấy tài năng thiên phú của cháu.”
Klaus ngả người, ngồi lún sâu vào ghế sô-pha.
Hannah chơi Chương bốn của bản “Haffner Serenade”*, khúc Rondo* của Mozart*, rồi đến bản “Largo Epressivo”* của Pugnani*, sau đó, cô bé cùng với phu nhân Klaus chơi bản “Canon”* của Pachelbel*. Bà Janssen vừa đệm đàn piano vừa cảm thấy hãnh diện trước sự trưởng thành đáng ngạc nhiên của con gái.
Chu thich: Serenade là một hình thức âm nhạc cổ điển vốn được sáng tác cho dàn nhạc quy mô nhỏ với mục đích chúc tụng tình yêu, người yêu, bạn bè hoặc để vinh danh người khác. “Bản Haffner Serenade” hay còn gọi là “Bản Serenade số bảy cho cung Rê trưởng” được Mozart sáng tác cho đàn dây vào năm 1776. Bản nhạc được sáng tác để mừng lễ cưới của nhà Haffner, một gia tộc ở Salburg nên có tên là bản Haffner Serenade.
Chu thich: Rondo là hình thức âm nhạc gồm nhiều phần, trong đó có một phần gọi là chủ đề được nhắc lại ít nhất ba lần. Xen kẽ là các đoạn chen có sự khác nhau về nội dung âm nhạc (episode).
Chu thich: Tên thường gọi là Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791), nhà soạn nhạc nổi tiếng người Áo, là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng, quan trọng, có nhiều ành hưởng nhất trong thể loại nhạc cổ điển châu Âu.
Chu thich: Một bản sonata cho đàn violin ở cung Rê trưởng của Pugnani.
Chu thich: Gaetano Pugnani (1731-1798) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ violin người Ý.
Chu thich: Tên gốc là “Kanon und Gigue in D-Dur für drei Violinen und Basso Continue”, có nghĩa là “Bản luân khúc cung Rê trưởng cho ba đàn vĩ cầm và bè trầm đánh số”, là tác phẩm tiêu biểu của Pachelbel cho đàn violin, viết khoảng năm 1680, thường được biết đến với cái tên Canon in D.
Chu thich: Tên đầy đủ là Johann Pachelbel (1653-1706), nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ organ nổi tiếng của Đức.
“Cuối cùng, cháu xin chơi bản ‘Ave Maria’ của Schubert để hướng tới ngày mai.”
Hannah khác với những học sinh khác của bà Klaus, dù phải chịu cảnh bị Đức Quốc Xã truy sát gắt gao, cô bé lại hợp với những bản nhạc du dương chậm rãi, tạo nhiều cảm xúc hơn là những tiết tấu nhanh của Rondo.
Mang theo thanh âm trong trẻo tựa như có khả năng thanh tẩy bất tận vô vàn những cảm xúc khác nhau mà con người ta nếm trải trong đời, bản “Ave Maria” của Hannah chậm rãi đi đến hồi kết.
“Ôi, Hannah, con chơi hay quá, chơi hay quá! Hãy cho ta nghe lại đi.”
Ông Janssen nước mắt đầm đìa ôm lấy Hannah.
Klaus tỏ vẻ rất hài lòng. Hoặc thực ra ông đang ngậm ngùi, không thể không cảm thấy đáng tiếc cho tài năng của Hannah. Hannah không chỉ có khả năng trở thành ngôi sao trẻ tuổi của dàn nhạc, năng lực của cô bé thậm chí sẽ còn nở rộ hơn thế, đủ để đưa em trở thành một trong những nghệ sĩ độc tấu hàng đầu thế giới, vậy mà tài năng hiếm có ấy lại bị chôn vùi bởi thời đại nhiễu nhương này.
“Hannah, cháu là một nghệ sĩ violin hết sức tài năng. Vẫn còn nhiều điều cháu cần phải học hỏi thêm. Ví như khi cháu chơi “Ave Maria”, trong đoạn chuyển từ âm vực thấp dần dần lên cao, cháu hãy dùng toàn bộ vĩ để kéo nhằm cảm nhận sâu hơn, đối diện trực tiếp với những suy nghĩ trong lòng.”
Để làm mẫu cho Hannah, Klaus kéo từ đầu này sang đầu kia của cây vĩ.
Những người khéo léo thường có thể tạo ra âm thanh tương đối ổn chỉ bằng cử động phần phía trước của bàn tay nhưng có vẻ Klaus không muốn Hannah trở thành một nghệ sĩ giống như vậy. Hannah chú tâm vào những gì Klaus vừa nhắc và thử kéo lại từ ô nhịp thứ mười chín cho tới ô nhịp thứ hai mươi ba.
“Đúng rồi. Chú trọng những nốt luyến âm để không bị ngắt giữa chừng. Không để những âm rung bị cắt nhỏ quá. Nào, giờ cháu thử chơi lại từ đầu xem. À phải rồi, tuyệt đối không được quên trái tim mình đâu nhé. Cháu hãy gửi gắm hết những mong muốn của bản thân vào trong khúc nhạc này.”
Hannah nhắm mắt lại.
Tiếng đệm piano của mẹ khe khẽ vang lên.
Hannah mường tượng về một ngày bình yên và hạnh phúc đã qua. Ngày mà em cùng mẹ và chị nướng bánh quy. Buổi sáng ngày em trai em chào đời. “Con chẳng cần ngày gì đặc biệt, vậy nên cầu xin Người hãy trao cho mọi người những tháng ngày bình yên…”
Hannah mải mê kéo đàn, trái tim mang theo những ước nguyện vô cùng giản dị, và khi giai điệu chính lặp tới lần thứ ba, bản nhạc đi tới hồi kết thúc, tựa như các âm thanh đã dần dần tan biến.
Klaus không thể vỗ tay tán thưởng hay cất tiếng ngợi khen màn biểu diễn của Hannah. Ông vẫn nhắm nghiền đôi mắt. Hannah lo lắng cất tiếng gọi.
“Bác Klaus?”
Klaus chầm chậm mở mắt, ông đứng dậy khỏi sô-pha và tiến tới gần Hannah, ôm lấy đôi vai vẫn còn quá nhỏ bé của em.
“Cháu là thiên tài. Cứ như có rất nhiều thiên thần vây quanh ta và ta đã được tới chốn thiên đàng vậy. Quá hoàn hảo! Ta không có gì để dạy cháu nữa. Hannah, cháu phải luôn nhớ, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, khi chơi nhạc, hãy gửi gắm tất cả trái tim mình vào âm thanh. Âm thanh là một thực thể sống biết làm lay động trái tim của con người. Ta vẫn thường nói với những thành viên trong dàn nhạc của mình rằng: ‘Thế giới của âm thanh không can hệ gì tới thời đại hay chiến tranh, thế giới đó chỉ tồn tại trên thiên đường, nơi thuộc về Chúa Trời và trong những trái tim lương thiện.’ Chính bởi vậy mà con người không thể ngừng yêu âm nhạc. Những ai đang sống lương thiện thì trái tim càng trở nên đẹp hơn, và những kẻ xấu xa thực chất cũng mong muốn được cứu rỗi tâm hồn, nhờ vào bản nhạc ‘Ave Maria’ mà cháu vừa chơi.”
Hannah vui mừng khôn xiết. Tuy nhiên, một niềm vui to lớn hơn thế vẫn đang chờ đợi em.
“Tiện đây, Hannah, cỡ đàn của cháu nhỏ quá rồi. Nếu không thay sang cỡ đàn chuẩn thì các ngón tay cháu sẽ bị díu vào nhau mất.”
Klaus nói rồi cúi xuống kéo từ trong gầm ghế sô-pha ra một chiếc hộp đựng đàn cỡ chuẩn.
“Cháu mở ra đi. Quà cho cháu đấy.”
Bà Janssen ngỡ ngàng, bà lịch sự từ chối vì không muốn làm phiền ông bà Klaus hơn nữa, nhưng ông Klaus xua xua bàn tay trái và bảo rằng chiếc đàn chẳng phải đồ cao cấp nên mong bà không ngại. Thấy Hannah vẫn dè dặt, Klaus bèn mở hộp đàn hộ cô bé.
“Ôi, tuyệt vời quá. Cái này là đàn cổ ạ?”
Hannah cầm cây đàn lên ngắm nghía.
“Đây không phải là đàn cổ. Đàn chỉ mới được làm gần đây thôi, nhưng một người nghệ nhân với tay nghề bậc nhất thiên hạ đã tốn hai năm để hoàn thành nó với hình dáng như một cây đàn cổ. Cháu thấy đấy, nó giống hệt như một chiếc đàn Cremona* Amati là họ của một gia đình nghệ nhân làm đàn nổi tiếng ở Cremona từ năm 1538 đến 1740, cũng được lấy làm tên gọi cho các cây đàn do họ tạo nên của thế kỉ mười bảy. Nhưng không chỉ có thế, mặt đàn cong nên cây đàn phát ra âm thanh ngọt ngào thanh thoát như đàn Amati*, mà vẫn âm vang vượt trội. Ta thích điểm này nên mới mua cây đàn để dành. Đương nhiên, điều này bí mật với vợ ta.”
Chu thich: Cremona là một thành phố nằm ở phía Bắc nước Ý, vào thế kỉ 16 đến 18, tại đây tập trung nhiều người thợ làm đàn và nhạc cụ nổi tiếng. Cho tới nay, Cremona vẫn là một trung tâm sản xuất nhạc cụ nổi tiếng trên thế giới.
Chu thich: Amati là họ của một gia đình nghệ nhân làm đàn nổi tiếng ở Cremona từ năm 1538 đến 1740, cũng được lấy làm tên gọi cho các cây đàn do họ tạo nên.
Bà Klaus vừa cười vừa trách yêu chồng.
“Mình đúng thật là…”
Nói rồi bà cầm cây đàn từ tay Hannah và chỉnh dây giúp cô bé.
“Ôi, cái gì đây hở mình? Trên chốt chỉnh âm có khắc chữ D.B.L. này.”
“À, cái đó ấy à. Nghệ nhân tên Paul chế tạo cây đàn này và anh ấy đã khắc chúng. Mấy chữ ấy viết tắt cho cụm từ ‘Das Beste Leben’ - cuộc đời tuyệt vời.”
Phu nhân Klaus gật gù ra vẻ tâm đắc, bà thử kéo đàn để bắt đầu chỉnh âm.
“Chà chà…”
“Thấy không?”
Klaus nói với vẻ hãnh diện trước sự ngạc nhiên của vợ.
“Hannah, con hãy thử chơi đoạn đầu bản ‘Largo Espressivo’ với cây đàn này xem.”
Bà Klaus đưa lại cây đàn cho Hannah.
Hannah làm theo lời bà Klaus, chơi đến ô nhịp thứ bảy. Âm thanh tuyệt vời trên mức tưởng tượng khiến Hannah thích mê cây vĩ cầm này.
“Hannah, con chơi thêm một chút nữa đi. Khi nào ta ra hiệu hẵng dừng lại.”
Nhưng rồi bà Klaus đắm mình trong bản nhạc đến nỗi quên cả việc ra hiệu.
“A, xin lỗi con nhé, Hannah. Ta mải nghe quá.”
“Bác Klaus, cháu xin cảm ơn bác. Cháu sẽ giữ gìn cây đàn cẩn thận.”
Hannah kẹp cây đàn dưới cánh tay, khẽ chùng gối cảm ơn vợ chồng Klaus.
Ông của Hannah đang lặng lẽ lắng nghe cuộc hội thoại của mọi người, và lần đầu tiên kể từ khi tới nhà Klaus, ông lên tiếng.
“Ông bà Klaus, thực sự cảm ơn ông bà đã lựa chọn một cây đàn tuyệt vời cho đứa cháu của tôi. Nhưng, tôi thấy nên thế này, thưa ông Klaus. Chúng tôi không thể xin ông bà cả bộ đàn. Tôi, vợ tôi, và cả bố mẹ Hannah nữa, vốn mong có thể cho cháu nó một cây đàn bằng chính sức mình. Ít nhất ông hãy để chúng tôi trả tiền cây đàn được chứ?”
“Thành thật mà nói thưa cụ, tôi nghĩ gia đình nên giữ lại một chút tiền cho bản thân. Thêm nữa, hiện nay đồng tiền của người Do Thái không thể sử dụng được nữa rồi.”
Klaus từ tốn nói.
“Nhà tôi vốn mở cửa hàng buôn bán, tiền cũng đã đổi sang Mác Đức cả rồi. Xin ông đừng ngại. Gia đình chúng tôi quả thật muốn thế. Coi như đây là kỉ vật của chúng tôi…”
Lần này tới lượt bố của Hannah cậy nhờ.
“Mọi người không cần lo lắng đến việc lưu lại kỉ vật làm gì. Gia đình cứ chờ thêm một thời gian nữa, chắc chắn cả nhà ta sẽ lại được quay về với cuộc sống trước kia thôi. Chúa Trời nhất định sẽ không để những chuyện này tiếp diễn mãi.”
Bà Klaus đáp lời.
“Cây đàn vốn đã đắt. Lại thêm cây vĩ và hộp đựng đàn bằng da này nữa. Ít nhất xin hãy để chúng tôi trả tiền cho cây đàn. Nếu không, bản thân chúng tôi cũng khó ở lại đây.”
Mẹ Hannah lên tiếng.
“Tôi hiểu. Hannah, cây đàn này chứa đựng ước mong và tình cảm của cả gia đình cháu. Sau này lớn lên, kể cả khi cháu sống một mình, thì chỉ cần có cây đàn này ở bên, cháu sẽ luôn có thể nhớ về gia đình mình.”
“Ông Klaus, tôi thật sự cảm ơn ông. Không biết bà ấy đang làm gì… Tôi thật muốn cho bà ấy thấy Hannah của ngày hôm nay…”
“Thôi, cũng đã muộn rồi, cho phép chúng tôi dọn dẹp rồi quay lại hầm trú ẩn ạ.”
Ông Janssen nói vội, gần như cắt lời ông.
“Anh Janssen, ở dưới hầm nếu có gì bất tiện, đừng ngại gì cả mà cứ nói với tôi. Cả Andrew nữa, khi nào con quen với chúng ta, hãy lên trên này cùng chị nhé. Vừa hay có một cây đàn cỡ 1 /16 của một cậu bé để lại do không dùng được nữa, Andrew có muốn dùng nó để học chơi đàn violin không?”
“Được như vậy thì tốt quá, thưa bà. Xin nhờ cả vào bà. Còn cuộc sống dưới hầm khiến chúng tôi rất an tâm, không có điều gì bất tiện cả.”
Nghe bà Janssen nói vậy, bà Klaus mở nắp chiếc hộp nằm dưới chân đàn piano, lấy ra một cây violin và đặt lên vai trái của Andrew.
“Con hãy giữ cây đàn thật chắc, kẹp ở cổ nhé. Đúng rồi, giữ thật chắc như thế. Giờ con vươn tay trái ra nào, con có nắm được đến đầu xoắn xoắn kia không?”
Andrew vừa gắng hết sức dùng cằm và vai kẹp chặt cây đàn violin tưởng như sắp rơi tới nơi vừa vươn tay trái ra với vẻ nơm nớp lo sợ.
“Vừa đẹp. Vậy ngày mai chúng ta bắt đầu luôn. Andrew, con sẽ học cách nâng đàn bằng cằm và vai nhé.”
Andrew sung sướng nhảy chân sáo thoăn thoắt. Nhờ buổi hoà nhạc tại gia hôm đó mà cậu bé quên hẳn nỗi sợ hãi với tầng một.
“Quả thật việc gì chúng tôi cũng mang ơn ông bà. Ơn này của ông bà, chúng tôi có trả cả đời cũng không hết. Cầu mong cho ông bà Klaus đây luôn được Chúa Trời chở che.”
Ông nội Hannah vừa nói vừa đưa tay gỡ chiếc mũ Kippah đặc trưng của người Do Thái khỏi đầu, áp nó vào ngực rồi cúi người kính cẩn.
5.Từ hôm sau, Andrew bắt đầu luyện tập.
Cậu bé yên tâm lên tầng một trong mười ngày liền.
Có lẽ, nhờ từng quan sát dáng đứng của Hannah nên phong thái của Andrew tốt hơn hẳn so với buổi tập đầu tiên của chị gái. Chỉ sau bốn ngày, cậu bé đã giữ được đàn cố định, khi thử kéo một chút, đàn cũng không bị xê dịch, vậy là cậu có thể bắt đầu học chơi nhạc.
“Dây mảnh nhất ở đây là nốt Mi. Nào, con kéo đàn thử xem.” Andrew thử lướt cây vĩ từ trên xuống. Một tiếng rít vang lên.
“Đúng rồi, đúng là như vậy đó, Andrew. Nhưng, âm thanh của chị con lại khác. Hannah, con chơi thử nốt Mi đi. Không rung nhé.”
Hannah bắt đầu luyện tập với cây đàn kích thước tiêu chuẩn từ hôm nay. So với chiếc đàn kích cỡ 3/4 trước kia, âm thanh lớn hơn hẳn.
“Andrew, con thấy thế nào?”
“Không phải là tiếng rít mà là tiếng vi vu ạ, thưa cô.”
“Ha ha. Đúng rồi, con hiểu rõ sự khác nhau rồi đấy. Không biết là âm Andrew kéo hay là chị Hannah kéo hay hơn nhỉ.”
“Cái đó thì chị kéo hay hơn ạ.”
Andrew nhìn Hannah với vẻ đầy ngưỡng mộ.
Hannah là chị, nhưng với Andrew từ trước tới nay chưa bao giờ cậu bé ngưỡng mộ hay coi chị trên mình một bậc, chẳng qua chị sinh ra trước cậu có mấy năm mà thôi. Hai chị em được nuôi dạy cùng nhau, đây là lần đầu tiên cậu bé thấy Hannah thật tuyệt vời.
“Vậy ta hãy tìm cách kéo được âm thanh giống như chị nhé. Vì Andrew để vĩ lên dây quá nhẹ nên chỉ kéo ra được tiếng rít thôi, ừm, ta phải giải thích thế nào đây nhỉ… Nào, Andrew, con tạm đặt cây đàn xuống chân đã nào.”
Không biết có phải do vừa đặt ra mục tiêu mới là kéo được âm thanh giống chị Hannah hay không mà mắt Andrew bắt đầu sáng lên hấp háy.
“Ta cùng tập thể dục cho vai nhé. Vươn vai lên, hạ xuống, vươn lên, hạ xuống. Rồi, giờ con thử kẹp đàn lên một lần nữa nào.”
Bà Klaus lấy chun vòng buộc vào đầu cây vĩ một chiếc xe ô-tô đồ chơi nhỏ xinh bằng thiếc.
“Ôi.”
“Thế này thì đầu vĩ của con nặng hơn rồi đúng không? Giờ con kéo lại một lần nữa mà không ấn vĩ lên dây nhé. Lướt thẳng qua khoảng giữa bàn phím và ngựa đàn. Chú ý, không được khom lưng. Chân mở ra và không được đung đưa người nhé.”
Lần này cậu bé không còn kéo ra âm rít nữa mà đã gấn giống tiếng vi vu hơn.
“Đúng, đúng thế đó. Con không được quên âm thanh đó đâu nhé. Con là một thiên tài. Nào, hôm nay chị Hannah sẽ chơi bài ‘Twinkle Twinkle Little Star’, Andrew kéo dây La và dây Mi theo nhịp thôi nhé. Hai ba!”
Đúng như được bảo, Andrew cố gắng chơi theo nhịp điệu mà Hannah biểu diễn.
“A ha, con kéo được rồi. Con chơi được đàn này.”
Tay trái cầm đàn, Andrew reo lên, bật nhảy tưng tưng.
Chỉ trong vòng có một tháng, Andrew đã chơi được bài “Twinkle Twinkle Little Star”.
Khi đã biết đến niềm vui với cây đàn v